1960

Tháng 1:

− Ngày 1: báo Văn học số 75: số kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng LĐVN;

Hồ Chí Minh (Thơ mừng năm mới);

xã luận (Phấn khởi tiến tới);

hồi ký: Trần Độ (Tiếng hát trong xà-lim), Phạm Văn Hảo (Trong làng báo trong rừng), Hoàng Tiêu (Về thăm một cơ sở cách mạng);

‘Tâm tình đối với Đảng’: Tạ Duy Hiển (Khác hẳn ngày xưa), Hoàng Thúy Nga, đoàn kịch Tổng cục chính trị (Đảng luôn ở bên tôi), Thiết Vũ (Ánh sáng Đảng trong Bảo tàng quân đội);

Thơ: Quốc Khánh (Nhắc tên Hồ Chí Minh), Cầm Biêu (Gốc đa trụi biết nói, tự dịch từ tiếng Thái), Xuân Diệu (Lý tưởng), Tú Mỡ (Mất và được);

ca dao: Trần Lê Đệ;

truyện ngắn: Võ Quảng (Cái lỗ cửa);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Cẩm Thạnh (Đêm ngày đuổi lửa), Thanh Hương (Niềm vui);

nghị luận: Bảo Định Giang (Vài nét về văn nghệ Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng);

văn thơ đả kích: Hữu Tiệp (Ba đời bán nước);

‘Đọc sách báo’: Nguyễn Đình (Người cộng sản làm thơ ca, nhân đọc ‘Thơ ca cách mạng’ (thời kỳ bí mật)’, Nxb. Phổ thông), Lương Minh (Đọc tập ‘Ánh sáng mùa xuân’,  Nxb. Văn học).

− Ngày 1: Bế mạc Trại sáng tác văn nghệ ngắn hạn do Sở Văn hóa Hải Phòng tổ chức; 21 bạn viết tham dự, hầu hết là công nhân các xí nghiệp ở Cảng; trong 23 ngày đã hoàn thành: 13 kịch ngắn 1 màn, 18 truyện ngắn, hồi ký hoặc mẩu chuyện nhỏ; 2 nhà văn Hoàng Trung Thông và Bùi Hiển từ Hà Nội xuống nói chuyện với các bạn viết dự Trại. (1)

 

 

− Ngày 1: ra mắt Nghiên cứu văn học, tập san nghiên cứu lý luận phê bình văn học của Viện văn học (Ủy ban khoa học nhà nước); Chủ nhiệm Đặng Thai Mai; Thư ký tòa soạn Hoài Thanh; tòa soạn: 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội; ra hàng tháng vào đầu tháng.

Số 1, đặc san kỷ niêm 30 năm ngày thành lập Đảng:

Đặng Thai Mai (Vai trò lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn học 30 năm nay);

Phạm Bình-Phan Cự Đệ (Mười lăm năm văn học cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng);

Bùi Công Trừng (Câu chuyện đấu tranh buổi đầu trên mặt trận văn học);

Hoài Thanh (Nhìn lại cuộc tranh luận về nghệ thuật hồi 1935-1936);

Nguyễn Văn Trấn (Tờ báo ‘Dân chúng’);

Nguyễn Công Hoan (Thời kỳ Mặt trận Bình dân, tôi đã chịu ảnh hưởng của Đảng);

Vũ Đức Phúc (Thơ và Cách mạng: nghiên cứu  tập thơ ‘Từ ấy’ của Tố Hữu);

Trần Minh Tước (Tên cò Tây với chuyện Cao Bá Quát);

Xuân Thủy (‘Suối reo’ năm ấy);

Hoàng Như Mai (Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám);

Hà Văn Thư (Mấy nét khái quát về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay);

Tú Mỡ (Từ khi tôi theo Đảng);

Phan Nhân (Giá trị phản ánh hiện thực và tác dụng tuyên truyền giáo dục của thơ ca quần chúng);

Lưu Quý Kỳ (Nguồn trong và nguồn đục trên sông Thơ miền Nam).

− Ngày 8: báo Văn học số 76:

nghị luận: Hoàng Trung Thông (Đẩy mạnh mọi mặt công tác nhằm phát triển sáng tác và nâng cao hơn nữa chất lượng của tác phẩm văn học chúng ta), Hồng Cương (Ý nghĩa việc nâng cao chất lượng sáng tác văn học); Nguyễn Đỗ Cung (Bản hiến pháp sửa đổi làm nức lòng giới văn nghệ sĩ);

thơ: Huy Cận (Tặng Đảng), Lam Thanh (Đảng bên tôi), Minh Hoài (Người giảng viên trẻ tuổi);

truyện ngắn: Phạm Văn Minh (Thửa ruộng thí nghiệm);

truyện ký: Trường Sinh (Đi mit-tinh);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Trần Thanh Hương (Bác chủ nhiệm), Tâm Tâm (Truyện một cái diều);

văn thơ đả kích: Huyền Thanh (Diệm kháng gì?), Tú Sụn (Thiên hạ ai lầm);

Đọc sách báo: Trần Thanh Mại (Đọc cuốn ‘Bên dòng sông Bến Hải’), Hưng Nguyên (Tinh thần các anh trên ‘Tuyến đầu tổ quốc’);

Nghệ thuật: Thiết Vũ (Xem bộ phim ‘Những chặng đường lịch sử’), Phấn Đấu (Vài nét về Hội diễn nghệ thuật quần chúng thủ đô năm 1959);

Thơ: Vê-xơ-lin Han-sép, Bulgaria, đang thăm VN (Bài hát ác-mô-ni-ca; Những người đánh cá, Nguyễn Xuân Sanh dịch và giới thiệu);  

− Ngày 14: Viện văn học (thuộc UBKH nhà nước) họp với các nhà xuất bản, các nhà báo, nhà văn, cùng thảo luận một số nhiệm vụ cấp bách về ngôn ngữ học; thay mặt Viện, nhà nghiên cứu Hoàng Phê báo cáo tình hình phát triển tiếng Việt. Cuộc họp nhất trí nhận định sự cấp thiết phải đặt vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt, trước hết là sơ bộ thống nhất cách phát âm, dùng từ Hán-Việt, quy định quy tắc cơ bản về chính tả, ngữ pháp,…(2)

− Ngày 15: báo Văn học số 77:

Thơ: Nguyễn Viết Lãm (Máu chảy về tim), Hoàng Tố Nguyên (Bài thơ của cuộc đời lưu động), Lê Thị Hải Yến (Nhớ vườn), Yến Lan (Mùa xuân lên cao);

ca dao: Lê Minh Ngữ, Thanh Long;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Lê Phú Hưởng (Làm đâu gọn đấy), Vũ Phương Đạm (Anh Mới, xã viên);

hồi ký: Huỳnh Lý (Đảng vào trường tôi);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Vạch mặt nạ ‘kháng chiến’ của Ngô Đình Diệm), Phạm Khắc Đôn (Vị chi mi!), Người Tuần Tra (Lẫn giống USA);

thảo luận về tiểu thuyết Cái sân gạch của Đào Vũ: Đông Hoài (Vấn đề lão Am trong tiểu thuyết ‘Cái sân gạch’), Nguyễn Hải Trừng (Một bức tranh tốt về nông thôn hợp tác hóa);

‘Đọc sách báo’: Hoàng Tiêu (Tinh thần yêu nước của kiều bào ta ở Thái Lan qua mấy bài thơ cách mạng), Việt Ái (Đọc ‘Sống nhờ’ của Mạnh Phú Tư, Nxb. Văn học);

Chàng Văn (Trao đổi);

trích tiểu thuyết của G. Sévunz, Armenia, Liên Xô (Một cuộc tuyệt thực, M. Tkachev và Tô Hoài dịch);

Leonid Sobolev, chủ tịch Hội nhà văn LX (Trung thành phục vụ nhân dân);

− Ngày 19: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử “vụ án gián điệp” gồm 5 bị cáo: Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thụy An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Cáo trạng nói rằng nhóm này, do Thụy An và Nguyễn Hữu Đang cầm đầu, đã tiến hành “chiến tranh tâm lý” phá hoại xã hội miền Bắc mà hoạt động chính là xuất bản tờ báo Nhân văn vào tháng 9/1956 để tuyên truyền chống phá chế độ. Tòa đã tuyên án: Nguyễn Hữu Đang, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Lưu Thị Yến tức Thụy An, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, 10 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại, 6 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí, 5 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân.(3)

− Ngày 21: Kết thúc khóa 1 ‘Trại viết văn cho các bạn trẻ’ của Hội nhà văn VN; dự trại có 18 bạn viết trẻ, trong đó 11 người thuộc thành phần công nông; 5 công nhân; 3 nông dân; 2 nữ. Trong thời gian 72 ngày dự Trại: 14 ngày nghe giảng các vấn đề lý luận cơ bản và thảo luận về các vấn đề sáng tác và thực tế cách mạng VN, thời gian chủ yếu là viết và sửa những sáng tác của mình. Có 48 tác phẩm mang đến Trại (40 truyện ngắn, 6 truyện vừa, 2 truyện dài). Trong thời gian dự trại, Tố Hữu trong Ban Bí thư TƯĐLĐVN, nhà văn Armenia L.X. Sevunz đã đến thăm trại; báo cáo tổng kết của Nguyễn Huy Tưởng đánh giá tốt kết quả của Trại. (4)

− Ngày 22: báo Văn học số Tết Canh Tý (số 78 & 79):

Nguyễn Đình Thi (Mấy ý nghĩ chung quanh vấn đề nâng cao chất lượng sáng tác);

bút ký Nguyễn Huy Tưởng (Xuân đế sớm, xuân còn dài), Đoàn Giỏi (Quê hương đâu cũng là nhà), Nguyễn Thị Vân (Tết kiều bào ở Thái), Tô Hoài (Những ngày tuyết sớm ở Kazakstan);

phóng sự Hoài An (Những ngày giáp tết), Cẩm Thạnh (Một ngày tết trồng cây), Hải Như (Cuối năm ở nhà máy rượu);

truyện ngắn Trọng Khuê (Hoa mua), Đỗ Quang Tiến (Nhân mặn nhân ngọt);

thơ Huy Cận (Hai hình người gỗ);

truyện thơ Tú Mỡ (Lấy vợ cóc);

ca dao Hưng Nguyên;

văn thơ trào phúng: Hoàng, Giang, Thuận (Bói nhại Kiều), Tú Sụn (Ba quẻ thẻ), Phú Sơn (Tết nhất), Xuân Khai (Minh niên khai bút…), Nguyễn Đình (Diệm cố tết), Xích Điểu (Lời cãi của trạng Ngô);

câu đối tết Thanh Minh, Nguyễn Thanh Sâm;

Hàm Minh (Vài câu đố nhân vật trong giới thơ ca hiện nay);

truyện ngắn Nhự Chí Quyên, T.Q. (Người vợ với mùa xuân, Nguyễn Chinh dịch),…

 

 

 − Trong tháng 1: Tạp chí Văn nghệ số 32:

nghị luận: Hoàng Trung Thông (Mãi mãi đi dưới ngọn cờ lãnh đạo quang vinh của Đảng), Tạ Phước (Lời biết ơn sâu sắc), Trần Đình Thọ (Kiên quyết tiến bước theo Đảng), Hồng Cương (Nâng cao tính đảng trong sáng tác văn nghệ);

thơ: Chế Lan Viên (Kết nạp Đảng trên quê hương mẹ), Tế Hanh (Người đảng viên dự bị), Bùi Minh Quốc (Những đồng chí mới), Võ Văn Trực (Máu xô-viết), Khắc Lương (Hâi ông già trên đập nước), Nông Trung (Mặt trời mới);

truyện: Hoàng Tiến (Bí thư chi bộ), Đoàn Giỏi (Giữa cơn lốc);

phê bình: Huyền Kiêu (‘Bài thơ Hắc Hải’, tiếng hát trong sáng chào mừng Cách mạng tháng Mười);

‘Trao đổi ý kiến’: Lê Đình Kỵ (‘Từ ấy’ với phong trào ‘thơ mới’);

‘Thời sự văn nghệ’: Xuân Thiêm (Một không khí mới của phong trào sáng tác văn học trong quân đội), Bội Lan (Sự thật về cái gọi là ‘giải trí lành mạnh’ ở miền Nam), Xuân Diệu (Hồ Xuân Hương bị gạt ra ngoài chương trình trung học ở miền Nam);

đọc sách: Hồng Vân (‘Ánh sáng mùa xuân’ thơ văn, nhiều tác giả, Nxb. Văn hóa), Lương Vân (‘Ban đầu’, tập thơ Bàng Sĩ Nguyên, Nxb. Văn học), Vũ Lai (‘Mái nhà ấm’, tập truyện, Châu Diên, Nxb. Văn học), Thạch Hãn (‘Bên dòng sông Bến Hải’, tập thơ văn Trị Thiên, Nxb. Văn học), Việt Huy (‘Sơ tuyển văn thơ yêu nước và cách mạng’, tập III A, Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Phan Cự Đệ sưu tầm);

ý kiến ngắn: Văn Hiến (Nên mở rộng việc viết hồi ký cách mạng và kháng chiến), Trúc Anh (Cần có những nhà phê bình chuyên nghiệp), Nguyễn Thái Bình (Dịch thơ văn),…

− Trong tháng 1: tạp chí Văn nghệ quân đội số 1/60:

hồi ký: Lê Quang Đạo (Vài mẩu chuyện hồi bí mật);

truyện: Dân Hồng (Vì một con người), Hoàng Văn (Đồng chí Kim), Sơn (Cô Lan), Ngọc Lê (Con ngựa ‘Xéo’), Phạm Tường Hạnh (Vợ chồng Bảy Thẹo), Nguyễn Luận (Đèn hợp tác);

chuyện kể: Đào Anh Thơ (Nhân và Tâm);

thơ: Nguyễn Đức Hinh (Đảng kỳ), Lưu Quang Thuận (Người học lớp ba), Bùi Công Bính (Gần thêm nhiều phương trời), Phạm Ngọc Cảnh (Trống quê hương), Xuân Sách (Lửa xém bàn tay), Võ Văn Trực (Nhớ ruộng), Ngọc Minh (Địa chỉ mới), Thanh Tịnh (Giọt nước ôm sông);

ca dao: Anh Tuấn, Trần Hữu Tòng;

độc tấu: Đức Cảnh (Đêm ấy);

ca cảnh: Trương Công Lê (Anh xạ thủ);

VNQĐ (Một vài nhận xét về cuộc thi viết về ‘Đời sống bộ đội trong hòa bình’ đợt II);

Bình luận văn nghệ: Hồng Chương (Kỹ thuật không thể thay thế được cuộc sống); Từ Bích Hoàng (Đọc truyện ngắn ‘Sang sông’ của Lê Sĩ Thắng); Chiến Kỳ (Đảng tính và nhân dân tính trong tập thơ ‘Từ ấy’),…

Tháng 2:

− Đầu tháng 2: tập san Nghiên cứu văn học số 2:

Hoài Thanh (Công tác nghiên cứu văn học của chúng ta);

N. Nikulin (Một tin mừng);

Nam Mộc (Tính đảng là một đặc trưng bản chất của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa);

Tô Hoài (Một vài nét về ‘Cái sân gạch’);

Vũ Ngọc Phan (Sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian là một vấn đề cấp thiết);

Trần Thanh Mại (Thực chất của văn thơ Tôn Thọ Tường);

Hoàng Phê (Tình hình tiếng Việt và mấy nhiệm vụ cấp bách);

La Côn (Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Tchékhov);

‘Trao đổi ý kiến’: Hướng Minh (Dịch tác phẩm văn học nước ngoài như thế nào);

Lương Văn Chóng (Một truyện cổ tích Tây Bắc: Lin Thong và Can);

(Xuân và Tết qua văn thơ, trong xã hội cũ ở miền Bắc và ở miền Nam ngày nay);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Văn học);

‘Điểm sách’: Phong Chi (‘Sống để hoạt động’, hồi ký Nguyễn Tạo); Thành Duy (‘Tiếng hát miền Nam’, nhiều tác giả); Vũ Đức Phúc (‘Một số kinh nghiệm viết văn của tôi’ của Tô Hoài).

− Ngày 5: báo Văn học số 80:

truyện ngắn Ngô Ngọc Bội (Bộ quần áo mới);

phóng sự Cẩm Thạnh (Chợ xuân), Đỗ Quang Tiến (Mua hoa tết);

thơ Vũ Tú Nam (Em đi gánh cát), Hoàng Trung Thông (Buổi sáng đầu xuân), Mã Thế Vinh (Hiến pháp ban hành như mùa xuân), Hoàng Minh Châu (Ra giêng), Xuân Diệu (Hoa), Nông Quốc Chấn (Khâu áo);

cao dao Minh Hiệu (Tết trồng cây);

câu đối: Đồ Phồn, Ái Tử, Tú Sụn, Đỗ Văn Duệ;

Thi Hữu (Qua những bài thơ tặng Đảng);

Chàng Văn (Trao đổi); ‘

trao đổi ý kiến: Thiều Quang (Một cách giải quyết vấn đề trong ‘Cái sân gạch’); Xuân Tửu (Con người trung nông trong ‘Cái sân gạch’);

bình luận: Hồng Chương (Bọn gián điệp, phản cách mạng Thụy An, Nguyễn Hữu Đang… trước Tòa án nhân dân Hà Nội);

thông tin: S. Át-sê-nin (Văn học dưới mắt nhà văn Tchékhov);  

− Ngày 12: báo Văn học số 81:

phỏng vấn ‘Nâng cao chất lượng sáng tác’: Đoàn Văn Cừ (Văn học phong phú ở số lượng, tồn tại ở chất lượng), Vũ Ngọc Phan (Làm thế nào để đẩy mạnh phê bình), Ngô Quân Miện (Một số điểm suy nghĩ cụ thể);

truyện ngắn: Trần Thanh Giao (Dòng sữa);

tùy bút: Nguyễn Tuân (Xuân tới trên sông Tây Bắc);

thơ: Nông Viết Toại (‘Bếp lửa sao bằng’), Hằng Phương (Hồng Côn, con yêu của mẹ), Hà Nhật (Qua bến tàu cũ), Khương Hữu Dụng (Chào những người thợ chủ nhân ông);

ca dao: Hoàng Tiến Tựu (Ngày xưa, ngày nay), Nguyễn Bính (Theo nước), Nguyễn Chí Cao (Quyết thắng làm chiêm);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Anh Thư (Lò hữu nghị), Đỗ Quang Tiến (Những tia nắng sớm), Nguyễn Lang Doanh (Anh thợ điện);

văn thơ đả kích: Người Tuần Tra (Ăn trộm chính hiệu và thầy tu giả hiệu), Phan Huy Sửu, Phan Đăng Hoài, Nà Hạc (họa thơ đả Diệm), Trần Thanh Tuấn (Vịnh Ngô Đình Diệm);

Chàng Văn (Trao đổi);

Đọc sách: Trần Tuấn Lộ (Đọc ‘Bài ca chàng Đam San’, Nxb. Văn hóa); Đào Phương (Mức độ tự giác của lão Am), Mạc Văn Trang (Chúng tôi yêu thích ‘Cái sân gạch’);

Nghệ thuật: Lưu Quang Thuận (Xem phim ‘Vườn cam’);

Vera Inber, L.X. (Công việc viết văn của tôi, Nguyễn Văn Sĩ dịch).

− Ngày 19: báo Văn học số 82:

phỏng vấn ‘Nâng cao chất lượng sáng tác’: Tế Hanh (Chắp cánh cho thơ);

truyện ngắn Đức Hiền (Chiếc vai cày gỗ nhãn);

thơ Phạm Hổ (Đất mùa xuân), Trương Đức Chính (Trước giờ xử bắn), Thiện Nhân (Đêm công trường), Phan Trác Hiệu (Giấc mơ);

văn thơ đả kích: Nguyễn Đình (Nhìn qua cuộc họa thơ vạch mặt nạ ‘kháng chiến’ của Ngô Đình Diệm), Người Tuần Tra (Đến Mỹ cũng phải lo), Châu Giang (Diệm cũng hành trình);

thơ vui: Nguyễn Quang Thân (‘Bảo nhau’: Ngồi lê);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Như Thiện (Em gái tôi), H. A. (Những con số làm rung động lòng người), Hoài An (Lưỡi búa đá);

‘Đọc sách báo’: Minh Dương (Đọc ‘Mái nhà ấm’: Cái nhìn của Châu Diên về đời sống nông thôn hiện nay); Tống Hữu Dùng (Nhân đọc ‘Tiếng hát miền Nam’: Thêm một bông hoa tươi thắm trong vườn nghệ thuật);  

‘Nói chuyện văn’: Bùi Hiển (Viết mẩu truyện);

Vera Inber, L.X. (Công việc viết văn của tôi, Nguyễn Văn Sĩ dịch),…

 

− Ngày 23 và 24: Hội nghị liên hoan bạn viết đầu năm 1960 do Cục tuyên huấn (TCCT QĐNDVN) tổ chức; 245 bạn viết trong quân đội và 25 bạn viết ngoài quân đội tham dự; ngày 24, Uỷ viên Bộ CT TƯ Đảng Nguyễn Chí Thanh và ủy viên Ban bí thư TƯ Đảng Tố Hữu đến nói chuyện với hội nghị.(5)

− Ngày 26: báo Văn học số 83:

‘Vấn đề nâng cao chất lượng’: Trần Thanh Mại (Cần chú trọng đến sự trong sáng và chính xác của ngôn ngữ), Lưu Quang Thuận (Tìm hiểu người trong thực tế để xây dựng người trong kịch bản);

thơ Cầm Giang (Hồi xuân), Huy Cận (Để con yêu những người…), Vương Linh (Người đảng viên), Tân Trà (Con tôi nói chính trị), Nguyễn Liệu (Cuộc đời những con chim bói cá);

ca dao: Phan Văn Khuyến, Trần Lê Đệ;

truyện ngắn Lâm Phương (Một trận đánh kỳ lạ);

hồi ký Nguyễn Nghị (Cái cuốc);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Tấn Hoài (Những ngày ở Nà Lẹng), Hồng Trung (Một người không biết tên);

văn thơ đả kích: Hải Trân (Ai – Ngô xướng họa), Phú Sơn (Đờ…đại ê), Người Tuần Tra (Chỉ vì cách dùng chữ của tiến sĩ cóc);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Phạm Hổ (Đọc ‘Bài thơ Hắc Hải’ của Nguyễn Đình Thi); Thi Hữu (Đọc thơ giáo viên phục vụ miền núi);

Vera Inber, L.X. (Công việc viết văn của tôi, Nguyễn Văn Sĩ dịch),…

− Trong tháng 2: Tạp chí Văn nghệ số 33:

Hồ Chí Minh (Thơ mừng năm mới);

trường ca Ê-đê – Gia-rai (Chàng Sing Nhã, Y Dung và cán bộ Tây Nguyên sưu tầm; Sơng Hinh, Ksor B’lêu và Ngọc Anh dịch);

thơ: Xuân Diệu (Sớm nay…), Hồ Thiện Ngôn (Chiều vui), Hà Đức Trọng (Nhìn cành đào nhớ hoa ê-ban), Huy Cận (Chuyện một cây đa);

tiểu luận: Đình Quang (Một vài ý nghĩ về hình thức nghệ thuật trong các vở ca kịch dân tộc); Nguyễn Khải (Cảm tưởng sau khi đọc ‘Bốn năm sau’); Minh Dương (Bàn về vấn đề tự nguyện trong ‘Cái sân gạch’);

‘Thời sự văn nghệ’: Thanh Nha (Giới ca kịch miền Bắc thảo luận bức thư miền Nam), Trường Lưu (Thơ ca yêu nuớc ở miền Nam);

đọc sách: Bàng Sĩ Nguyên (‘Sống để hoạt động’), Lê Đình Kỵ (‘Tiếng hát quê hương’, thơ Minh Huệ-Xuân Hoàng; ‘Biến đổi’, thơ Hoàng Minh Châu-Vương Linh), Vũ Ngọc Bình (‘Chim mùa xuân’, truyện cho thiếu nhi của Đào Vũ);

Trọng Hiền (A. Tchékhov, nhà văn hiện thực vĩ đại); 

M. Thorez, Pháp (Những vấn đề của thời đại chúng ta, V.M. dịch),…

− Trong tháng 2: tạp chí Văn nghệ quân đội số 2/60:

tùy bút: Trần Độ (Mùa xuân bộ đội và bộ đội mùa xuân);

truyện: Hữu Mai (Đôi cánh mùa xuân), Nguyên Ngọc (Rẻo cao), Phạm Hồng (Đường cản), Hoàng Văn Khiêm (Anh lái xe), Vũ Thành (Những cánh bay đầu tiên), Nguyễn Ngọc Tấn (Quê hương);

hồi ký: Đông Tùng (Tôi mua súng);

kịch: Nguyễn Phương Nam (Thiếu nồi thiếu chậu), Trịnh Thuần (Ưu và khuyết);

thơ: Nguyễn Xuân Sanh (Đêm giao thừa), Khắc Lương (Tắm), Lê Thị Hương (Bài hát ru con của người mẹ công nhân), Kim Anh (Đầu năm khai bút), Tế Hanh (Có một chiến tàu mang tên anh), Trần Minh Thái (Hai anh em), Việt Hải (Xuân đẹp nhất quê tôi), Nguyễn Trọng Oánh (Đường qua Tây Hiếu), Nguyễn Anh Dũng (Tập bơi);

thơ vui: Lê Kim (Súc sắc súc sẻ);

câu đối: Đồ Rê Mi;

nghệ thuật: P.V. (Phim tết: giới thiệu phim ‘Vườn cam’).

Tháng 3:

− Đầu tháng 3: tập san Nghiên cứu văn học số 3/60:

Hoàng Trung Thông (Triển vọng tốt đẹp của nền văn học chúng ta);

Vũ Đức Phúc (Thế giới quan và sáng tác văn học);

Nguyễn Hùng, Thiết Vũ (Trao đổi thêm về nhân vật lão Am trong ‘Cái sân gạch’);

Ngô Hiển Linh, Hồ Niệm Di, Tào Đạo Hoành, Đặng Thiệu Cơ, T.Q. (Những kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu văn học cổ điển ở Trung Quốc mười năm nay, Phạm Tú Châu, Kiều Thu Hoạch dịch);

Nguyễn Đức Đàn (Mấy vấn đề trong công tác biên soạn lịch sử văn học Việt Nam từ 1930 đến nay);

Chu Xuân Diên (Tìm hiểu giá trị ‘Bài ca chàng Đam San’);

Eduard Claudius (Sự phát triển của văn học Đức, Lê Đức Phúc, Hồ Bá Hoa dịch);

Đỗ Đức Hiểu (Văn học công xã Paris);

‘Trao đổi ý kiến’: Huyền Kiêu (Dịch tác phẩm văn học nước ngoài như thế nào cho tốt?);

‘Sưu tầm’: Ngọc Cầu (Truyện Xiển Ngộ), Lê Thước và Trần Thanh Mại (Bài phú ‘Pháp đánh Bắc Kỳ lần đầu’ (1873) của Phạm Văn Nghị);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Đề tài, chủ đề, tư tưởng chủ đề);

‘Điểm sách’: Vũ Ngọc Phan (‘Ban đầu’ tập thơ Bàng Sĩ Nguyên), Nguyễn Trác (‘Thơ ca cách mạng’ tập 1 và 2; ‘Thơ ca Xô-viết Nghệ Tĩnh 1930-31’; ‘Thơ ca cách mạng từ 1930 đến ngày 19-8-1945’, tập 1), Trần Thanh Mại (‘Theo đường giây số 6’ của nhiều tác giả), Nam Mộc (‘Bốn năm sau’ của Nguyễn Huy Tưởng), Tịnh Sơn (‘Nhãn đầu mùa’ của Xuân Tùng và Trần Thanh),…

− Ngày 4: báo Văn học số 84:

‘Vấn đề nâng cao chất lượng’: Mộng Sơn (Cần phát động phong trào chị em phấn khởi sáng tác), Vũ Ngọc Bình (Nâng cao chất lượng sáng tác cho thiếu nhi);

thơ Chế Lan Viên (Ngoảnh lại mười lăm năm), Anh Thơ (Gác nhỏ), Vân Đài (Áo rét), Hoài Anh, học sinh miền Nam (Gửi chị mặc áo bà ba);

ca dao Đinh Uyên, Tú Sụn (Ép duyên);

truyện ngắn Nguyễn Bản (Giá trị mới);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Xuân Tế (Người con gái ấy), H.Q. (Đôi bàn tay đẹp);

văn thơ đả kích: C.H. (‘Đời sống miền Nam cao nhất thế giới’ là như thế đó!); Nguyễn Đình (‘Trai hùng’, ‘gái đảm’), Phú Sơn (Khéo mà cái quạt phạch đầu người);

thơ vui: Tú Sụn (Bảo nhau: Ông hàng sách vô trách nhiệm);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Vũ Tú Nam (Đọc ‘Bốn năm sau’ của Nguyễn Huy Tưởng);

thơ Gabriela Mistral, Chile (Ru con, Tế Hanh dịch), E. Bagriana, Bulgaria (Gửi con ra trận, Khương Hữu Dụng dịch);

truyện ngắn Ngải Vu, T.Q. (Mưa, Lê Đình Dư dịch);

trích phỏng vấn A. Seghers, CHDC Đức (Nhiệm vụ của người viết tiểu thuyết),

− Ngày 11: báo Văn học số 85:

‘Vấn đề nâng cao chất lượng’: Vương Linh (Cái chính là bồi dưỡng vốn sống trong thực tế đấu tranh), Vũ Thị Thường (Phải có cái nhìn, cái suy nghĩ của người cầm bút), Anh hùng lao động Đoàn Văn Cẩm (Chúng tôi rất cần đọc sách để bồi dưỡng thêm nhiệt tình lao động), giáo viên Bùi Công Bính (Chúng tôi chờ đợi những tác phẩm mới);

thơ Nguyễn Viết Lãm (Hạ Long đêm bốc vác), Mai Ngữ (Em hỏi tôi);

ca dao: Tố Uyên (Tảo hôn);

truyện ngắn Tuấn Phong (Cũng là một đám cưới);

“Người mới-Cuộc sống mới’: Văn Dân (Chị Nhàn), Tấn Hoài (Trạm Nam Tiến);

 vốn cổ (Vè người đi ở, Võ Trọng Canh sưu tầm);

Chàng Văn (Trao đổi);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Cái lệnh, cái cồng và cái dùi), Phạm Công (Cú vọ sợ mặt trời…); Muỗi Sài Gòn (Bảo nhau: Một kiểu xoay tiền ‘hoa hồng’);

‘Phê bình sách’: Ngọc Cầu (‘Một mùa hoa’, tập thơ của các nữ tác giả), Huyền Kiêu (‘Những phút ngập ngừng’ tập truyện, nhiều tác giả);

truyện ngắn Giê-ken Du-ma-ga-nốp, L.X. (Ăn mừng nhà mới, Đỗ Quang Tiến dịch);

Grinberg, L.X. (Cuộc sống anh hùng, Văn học anh hùng),…

− Ngày 18: báo Văn học số 86:

Thơ: Hoàng Trung Thông (Sương mù bên kia sông Bến Hải), Lưu Quang Thuận (Lửa cháy dầu sôi), Nguyễn Trí Tình (Bố con), Tế Hanh (4 bài thơ nhỏ: Bên phải bên trái; Gần xa; Tối sáng; Một nửa gấp đôi);

ca dao: Nguyễn Biểu, Tuấn Sơn;

truyện ngắn: Xuân Hoàng (Dưới mái trường cũ);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Lê Phú Hưởng (Lớp dạy đêm), Uyên Mục (Chuyến xe cấp cứu);

văn thơ đả kích: Nguyễn Đình (Nợ máu trả đi), Bùi Xuân Toàn (Cái đời nghệ sĩ miền Nam);

vốn cũ: (‘Bài ca người gảy đàn ở Long thành’ của Nguyễn Du, Khương Hữu Dụng dịch);

Lý Tường (Nguồn gốc và những điểm khác về tác phẩm ‘Kim Vân Kiều’, dịch bài đã đăng báo ‘Tân Việt Hoa’ Hà Nội, 7/11/1959);

Chàng Văn (Trao đổi);

phê bình: Lê Đình Kỵ (‘Phê bình giới thiệu thơ’ của Xuân Diệu), Lâm Tường (Mấy ý kiến về tập thơ ‘Ban đầu’ của Bàng Sĩ Nguyên); Chính Viễn (Góp ý kiến về bài ‘Anh thợ khóa’); Giang Hội (Người và việc trong kịch ‘Một đảng viên’);

truyện ngắn A. Tchékhov (Giấc mơ, Trọng Hiền dịch);

Na-u-nốp, L.X. (Những quan hệ văn hóa giữa Liên Xô và Pháp);

− Ngày 25: báo Văn học số 87:

Chế Lan Viên (Trả lời bức thư nhóm ‘Dân chúng’ (miền Nam) gửi giới văn nghệ miền Bắc);

‘Vấn đề nâng cao chất lượng’: Thiếu tướng Trần Độ (Đặt vấn đề nâng cao chất lượng bây giờ là một yêu cầu cấp bách), Trần Kim Thành (Cần phải biến chủ trương nâng cao chất lượng thành một phong trào quần chúng), Vũ Tú Nam (Những khó khăn trong lúc trưởng thành);

truyện ngắn Nguyễn Xuân Khánh (Người lính gác);

thơ Trần Trọng Thìn (Xây dựng Việt Trì), Nguyễn Xuân Sanh (Nối liền mặt biển);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: (Người chồng), Thanh Trì (Đây, nhìn đây), Cẩm Thạnh (Chị cả Chín);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Đập chết bầy chó ngộ), Phạm Công (Cũng nghề đao phủ như ai);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Chu Xuân Diên-Phan Cự Đệ (Nhân đọc ‘Tỏa sáng đôi bờ’ của Lưu Trọng Lư); Hoa Tiêu (Hai cuốn sách mới: ‘Nhãn đầu mùa’, tiểu thuyết Xuân Tùng-Trần Thanh, Nxb. Phụ nữ; ‘Cuộc đời của chú Kíp-lê’ truyện, Vũ Cận, Nxb. Kim Đồng);

Nghệ thuật: Tống Phước Phổ (Dân tộc tính trong nghệ thuật tuồng cổ);

Cao Thưởng (Một vài ý kiến nhân đọc ‘Cây thập tự thứ bảy’ truyện dịch của A. Seghers);

trích truyện Mohamed Dib (Tổ quốc, Nguyễn Thành Long dịch);

− Trong tháng 3: Tạp chí Văn nghệ số 34:

truyện ngắn: Nguyễn Văn Bổng (Người kháng chiến);

kịch: Học Phi (Một đảng viên, trích);

tiểu luận: Hoài Thanh (Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán);

thảo luận về tiểu thuyết ‘Cái sân gạch’: Lê Đình Kỵ (Ý nghĩa điển hình của nhân vật trong ‘Cái sân gạch’), Thành Duy (Thành tựu của nhân vật lão Am);

thảo luận về tập thơ ‘Từ ấy’: Xuân Diệu (Dao có mài mới sắc, Chung quanh tập thơ ‘Từ ấy’);

Nam Mộc (Đọc ‘Sơ thảo nguyên lý văn học’, Nguyễn Lương Ngọc, Nxb. Giáo dục);

Nguyễn Xuân Khoát (Bàn về dàn nhạc dân tộc), Lưu Hữu Phước (Nhạc và múa trên sân khấu ca kịch hiện nay);

‘Thời sự văn nghệ’: Huyền Kiêu (Vở chèo ‘Tấm Cám’), Trường Lưu (Tình trạng bế tắc của văn nghệ miền Nam);

‘Đọc sách’: Minh Thi (‘Người trai Bình Định’ của Xuân Thiêm), Nguyệt Tú (‘Gỡ mối’ của Mộng Sơn);

‘Ý kiến ngắn’: Nguyễn Tín (Sách trong sách ngoài), Văn Hiến (Từ viết đến in), Lê Nam (Trình bày sách), Anh Viên (Vì cái mới mà giữ cái cũ);

Thông tin: Đinh Gia Trinh (A. Tolstoi, nhà tiểu thuyết lớn Xô-viết); Hồng Vân (Một sự kiện trọng đại trong đời sống văn học của Ba Lan: Đại hội nhà văn Ba lan lần thứ 10),…

− Trong tháng 3: tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/60:

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Châu (Anh là đảng viên), Xuân Ích (Chuyền máu), Nguyễn Khải (Bố con), Trọng Báu (Diệt ba voi), Xuân Vũ (Mớ tóc), Hồ Phương (Một hành động sai lầm, trích truyện dài);

bút ký Hà Mậu Nhai (Máu trở về tim);

kịch Phan Chí Nguyện (Đêm biên giới), Nguyệt Tú (Sát và không sát, hoạt cảnh);

thơ Nguyễn Anh Tài (Trên đường Lâm Úy), Trọng Khoát (Hoa áo), Nguyễn Mỹ (Đường đi dã ngoại), Việt Hải (Qua thao trường), Lương Sĩ Cầm (Dậy một mùa xuân), Lê Nguyên (Chiếc kèn đồng), Nguyễn Thu Phong (Anh bộ đội và mái trường lô-cốt);

ca dao: Xuân Sách, Quý Hải;

độc tấu: Nguyễn Tiến Mùi (Anh lính thông tin);

thơ đả kích: Lê Kim (Chư vị ‘thần tên lửa’ Mỹ);

tiểu luận Văn Phác (Vấn đề nâng cao chất lượng tư tưởng và nghệ thuật của tạp chí ‘Văn nghệ quân đội’); Nguyễn Tư (Đọc ‘Bốn năm sau’ của Nguyễn Huy Tưởng),…  

Tháng 4:

− Ngày 1: báo Văn học số 88:

Nguyễn Xuân Khoát (Thư gửi các bạn nhạc sĩ miền Nam);

‘Vấn đề nâng cao chất lượng’: Phong Lê (Đẩy mạnh phê bình và vấn đề nâng cao chất lượng), Bàng Sĩ Nguyên (Làm sao sáng tác có chiều sâu suy nghĩ?), Lưu Trùng Dương (Nâng cao chất lượng không hề có nghĩa là làm cho tác phẩm khó hiểu hơn trước);

Thơ: Bàn Tài Đoàn (Kết hôn, tác giả tự dịch từ tiếng Mán), Trúc Hà (Gửi em lên đường), Xuân Diệu (Chặn đường);

ca dao: Trần Đình Vững (Phiên chợ Ròn);

truyện: Tuyết Minh (Ra đi);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Hương Tuấn Vũ (Chuyến xe chiều), Phan Ngọc Quang (Lão đội viên đội thanh niên ‘sẵn sàng lao động’);

văn thơ đả kích: Đ.T. (‘Văn thơ’ miền Nam hiện nay);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Hoàng Trinh (Tấm gương người cán bộ lãnh đạo trong phong trào hợp tác hóa: Đa-vư-đốp, một nhân vật xuất sắc trong tác phẩm ‘Đất vỡ hoang’), Lê Ca (Vài ý nghĩ nhân đọc ‘Con đường phía trước’, tập truyện được giải báo ‘Thống nhất’), Phấn Đấu (‘Bức ảnh’ của Nguyễn Văn Niêm);

Thông tin: Tế Hanh (Một nhà thơ lớn của giai cấp công nhân Hungary: Attila József, 1905-1937);

Thơ: A. József (Mẹ tôi; Lợi nhuận);

truyện: G. Maupassant (Đôi bạn thân, Nguyễn Văn Sĩ dịch),…

− Đầu tháng 4: tập san Nghiên cứu văn học số 4/60:

Vũ Khiêu (Dưới ánh sáng của Lê-nin, tiến tới đỉnh cao nhất của văn học);

Phan Nhân (‘Cái sân gạch’ và vấn đề nhân vật lão Am);

Trần Thanh Mại (Vài nét trong quan điểm văn học của Lê Quý Đôn);

Chế Lan Viên (Nhân đọc ‘Hoa đăng’ của Vũ Hoàng Chương);

Nguyễn Kim Thản (Vài ý kiến về việc dùng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học);

Mihaily Fӧldes (Văn học hiện đại Hungary);

Lê Đình Kỵ (Thảo luận về hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, lược dịch);

Lê Xuân Vũ (Thơ ca quần chúng Trung Quốc trong những bước tiến vọt);

‘Trao đổi ý kiến’: Trương Chính (Mấy ý nghĩ trong khi dịch tác phẩm);

‘Sưu tầm’: M.T. (Một số thư trong ‘Quân trung từ mệnh tập’ của Nguyễn Trãi);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Phong cách, trường phái và phương pháp nghệ thuật);

‘Điểm sách’: Hoàng Ngọc Phách (‘Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền’, Lê Thước, Vũ Đình Liên dịch, giới thiệu), Nam Mộc (‘Phê bình, giới thiệu thơ’của Xuân Diệu), Nguyễn Đức Đàn (‘Một mùa hoa’, tập thơ của nhiều tác giả nữ), Phong Chi (‘Luyện mãi thành thép’ truyện Ngải Vu, bản dịch của Kỳ Ân và Bùi Hạnh Cẩn).

− Ngày 8: BCH Hội LHVHNTVN thông báo đã giới thiệu ra ứng cử Đại biểu Quốc hội VNDCCH khóa II: 1/ Đặng Thai Mai, ứng cử tại Nghệ An; 2/ Nguyễn Đức Nguyên tức Hoài Thanh – tại Thanh Hóa; 3/ Nguyễn Đình Thi – tại Hải Phòng; 4/ Hồ Trọng Hiếu tức Tú Mỡ – tại Bắc Giang; 5/ Trần Văn Cẩn – tại Kiến An; 6/ Nguyễn Xuân Khoát – tại Hà Đông; 7/ Nguyễn Thế Lữ  –  tại Bắc Ninh; 7/ Nguyễn Phương Danh tức Tám Danh – tại Quảng Bình. Ngoài danh sách này, trong các danh sách do các đơn vị khác giới thiệu ra ứng cử ĐBQH khóa II còn có các vị cũng thuộc giới văn học nghệ thuật: Tố Hữu, ứng cử tại Ninh Bình; Cù Huy Cận – tại Thái Bình; Nguyễn Cao Luyện – tại Nam Định; Phạm Huy Thông – tại Hưng Yên; Nông Quốc Chấn – tại Bắc Cạn. Các ĐBQH miền Nam khóa I được lưu nhiệm khóa này trong đó có các văn nghệ sĩ: Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Phi Hoanh, Phan Thao. (6)

− Ngày 8: báo Văn học số 89: 

Hội nghệ sĩ sân khấu VN (Thư gửi các bạn nghệ sĩ sân khấu miền Nam);

‘Vấn đề nâng cao chất lượng’: Hoài Thanh (Nâng cao tinh thần phụ trách, P.V. ghi), Lưu Trọng Lư (Một chút tâm sự), Hướng Minh (Cần dịch sách nhiều và dịch tốt);

truyện ngắn Bùi Công Bính (Ngôi trường mới);

thơ Phan Xuân Hạt (Nhìn xuống), Băng Sơn (Xóm dừa), Lưu Trùng Dương (Đường);

ca dao Bùi Tiến Đạt, Nguyễn Huy Kính, Dư Văn Nghị;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Vũ Thạch (Một người bạn), Hồ Ngọc (Những con người như thế);

‘Vốn cũ’: Trịnh Quang Viễn, Nguyễn Vạn Thọ (Văn truy điệu những chiến sĩ đã bỏ mình trong phong trào Xô-viết Nghệ An);

văn thơ đả kích: N.T. (Nấm độc sặc sỡ trên cây mục nát), Nguyễn Đình (Một bước tiến, mấy bước lùi);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Đông Hoài (‘Đi bước nữa’, tiểu thuyết Nguyễn Thế Phương), Chu Hà (‘Trên đe dưới búa’); Thanh Trì (‘Bạn thân mến’, đọc thơ gửi đến báo);

Ilya Ehrenburg (Trả lời một bức thư).

− Ngày 15: báo Văn học số 90:

Thơ: Yến Lan (Phơi màn), Minh Phẩm, miền Nam (‘Cuộc đời’ ở miền Nam);

ca dao: Văn Tân, Bùi Kim;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Đồng Lực (Một miếng sắt), Nguyễn Chung (Thư về);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Khu trù mật), Kỳ Qua (Ngoại kiều nào đây?);

V.H. (Nhân ngày mất Ngô Tất Tố 20/4, giới thiệu lại 2 bài của ông trên báo ‘Tương lai’: ‘Còn chờ gì mà chưa xin giải tán Viện Dân biểu?’, 1936;   ‘Cái khí giới của bọn phú hào dùng để bóc lột dân nghèo hay là nạn vay lãi ở thôn quê’, 1937);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Lê Anh Trà (Đọc lại ‘Tắt đèn’ của Ngô Tất Tố), Bàng Thúc Long (Đọc‘Cầu vào bản’ thơ miền núi), Hàm Minh (Từ ‘Tiến lên bổ túc’ đến ‘Học rồi học nữa, học thêm’, Nxb. Phổ thông);

‘Kỷ niệm 90 năm ngày sinh V. Lenin’: Hồng Chương (V. Lê-nin và văn học nghệ thuật); M. Gorki (Lenin trên diễn đàn), Andreeva (Lenin và Gorki, N.T. dịch);

Thơ: An-tôn Fri-dơ-lếch (Cây bạch dương, Thúy Toàn dịch), Smirnov (Lenin, Hoàng Minh Châu dịch), Kuba, CHDC Đức (Nụ cười Lenin, Vương Linh dịch), Hà Việt Cường (Lenin và anh thợ chữa lò sưởi);

nghệ thuật: Giang Hội (Phim mới: ‘Evgeny Onegin’ một bài thơ tuyệt tác của đại thi hào Pushkin).

− Ngày 22: báo Văn học số 91:

truyện ngắn Đỗ Quang Tiến (Đêm hòa bình);

thơ Xuân Hoàng (Bình minh), Vũ Tú Nam (Mưa xuân; Thu đến), Nguyễn Bính (Chim thêu);

ca dao Văn Huệ, Phạm Phú Thang-Nguyễn Chí Cao;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Ngọc Bái (Cô Nhu), Lê Thị Thanh Mai (Bác xich-lô);

văn thơ đả kích: Nguyễn Đình (Tống quỷ trừ ‘ma’);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Bàng Sĩ Nguyên (Với tập thơ ‘Tiếng ca người Việt Bắc’ của Nông Quốc Chấn), Tống Hữu Dùng (‘Đường trở về’, tập truyện Trịnh Xuân An);

hồi ký M. Gorki (về Lenin, B.H. trích dịch);

thơ P.Neruda (Hiến dâng Lenin, Cương Thiết dịch qua Trung văn), Khic-mat Ri-zô, L.X. (Lenin, Nguyễn Xuân Sanh dịch), Ghi-đu-tu-ri Xu-ri-am, Ấn Độ (Lenin, Trường Lưu-Phan Đăng dịch), Phạm Công Cam (Đất nước của Lenin);

tiểu luận S. Asenin (Lenin trong văn học);

V. Lenin (Trên lĩnh vực tư tưởng thì không thể nhân nhượng được; Chủ nghĩa xã hội và vấn đề dân tộc; Nghệ thuật tư sản khi nào cũng ‘đẹp’ - trích cuốn ‘Bàn về văn học và nghệ thuật’, Nxb. Sự thật).

− Ngày 28: Nhà xuất bản Văn hóa và Nhà xuất bản Phổ thông phát hành sách Nhật ký trong tù, là “bản dịch ra tiếng Việt tập thơ Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh, gồm 114 bài thơ chữ Hán, viết trong thời gian từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943, hồi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch cầm tù ở Quảng Tây”. Sách in làm 3 loại: 1/ loại sách 54 trang 13x19cm, giá bán 0đ25, chỉ gồm các bài thơ dịch ra tiếng Việt; 2/ loại sách 258 trang 16x24cm giá bán 2đ20; 3/ loại sách 258 trang 13x18cm giá bán 1đ30; hai loại kể sau đều in nguyên văn 114 bài thơ chữ Hán, kèm theo phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, có phụ bản một số ảnh bút tích tác giả. (7)

− Ngày 29: báo Văn học số 92:

nghị luận Tú Mỡ (Quốc hội của ta);

VH. (Kết thúc cuộc phỏng vấn ‘Nâng cao chất lượng sáng tác’);

truyện Nông Chàn (Cứu đường);

thơ Trinh Đường (Đồng chí Bé), Mai Thế Chính (Trở lại rừng), Vân Đài (Đường về Việt Bắc), Phạm Hổ (Từng bước Người đi), Nguyễn Trân (Tuyết tan);

ca dao: Văn Nghĩa, Hoàng Thư, Hoàng Anh Nhân;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Đặng Thiên (Những chiến sĩ nhỏ), Trần Phúc (Cô gái nuôi lợn);

văn thơ đả kích: Nguyễn Đình (Sóng dậy Nam triều), T.C. (Gặp nhau), Tú Sụn (Nội bộ nhà bay cần tẩy uế);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Hoàng Minh Châu (Đọc tập thơ ‘Trên miền Bắc thân yêu’), Hàm Minh (‘Khúc hát tương lai’, tập thơ công nhân, Nxb. Phổ thông); Thanh Trì (Đọc thơ [của bạn viết công nhân gửi tới báo]); Nguyễn Phúc Minh (Dân ca các dân tộc thiểu số miền Nam);

Vasily Ivanov, L.X. (Phê bình và tranh luận văn học ở Liên Xô);

thơ A. de Musset, Pháp (Đêm tháng Năm, Xuân Diệu dịch);

− Trong tháng 4: Tạp chí Văn nghệ số 35:

truyện Nguyễn Khải (Chuyện người tổ trưởng máy kéo);

thơ Quốc Khánh (Xẻ núi), Nông Quốc Chấn (Tìm đường), Phạm Hổ (Qua Bạch Đằng), Xuân Diệu (Nhớ quê Nam), Tế Hanh (Chị Duyên, anh Hải);

phê bình: Trần Thanh Mại (‘Tiếng hát miền Nam’ tiếng thơ yêu nước và bất khuất); Đoàn Giỏi (Đọc tập ‘Con đường phía trước’);

nghệ thuật: Mịch Quang (Đào Tấn, nhà soạn tuồng lớn của nước ta); Nguyễn Văn Tỵ (Trao đổi thêm một số ý kiến về tranh sơn mài), Hồng Vân (Vẫn còn phải nói thêm);

‘Đọc sách’: Minh Dương (‘Nhãn đầu mùa’), Trần Hải (‘Theo sau xung kích’);

‘Thời sự văn nghệ’: P.V. (Hội nghị bạn viết đầu năm của quân đội), Huyền Kiêu (Xem vở chèo ‘Vẹn cả đôi đường’), Nguyễn Duy Cẩn (Nhìn lại mấy bộ phim Việt Nam gần đây);

‘Ý kiến ngắn’: Phong Lê (Người ta vẫn còn sơ ý), Nguyễn Hữu Phách (Ngữ pháp, một vấn đề cấp thiết);

truyện ngắn K. Fedin, L.X. (Ký họa Lenin, Lê Sơn Hinh dịch qua bản Hoa văn);

Chế Lan Viên (‘Thơ và từ’ của Mao Trạch Đông, bài viết cho tạp chí ‘Văn học thế giới’, T.Q.); Thiên Thế Phong, Triều Tiên (Tôi đã đi vào thực tế sáng tác như thế nào? H.T. dịch);

V.N. (Về việc thành lập Hội nhà văn Hungary).

− Trong tháng 4: tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/60:

bút ký: Hồng Hải (Phương hướng);

hồi ký: Phạm Bính (Những người sống mãi);

ký sự: Trần Đông Hưng (Lần thử thách đầu tiên);

truyện ngắn: Vũ Mạnh Cần (Cái nồi vỡ), Phạm Hồng (Ổ gà), Võ Sĩ Đào (Một mối tình);

thơ: Thân Như Thơ (Khóm rừng di động), Xuân Diệu (Về Tuyên), Bùi Ngọc Trình (Tấm huân chương), Hồng Thanh (Món quà đầu năm), Xuân Sách (Bên bờ sông nhỏ), Xuân Miễn (Trước trang sách Lê-nin), Cầm Giang (Tên mới), Lương Huy (Cây gạo đầu thôn);

ca dao: Nguyễn Ái Mộ, Gia Quỹ, Phan Sĩ Đản, Nguyễn Huy Kính;

kịch Hải Vinh (Đổi thay), Trần Huy Phụng (Khóa miệng họ lại, hoạt cảnh);

độc tấu: Văn Cảnh (Vì ngày mai);

thơ đả kích: Lê Kim (Cái quạt Xuân Hương và cái mồm tổng Diệm);

nghị luận: Tố Hữu (Văn học là một vũ khí cách mạng; Tân sự làm thơ với các bạn trẻ); Chiến Kỳ (Hồn thơ phong phú của con người bộ đội trong tập ‘Trên tuyến đầu tổ quốc’); Lê Sĩ Thắng (Những suy nghĩ của tôi khi viết truyện ngắn ‘Sang sông’); Hà Mậu Nhai (Một vài ý kiến sau khi xem vở kịch ‘Một đảng viên’); V.T. (Vài nét về thân thế và sự nghiệp nhà văn Ngô Tất Tố, nhân dịp ‘Tắt đèn’  xuất bản lần thứ 5),…  

 

 

 

Tháng 5:

− Đầu tháng 5: tập san Nghiên cứu văn học số 5/60:

Viện Văn học (Một sự kiện lớn trong đời sống văn học: ‘Ngục trung nhật ký’ của Hồ Chủ tịch);

Hồ Tuấn Niêm (Hồ chủ tịch và nền văn học mới);

Trần Thanh Mại (Học tập một số thơ văn Hồ Chủ tịch);

Lê Anh Trà (Cách viết của Hồ Chủ tịch);

Hoài Thanh (“Từ ấy’ tiếng hát của một người thanh niên, một người cộng sản);

Hoàng Phê (Vấn đề chữ quốc ngữ);

Hoàng Trinh (Thử tìm hiểu Sholokhov, một người nghệ sĩ của cuộc sống và của thời đại);

Dĩ Quần T.Q. (Truyền thống vẻ vang của cuộc cách mạng văn học ‘Ngũ Tứ’, Hồng Dân Hoa dịch);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Nội dung của văn học);

‘Trao đổi ý kiến’: Việt Trung (Vấn đề Vũ Trọng Phụng), Huệ Chi-Phong Lê (Vài vấn đề văn học sử của giai đoạn 1930-1945, nhân đọc ‘Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam’ của nhóm Lê Quý Đôn);

‘Sưu tầm’: (Một ít thơ ca dân gian về Hồ Chủ tịch);

Mạc Phi-Mai Trân (‘Xí-pá-hả-lăng’ truyện cổ tích dân tộc Thái);

‘Sinh hoạt văn học’: (Một cuộc tranh luận văn học ở Liên Xô [giữa Motyleva và Fradkin về vấn đề chủ nghĩa hiện thực ở văn học nước ngoài]),…

− Ngày 6: báo Văn học số 93:

Nguyễn Xuân Khoát (Quốc hội của ta, trả lời phỏng vấn);

bút ký Nguyễn Tuân (Gió Than Uyên);

thơ Lưu Quang Thuận (Người ứng cử viên vĩ đại), Anh Thơ (Theo bước Bác), Lê Văn Bài (Niềm vui của mế), Vương Linh (Giữa lòng tôi có Bác), Nguyễn Phương (Nhân dân Triều Tiên thêm tin tưởng Việt Nam);

ca dao: Hoàng Thư;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Anh Cường (Một đêm mổ ở hỏa tuyến), Trọng Báu (Cô bán sách), Anh Sơn (Con ếch);

văn thơ đả kích: Tú Sụn (Trông người lại nghĩ đến ta), Tú Mỡ (Tổng Ách chẳng tới mà xem), Nguyễn Đình (Kẻ cướp la làng);

Chàng Văn (Trao đổi);

Đào Lâm Tùng (Hình ảnh Hồ Chủ tịch trong thơ ca nhân dân);

Huệ Chi-Phong Lê (Qua tập thơ văn ‘Những bông hoa dâng Đảng’, Nxb. Lao động);

Nguyễn Xuân Sanh (Nhà thơ lớn hiện đại của đất nuớc Tiệp Khắc: V. Nezval);

thơ V. Nezval (Bài ca Tiêp Khắc; Tôi bỏ phiếu cho cách mạng, Nguyễn Xuân Sanh dịch);

truyện ngắn Ludvik Ashkenazy (Ánh lửa, Thiết Vũ, Hồng Thao dịch).

 

− Ngày 13: báo Văn học số 94:

thơ dân gian Việt Bắc (Ông Cụ đến bản tôi, Cầm Giang sưu tầm và dịch), thơ Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của Nước), Bàn Tài Đoàn (Cụ Hồ cho muối), Khương Hữu Dụng (Bác Hồ đi kháng chiến), Hoàng Minh Châu (Tiếng nói của Người), Vị Thủy (Cây đa Bác Hồ), Hoàng Trung Thông (Đọc thơ Bác), Tế Hanh (Còn nóng giữa lòng tôi);

bút ký Hoài An (Người công dân vĩ đại);

hồi ký Lê Minh (Những cánh hoa mai);

thư và thơ Hồ Chủ tịch (Gửi chiến sĩ và đồng bào tết Bính tuất, 1946; Chúc năm mới, 1947; Thơ, 1947; Thơ, 1949; Gửi các họa sĩ nhân triển lãm hội họa 1951; Thơ trung thu, 1952);

văn thơ đả kích: Thanh Minh (Văn tế sống tổng Ngô);

tiểu luận Lê Anh Trà (‘Nhật ký trong tù’), Nam Trân (Một vài điểm về nghệ thuật thơ chữ Hán của Hồ Chủ tịch), Hằng Phương (Cảm tưởng sau khi đọc ‘Nhật ký trong tù’), Vương Linh (Lòng yêu con người trong thơ Hồ Chủ tịch);

thơ Trương Vĩnh Mai. TQ. (Câu chuyện Mục Nam Quan, Lê Huy Tiên dịch), R. Karmen (Đồng chí Hồ chí Minh),…

− Ngày 13: tại câu lạc bộ Đoàn Kết, Hà Nội, Viện phó Viện văn học Hoài Thanh nói chuyện về tập thơ ‘Nhật ký trong tù’; sau nói chuyện có ngâm thơ. (8)

− Ngày 19: tại Hà Nội, học giả Bùi Kỷ qua đời, thọ 73 tuổi.

− Ngày 20: báo Văn học số 95:

bài hát của người Giơ-rai (Nhớ Bác Hồ, Sơng Hinh sưu tầm, Ngọc Anh phỏng dịch);

‘Về tập thơ ‘Nhật ký trong tù’: Tú Mỡ (Lòng thương người trong thơ Hồ Chủ tịch), Chiến Kỳ (Thử bàn về cách dịch hai bài thơ Bác), Lưu Quang Thuận (Những bài học lớn trong thơ Bác);

Thơ: Nhạn Lai Hồng (Bài ca dệt vải), Bàng Sĩ Nguyên (Trên đường biên giới), Xuân Hoàng (Dưới hiên trăng), Bùi Minh Quốc (Người đến với ta), Đào Xuân Quý (Bác ở khắp nơi), Văn Quang (Nhớ cụ Hồ), Xuân Diệu (Một con người), Nguyễn Xuân Sanh (Năm trước Bác Hồ đến thăm đây);

hồi ký: Bùi Công Trừng (Trước sau như một);

bút ký: Bích Thuận (Tình thương của Bác), Nguyễn Thị Tư (Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ rất giản dị), Quang Huy (Chúng tôi làm phim ‘Hình ảnh về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch’), Trường Sơn (Những di vật vô giá về đời hoạt động của Bác);

truyện ngắn: Lê Khắc Hoan (Chuyện một cô giáo mới);

văn thơ đả kích: Xuân Khai (Ngô Đình Diệm viết di chúc), Phú Sơn (Một chiến công);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Trần Vượng (Mấy ý nghĩ khi đọc tập hồi ký cách mạng ‘Nhân dân ta rất anh hùng’), Phấn Đấu (‘Cô gái Thu Bồn’ kịch thơ của Huyền Kiêu);

− Ngày 27: báo Văn học số 96:

nghị luận: Tú Mỡ (Trao đổi văn hóa làm cho các dân tộc Á-Phi gần gũi nhau);

truyện ngắn: Hải Hồ (Anh bộ đội và lũ trẻ nhỏ);

thơ: Quốc Tịch (Em bé da đen), Phạm Hổ (Chèo thuyền cắt cỏ chăn trâu; Con gà giò);

ca dao: V.Đ., Phạm Phú Thang-Nguyễn Chí Cao;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Giang Lam (Làng), Hoàng Pha (Nếp cũ);

văn thơ đả kích: Huyền Thanh (Ai oán);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Trần Tuấn Lộ (‘Trước giờ nổ súng’, tiểu thuyết Lê Khâm), Phan Xuân (‘Tổ tâm giao’ truyện thiếu nhi của Trần Thanh Địch);

Thơ: Tiêu Tam, T.Q. (Mừng thọ Chủ tịch Hồ Chí Minh 70 tuổi, Khương Hữu Dụng dịch), Ba-tun-ga, Mông Cổ (Chúc Bác Hồ sống mãi, T.Đ. phỏng dịch), S. Marshak (Quả bóng, Khương Hữu Dụng dịch); (M. Gorki nói về thiếu nhi, Ngọc Quế dịch);

− Trong tháng 5: Tạp chí Văn nghệ số 36:

truyện Bùi Đức Ái (Bức tranh để lại);

bút ký Nông Minh Châu (Vài mẩu chuyện về Hồ Chủ tịch ở Việt Bắc), Giang Tấn (Nhớ ngày gặp Bác), Lưu Quý Kỳ (Thành đồng của Nam Bộ);

thơ Xuân Diệu (Tạc theo hình ảnh cụ Hồ), Hoàng Tố Nguyên (Mảnh vườn quê ngoại), Ngô Quân Miện (Tiếng hát con tôi), M. Riffaud, Pháp (Bác Hồ, Tế Hanh dịch), Amrita Pritam, Ấn Độ (Hồ Chí Minh, Tố Hữu dịch);

tiểu luận: Viên Ưng, T.Q. (Bác Hồ, một nhà thơ lớn), Nguyễn Trác (Tháng Năm đọc ‘Nhật ký trong tù’ của Hồ Chủ tịch);

Hồng Chương (Một hiện tượng mới trong văn học chúng ta [sự xuất hiện các tác phẩm hồi ký CM]); Lưu Trọng Lư (Làm thế nào để có tác phẩm tốt); Trọng Anh (Bàn về sáng tác kịch bản cho sân khấu); Đình Quang (Stanislavski, người thầy vĩ đại của nghệ thuật sân khấu);

‘Thời sự văn nghệ’: Bùi Quang Nam (Vài ý kiến về việc chọn chủ đề và thể hiện Hồ Chủ tịch); Ngô Huy Quỳnh (Một di sản kiến trúc của dân tộc: chùa Diên Hựu); ‘Đọc sách’: Khái Vinh (‘Phê bình và giới thiệu thơ’ của Xuân Diệu), Minh Dương (‘Những phút ngập ngừng’, nhiều tác giả), Bàng Sĩ Nguyên (‘Cầu vào bản’, nhiều tác giả);

‘Ý kiến ngắn’: Văn Hiến (Tủ sách riêng, tủ sách chung), Anh Sơn (Tên làng cũ, tên làng mới), V.N.C. (Các nhà nghệ thuật cần quan tâm đến các cuộc tranh luận về nghệ thuật hơn nữa),…  

− Trong tháng 5: tạp chí Văn nghệ quân đội số 5/60:

số chúc thọ Hồ Chủ tịch 70 tuổi:

Khắc mãi trong tim (thơ văn về Bác Hồ của nhiều tác giả: Chu Văn Tấn, Bùi Công Bính, Văn Quang, Tạ Duy Đức, Lê Văn, Vương Trí Nhàn, Trọng Khoát, Nguyễn Mỹ, Lâm Quang Vinh, Trúc Hà, Lê Thành, Hoàng Xuân Đỉnh, Thân Như Thơ, Thanh Tịnh);

bút ký: Văn Phác (Bác của chúng ta);

ký ức: Hồ Phương (Cận vệ);

hồi ký: Nguyễn Tử Bình (Tiếng kồng);

truyện ngắn: Lê Đình Dư (Một chiếc máy bay bị hạ), Văn Dân (Câu chuyện của người tù binh), Văn Tấn (Một câu chuyện trên sông Hiền Lương);

kịch: Hoài Giao (Quân xanh quân đỏ), Trần Huyền Dân (Tài thật, hoạt cảnh);

thơ: Nguyễn Công Kỳ (Con mắt Bác Hồ), Vạn Thọ (Chiếc bát dừa), Ngọc Minh (Mặc áo cụ Hồ đẹp hơn công múa), Xuân Sách (Mấy vần thơ dâng Bác), Lưu Trùng Dương (Trong viện bảo tàng cách mạng);

ca dao: Lê Hồng Cần, Phạm Thành, Lê Kế Yến, Nguyễn Ái Mộ, Phan Sĩ Đản;

thơ đả kích: N.T. (Bức thư trần tình gửi Ngô tổng thống);

độc tấu: Trần Đô (Lái xe hơi);

nghị luận: Nguyễn Trọng Oánh (Vài cảm nghĩ chân thành, đọc ‘Nhật ký trong tù’); Thanh Tịnh (Vài suy nghĩ về viết ngắn); Trần Ngọc (Một số ý kiến về làm thơ phục vụ huấn luyện quân sự),…

Tháng 6:

− Đầu tháng 6: tập san Nghiên cứu văn học số 6/60:

Nguyễn Hồng Phong (Mấy ý kiến về vấn đề tiếp thu vốn cũ);

Trần Huy Liệu (Đọc tập thơ ‘Nhật ký trong tù’của Hồ Chủ tịch);

Trương Chính (Nhân đọc cuốn ‘Trên đường học tập và nghiên cứu’ của Đặng Thai Mai);

Đinh Xuân Lâm, Triêu Dương (‘Trung nghĩa ca’, một tác phẩm văn học giá trị);

Nguyễn Văn Hoàn (Cần có một bản Kiều quốc ngữ tương đối đúng với nguyên tác);

Nông Trung (Vài vấn đề văn học dân tộc Nhắng);

Hoàng Phê (Điểm qua những ý kiến gần đây về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ);

Cao Huy Đỉnh (Nhà thơ Kalidasa và vở kịch bất hủ ‘Shakuntala’);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Hình thức của văn học);

‘Đọc sách’: Nam Mộc (‘Kinh nghiệm viết cho các em’); Trần Tuấn Lộ (‘Buổi sớm bên sông Đà’, tiểu thuyết Vương Tùng, T.Q., bản dịch Sơn Hinh và Song An, Nxb. Văn hóa);

‘Trao đổi ý kiến’: Hoàng Anh Đường (Dịch sách cho thiếu nhi), Từ Lâm (Mấy ý kiến góp thêm về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ);

‘Sưu tầm’: Hoàng Ngọc Phách (Bài phú ‘Thí trường thảm trạng’ của Nguyễn Khách Doanh), Nguyễn Đức Bính (Một mối tình hận của Nguyễn Du);

‘Sinh hoạt văn học’: Viện VH (Một sự kiện văn học lớn: ‘Nhật ký trong tù’ của Hồ Chủ tịch).

− Ngày 3: báo Văn học số 97:

Thơ: Bàng Thúc Long (Người bán sách lưu động), Trinh Đường (Bác Hồ), Huy Cận (Xem tranh Tề Bạch Thạch), Chính Hữu (Đêm tháng Năm);

truyện ngắn: Phan Văn Đoàn (Những giọt máu);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Phạm Trọng Hữu (Đêm trực phòng), Trần Đình Liệu (Trên một chuyến xe lửa), Nguyễn Viết Bình (Hai đầu dây nói);

ca dao: Lê Duy, Nguyễn Huy Kính;

‘Sưu tầm’: Hoàng Tiêu (Lời con dặn mẹ, một bài thơ Hoàng Văn Thụ);

văn thơ đả kích: Thiết Cương (Tổng Ngô và người bị bắt), Phạm Công (Đã gian lại ngoan);

Chàng Văn (Trao đổi);

Nam Trân (Sổ tay: trích dịch ‘Tùy Viên thi thoại’);

‘Đọc sách báo’: Phiêng SLung (Đọc ‘Văn nghệ Việt Bắc’ số 1, sở Văn hóa Việt Bắc và Nxb. Dân tộc Việt Bắc xuất bản), Vị Hà (Sách mới: ‘Trắng đen’; ‘Lang sói một phường’, Nxb. Phổ thông); Lưu Quang Thuận (Chép nhạc mừng thọ Bác);

K. Zhelinski, L.X. (Đi ngả nào? [tiếp tục đề tài bức thư của Ehrenburg về quan hệ giữa khoa học và nghệ thuật]);

Hạ Diễn, T.Q. (Viết kịch bản điện ảnh như thế nào? Thượng Duy trích dịch);

thơ N. Guillén, Cuba (Bức thành, Xuân Diệu dịch; Khúc hát của hai ông tổ, Khương Hữu Dụng dịch),…  

− Ngày 10: báo Văn học số 98:

thơ Nguyễn Xuân Sanh (Tôi đến thăm nhà Maiakovski), Xuân Diệu (Trồng cây), Đăng Khoa (Lên);

truyện ngắn Đỗ Đức Thuật (Ngôi nhà); Đỗ Quang Tiến (Đồng chiêm, ghi chép);

 ‘Người mới-Cuộc sống mới’: Thôi Nhiên (Bông hoa hồng đỏ), Ma Văn Kháng (Bộ đồ cũ kỹ);

ca dao: Nguyễn Duy Khoát, Dương Văn Viễn;

văn thơ đả kích: Tú Sụn (‘Cuốc sách’Mỹ), Phạm Công (Lá bùa hộ mệnh), Huyền Thanh (Gửi Tưởng cố tri);

Chàng Văn (Trao đổi);

Nam Trân (Sổ tay: trích dịch ‘Tùy Viên thi thoại’);

‘Đọc sách’: Triêu Dương (‘Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền’), Khái Vinh (‘Một anh hùng thời đại’, một tác phẩm hiện thực vĩ đại của nền văn học Nga trước cách mạng);

Lưu Quang Thuận (Xem diễn chèo cổ nhìn lại chèo mới);

thơ V. Soloukhin, L.X. (Lò lửa, Hoàng Minh Châu phỏng dịch); Regina Hastedt, CHDC Đức (Con người đó, tôi sẽ không rời ra nữa, H.P. dịch); K. Zhelinski (Đi ngả nào? Nguyễn Văn Sĩ dịch, tiếp).

− Ngày 17: báo Văn học số 99:  

Thơ: Bàn Tài Đoàn (Chim bay thấy), Văn Tuế (Lúa cũng lớn lên theo), Mai Phương (Mong ngày về bên kia giới tuyến);

truyện ngắn: Nguyễn Khải (Một cặp vợ chồng);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Xuân Thu (Bệnh xá tinh thần), Nguyễn Gia Nùng (Chiếc áo nâu của người du kích);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Xin đừng nối giáo cho giặc), Tú Sụn (Mách kế cho ông trùm mật thám Nhật), Phạm Công (Vẫn một tấn tuồng);

Chàng Văn (Trao đổi); Nam Trân (Sổ tay: trích dịch ‘Tùy Viên thi thoại’);

‘Đọc sách’: Viết Thành (‘Như cánh chim bay’ của Đinh Chương), Nguyễn Thái Ninh (Góp vài ý kiến về bản dịch ‘Khuất Nguyên’, kịch Quách Mạt Nhược, Nxb. Văn hóa); K. Paustovski, L.X. (Kỷ niệm về Babel);

Thơ: Drago Siliqi, Albanie (Cô gái Miếc-đi-xi-a, Khương Hữu Dụng dịch);

PV. (Buổi nói chuyện của nhà văn V. Soloukhin tại trụ sở Hội nhà văn);

− Ngày 24: báo Văn học số 100:

Thơ: Tế Hanh (Tiếng sóng), Trần Cẩn (Nên người), Lê Nguyên (Mới hôm nào);

truyện ngắn: Vũ Trường Sơn (Xuống đà), Trần Trọng Biền (Một chiến công của thầy Bang Sứt);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Trần Kim Thành (Đêm);

ca dao: Nguyễn Huy Kính, Huyền Thanh;

văn thơ đả kích: Đồ Phồn (Cố đấm ăn xôi), Tú Mỡ (Ai-xen-hao còn mặt mũi nào…);

Chàng Văn (Trao đổi);

Nam Trân (Sổ tay: trích dịch ‘Tùy Viên thi thoại’);

nghị luận: Nguyễn Chí Thanh (Đẩy mạnh phong trào viết văn);

đọc sách: Lê Đình Kỵ (Vài ý nghĩ về ‘Những người đáng yêu nhất’, tập thơ Lưu Trùng Dương), Vọng Đức (Sách mới: ‘Tuyết Tư tiên sinh’, Nxb. Kim Đồng);

nghệ thuật: Mịch Quang (Gấp rút sưu tầm khai thác vốn dân tộc quý báu trong ngành tuồng cổ);

Nguyễn Xuân Sanh (Tudor Arghezi, nhà thơ lớn nhất nước Rumania);

thơ T. Arghezi (‘Năm một ngàn chín trăm linh bảy…’, Nguyễn Xuân Sanh dịch),…

− Trong tháng 6: Tạp chí Văn nghệ số 37:

truyện ngắn Xuân Khánh (Rừng sâu);

Nguyễn Tuân (Thuyền than xuôi Quỳnh Nhai);

thơ Anh Tuấn (Gần thêm), Hoàng Minh Châu (Sáng), Vương Linh (Nhớ rừng dừa), Huy Cận (Sập lò Cái Đá);

phê bình: Thành Duy (Mấy ý kiến nhân đọc ‘Đi bước nữa’), Lê Đình Kỵ (Đọc ‘Tiếng ca người Việt Bắc’); Nguyễn Tuân (Trước đèn, đọc đoản thiên Ngô Tất Tố);

Trường Lưu (Mỹ - Diệm đang đầu độc thiếu nhi miền Nam bằng văn nghệ);

‘Đọc sách’: Minh Thi (‘Trên miền Bắc thân yêu’ nhiều tác giả), Giang Phong (‘Đường trở về’, tập truyện ngắn Trịnh Xuân An), Khái Vinh (‘Một mùa hoa’, tập thơ văn của 20 tác giả nữ);

‘Ý kiến ngắn’: Trần Phượng Anh (Vài ý kiến về vấn đề thơ), Bảo Ngọc (Để có một bản Kiều tương đối đúng nhất), Lưu Quang Thuận (Ngâm thơ trên đài phát thanh);

Võ Quảng (Daniel Defoe và quyển ‘Robinson’); Xuân Diệu (Nhà thơ Alfred de Musset); thơ A. Muset (Gọi hỏi sao Hôm; Đêm tháng Chạp; Đêm tháng Tám, Xuân Diệu dịch); truyện ngắn J. Fucik (Sasu cậu bé, X.Đ. dịch),…

− Trong tháng 6: tạp chí Văn nghệ quân đội số 6/60:

Nguyễn Chí Thanh (Đẩy mạnh phong trào viết văn trong quân đội chúng ta, bài nói tại Hội nghị bạn viết toàn quân 1960);

truyện ngắn Văn Dân (Khoa mục hiện đại đầu tiên), Phục Thiện (Em bé mồ côi), Lò Văn Khiêm (Pì-noọng), Lê Anh Huấn (Người tổ trưởng), Văn Ngữ (Vật kỷ niệm của người đã mất);

Bùi Công Danh (Hai anh giao cảnh, mẩu chuyện);

kịch Thạch Chuyên (Bức công điện), Hoài Giao (Ra đảo, hoạt cảnh);

thơ Vạn Thọ (Anh lính xã viên), Ngọc Minh (Tuổi trẻ dưới trăng), Lữ Huy Nguyên (Miệt mài), Anh Tuấn (Người binh nhất), Lưu Trùng Dương (Góp phần trí tuệ), Thái Giang (Rau xanh), Nguyễn Trọng Oánh (Tổ tâm giao), Võ Văn Trực (Hai con đường), Phạm Thanh Tâm (Con gái nuôi đơn vị Mường Pồn, truyện thơ);

ca dao Phan Sĩ Đản, Vinh Tú, Ngô Văn Ứng, Nguyễn Ái Mộ, Hải Bình; truyện Lý Doãn Anh, Triều Tiên (Con đường cách mạng, Doãn Trung dịch qua Trung văn); tiểu luận Đông Hoài (Mấy ý nghĩ về tập hồi ký ‘Nhân dân ta rất anh hùng’);

PV (Điểm sách: ‘Người trai Bình Định’, truyện thơ Xuân Thiêm; ‘Ban đầu’, tập thơ Bàng Sĩ Nguyên; ‘Những người đáng yêu nhất’ tập thơ Lưu Trùng Dương),

 

 

Tháng 7:

− Ngày 1: báo Văn học số 101:

truyện ngắn: Chu Văn (Con trâu bạc), Đinh Văn Thông (Chiều sâu);

thơ: Huỳnh Tâm Chí (Cô thợ thủy tinh Hoa kiều), Minh Huệ (Lúa và con), Vương Linh (Quy Nhơn);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Dương Thu Ái (Việc chung);

ca dao: Trần Lê Đệ; 

thơ đả kích: Tú Mỡ (Những con bài Mỹ), Tú Sụn (Chuyến đi nhục nhã);

Chàng Văn (Trao đổi);

Nam Trân (Sổ tay: trích dịch ‘Tùy Viên thi thoại’);

‘Đọc sách’: Trần Vượng (‘Cô lái đò sông Ninh’ tập truyện Chu Văn), Thái Anh (‘Chú đất nung’, đồng thoại của Nguyễn Kiên);

Trọng Anh (Trao đổi ý kiến: Về những phiến đoạn chèo cổ); Ngô Huy Quỳnh (Công trình kiến trúc Nhà Quốc hội trong bộ mặt thủ đô đổi mới);

tiểu luận L. Sobolev, L.X. (Nhà văn và thời đại),…

− Ngày 4: Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Hội nhà văn VN, thảo luận bản đề án và quyết định nhiệm vụ 6 tháng cuối năm của Thường vụ Hội: 1/ tổ chức đi thực tế cho hội viên; 2/ giải thưởng văn học 1956-1960; 3/ mở trại hướng dẫn sáng tác 1960; 4/ xúc tiến công tác quỹ văn học và nhà sáng tác; 5/ công tác hội viên. (9)

− Đầu tháng 7: tập san Nghiên cứu văn học số 7/60:

Lê Anh Trà (Đọc ‘Sơ thảo nguyên lý văn học’ của Nguyễn Lương Ngọc);

Bùi Văn Nguyên (Truyện Nôm khuyết danh, một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam);

Nguyễn Đình Chú (Nguyễn Thiện Kế, một nhà thơ trào phúng có giá trị);

Nguyễn Đức Đàn (‘Xuân thu nhã tập’, một khuynh hướng suy đồi trong văn học tư sản Việt Nam);

G. Boudarel, Pháp (Một cốt cách cổ điển và những sáng tạo hiện đại [về ‘Nhật ký trong tù’ của Hồ Chủ tịch]);

Đào Thản (Phấn đấu cho ngôn ngữ trong sáng và chính xác hơn nữa);

Phùng Chí, T.Q. (Học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, xác định rõ hơn nữa phương hướng công tác nghiên cứu văn học nước ngoài, Hồ Tố Ngọc dịch);

I. Trifonova (Về văn học Xô-viết hiện đại);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Hình tượng nghệ thuật trong văn học);

‘Đọc sách’: Ngọc Cầu (‘Cây thập tự thứ bảy’ của Anna Seghers), Mai Trân (‘Vũ trung tùy bút’ của Phạm Đình Hổ);

‘Trao đổi ý kiến’: Lê Xuân Vũ (Mấy ý nghĩ về việc dịch tác phẩm văn học), Mộ Thanh (Mấy ý kiến về việc dịch tác phẩm văn học);

‘Sưu tầm’: Vi Trọng Liên (‘Đi tìm vợ’, truyện cổ tích dân tộc Thái), Phong Châu và Nguyễn Tường Phượng (Bài phú Nôm khoa cử vào loại cổ nhất của Việt Nam: ‘Phụng thành xuân sắc phú’ của Nguyễn Giản Thanh),…

− Ngày 8: báo Văn học số 102:  

Nguyễn Phương Danh (Vinh dự chung cho giới sân khấu chúng tôi);

thơ Lưu Quang Thuận (Kính chào Quốc hội khóa 2), Sơn Nguyên (Không nói được), Bạch Linh (Chúng nó là ai? Tôi biết);

ca dao: Trần Lê Đệ; truyện ngắn Hồ Phương (Cỏ non);

trích tiểu thuyết Nguyễn Quang Sáng (Đi đâu?);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Hoài An (Làng tôi);

thơ đả kích: Tú Sụn (Thi cử miền Nam; Thân phận bù nhìn);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Vũ Tú Nam (Tính chiến đấu trong truyện ‘Mạch nước ngầm’ của Nguyên Ngọc), Vị Hà (‘Đổi đời’, tập truyện, Nxb. Phổ thông);

thơ Algérie: Malec Haddad (Ban đêm tôi đứng canh, Thế Lữ dịch), A-ta-ka-ra (Hạn hán, Hoàng Minh Châu dịch), Kateb Yacine (Ngọn lửa này, đấy là bí quyết, Chế Lan Viên dịch);

tiểu luận: L. Sobolev, L.X. (Nhà văn và thời đại, tiếp),…

− Ngày 15: báo Văn học số 103:

truyện ngắn: Châu Diên (Gia đình ông chủ nhiệm), Văn Ngọc (Lá bùa hộ mạng);

 Nguyễn Quang Sáng (Trở lại Ba Vì, ghi chép);

thơ miền Nam gửi ra: Thanh Hải (Nhớ), Giang Nam (Món quà bé nhỏ);

thơ: Quang Huy (Chiến mũ sắt của người lính Mỹ), Xuân Diệu (Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong), Băng Sơn (Xuống đường);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Giống hay khác?), Đồ Phồn (Báo cáo láo), Phạm Công (Cũng đành nhắm mắt đưa chân);

Chàng Văn (Trao đổi); 

Đọc sách: Trần Tuấn Lộ (Tháng bảy, đọc thơ đấu tranh thống nhất), Trần Thôn Trang (‘Sóng gầm Côn Đảo’, trường ca Huyền Kiêu, Nxb. Phổ thông);

tiểu luận L. Sobolev, L.X. (Nhà văn và thời đại, tiếp),…

 

 

 

 

− Giữa tháng 7: công bố giải thưởng đợt II cuộc thi viết về đề tài miền Nam do báo ‘Thống nhất’ tổ chức: giải Nhất: không có; giải Nhì: 1/ Bức thư trong rừng (truyện ngắn) của Nguyễn Quang Thân; 2/ Má Năm Cần Thơ (truyện) của Lâm Phương; giải Ba: 1/ Những người thợ đá (truyện) của Giang Nam (miền Nam); 2/ Lá bùa hộ mạng (truyện) của Văn Ngọc; 3/ Buổi chợ về (truyện) của Hải Hồ; 4/ Chuyến dừa mọng (truyện) của Xuân Vũ; một giải Thơ: 10 bài từ miền Nam gửi ra của Giang Nam, Thanh Hải, Trọng Tuyển; ngoài ra còn trao giải khuyến khích cho 6 tác phẩm khác. (10)

− Ngày 22: báo Văn học số 104:

thư văn nghệ sĩ tại cuộc mit-tinh 10/7/1960 gửi văn nghệ sĩ miền Nam;

truyện ngắn Xuân Thiều (Cô thương binh);

thơ Yến Lan (Bạn mới), Tố Uyên (Tổ thêu), Vân Long (Đôi mắt), Thiện Nhân (Vì một con đường chưa nối);

ca dao Minh Hiệu, Phạm Trọng Kiểu;

văn thơ đả kích: Tú Sụn (Hịch chống Mỹ), Phạm Công (Có gan bán nước, có ngày tan xương);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Kinh nghiệm sáng tác’: Tế Hanh (Tôi làm thơ về đấu tranh thống nhất), Tô Hoài (Sổ tay);

Quân (Chuyện thơ ông Tú Ca, Dũng Hiệp chép);

‘Đọc sách’: Chiến Kỳ (‘Lên đường thắng lợi’, hồi ký cách mạng), Hoa Tiêu (‘Giữ súng mướn’ truyện Vân An, Nxb. Kim Đồng);

Nghệ thuật: Trọng Anh (Chèo Việt Nam đi Trung Quốc và Mông Cổ);

thơ M. Konopnicka, Ba Lan (Ôi, vì sao Vi-xua?; Linh cảm mùa xuân, Thanh Lê dịch);

Tô Hoài (Thư gửi Gay-đa-en-kô và các bạn nhà văn thành phố Odessa),…

− Ngày 25: Nguyễn Huy Tưởng qua đời [Nguyễn Huy Tưởng s. 6/5/1912, quê xã Dục Tú phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh; làm viên chức rồi bước vào nghề văn từ 1942; là một trong số thành viên đầu tiên của Hội Văn hóa Cứu quốc (1943) trong Mặt trận Việt Minh, là một trong những người sáng lập Hội văn nghệ Việt Nam (1948), Hội nhà văn VN (1957); đại biểu Quốc Hội VNDCCH khóa 1, 2; tác giả nhiều kịch lịch sử (Vũ Như Tô, 1943; Cột đồng Mã Viện, 1943; An Tư công chúa, 1944; Những người ở lại, 1948; Lũy hoa, 1959), truyện ký và tiểu thuyết (Đêm hội Long Trì, 1942; Ký sự Cao Lạng, 1952; Truyện anh Lục, 1955-56; Bốn năm sau, 1959; Sống mãi với thủ đô, 1961).  

− Ngày 29: báo Văn học số 105:

VH (Tiểu sử nhà văn Nguyễn Huy Tưởng);

Nguyễn Đình Thi (Vĩnh biệt Nguyễn Huy Tưởng);

kịch bản phim Nguyễn Huy Tưởng (Lũy hoa, trích);

truyện ngắn Lê Khánh (Cô và cháu);

thơ Xuân Miễn (Tháng bảy), Xuân Hoàng (Gửi một công nhân cầu đường người Huế), Huy Cận (Thơ tặng B. Brecht), Nguyên Hoàng (Đôi bàn tay đẹp);

ca dao Nguyễn Huy Kính;

‘Miền Nam’: Mai Văn Tạo (Quê tôi bát ngát nương dâu), Mai Sơn (Giọt máu mạng người), Bùi Công Minh (Cháu mong gặp Bác);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Mạc Văn Trang (Hai anh em);

thơ đả kích: Vũ Duy Tiêu (Nỗi lòng tổng Ngô);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Kinh nghiệm sáng tác’: Tế Hanh (Tôi làm thơ về đấu tranh thống nhất, tiếp, hết);

 ‘Đọc sách’: Đoàn Giỏi (Đọc ‘Chiến lũy ngầm’ của Xuân Vũ), Vị Hà (‘Yêu vì nết’, Nxb. Phổ thông);

thơ chống Mỹ của Điền Gian, T.Q. (Cây dương, H.D. dịch),…

− Trong tháng 7: Tạp chí Văn nghệ số 38:

truyện ngắn: Phạm Hổ (Ngọn đèn);

kịch: Bửu Tiến (Giáo sư Hoàng, trích);

thơ: Thái Giang (Trường Sơn), Đào Xuân Quý (Trở lại Nghĩa Đàn);

phê bình: Vũ Tú Nam (‘Trước giờ nổ súng’, một thành công mới của Lê Khâm), Huệ Chi-Phong Lê (Cách thể hiện con người trong tập truyện ‘Mạch nước ngầm’);

 ‘Đọc sách’: Chiến Kỳ (‘Những người đáng yêu nhất’, tập thơ Lưu Trùng Dương), Phùng Quốc Thụy (‘Trên đe dưới búa’ tập thơ, Nxb. Lao động), Phong Chi (‘Như cánh chim bay’ tiểu thuyết Đinh Chương);

‘Ý kiến ngắn’: Hoàng Phương (Góp ý nhân việc sưu tầm và giới thiệu thơ ca miền núi), Minh Tâm (Việc chọn tác phẩm văn học trong các sách giáo khoa), Đinh Nho Lương (Đẩy mạnh công tác phê bình truyện ngắn);

Thơ: Tiêu Tam, T.Q. (Vịnh Hạ Long, Nam Trân dịch);

truyện: Mark Twain, Mỹ (Câu chuyện cậu Huckleberry Finn);

Am-stéc-đam (Sự giúp đỡ của M. Gorki đối với những người viết văn trẻ),…

 

 

 

 

 

− Trong tháng 7: Văn nghệ quân đội số 7/60:

bút ký Vũ Hồng Quang (Trận đầu trên mặt biển), Bùi Công Danh (Vượt đèo);

phóng sự Từ Bích Hoàng (Chiến sĩ nghĩa vụ 1960);

truyện ngắn Hồng Trung (Người chị gái), Đằng Giang (Bác Ba Thông), Nguyễn Ngọc Tấn (Quê hương);

kịch Hoài Giao (Chiến giầy), Nguyễn Vượng (Họp…họp…và họp!);

thơ Bùi Minh Quốc (Người thêu hoa hạnh phúc), Nguyễn Trọng Oánh (Cây đàn thưở trước), Duy Khoảng (Xem thư), Quang Minh (Hai lần về phép), Thanh Hải, miền Nam gửi ra (Đứng lên), Trọng Khoát (Anh về quê em);

ca dao Thùy Dương, Nguyễn Thi, Nguyễn Chuông, Nguyễn Đức Cẩm, Phan Sĩ Đản, Tô Ngọc Hiến, Nguyễn Ái Mộ;

độc tấu: Hồ Khắc Cường (Tiếng kẻng động binh);

thơ đả kích: Lê Ngọc Vượng (‘Tài ba’ Mỹ Diệm);

nghị luận: Hồ Phương (Không nên viết cẩu thả), VNGPQ. T.Q. (Mấy vấn đề trong việc sáng tác truyện ngắn, Doãn Trung dịch); Trần Bá Phúc-Đỗ Phả (Một vài ý kiến sau khi đọc ‘Trước giờ nổ súng’);

truyện Thao Nuột, Lào (Chặn tay chúng nó lại, Tam Anh dịch),…

 

Tháng 8:

− Đầu tháng 8: tập san Nghiên cứu văn học số 8/60:

B. Riurikov, L.X. (Những quan điểm mỹ học của K. Marx và F. Engel);

Lê Anh Trà (Nhân đọc ‘Mấy vấn đề văn học’ và ‘Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay’ của Nguyễn Đình Thi);

Lê Hoài Nam (‘Phạm Tải-Ngọc Hoa’, một truyện Nôm khuyết danh có giá trị);

Trần Thanh Mại (Vài đặc điểm về truyện tiếu lâm Việt Nam, nhân đọc 2 cuốn ‘Tiếng cười Việt Nam’ của Văn Tân và ‘Truyện tiếu lâm Việt Nam’ của Nguyễn Hồng Phong);

Ritsa Matuszevski, Ba Lan (Vài nét về văn học Ba Lan);

M. Nikolov (Nhìn qua văn học Bulgaria từ chiến tranh thế giới thứ nhất đến nay);

 ‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Điển hình trong văn học);

‘Đọc sách’: Mai Trân (‘Nhị độ mai’), Minh Hương (‘Tôi đã học viết như thế nào’ của M. Gorki);

‘Trao đổi ý kiến’: Sơn Hinh (Bàn thêm về vấn đề dịch tác phẩm văn học), Mai Thương (Bàn về dịch thuật), Trương Chính (Vẫn chuyện dịch);

‘Sưu tầm’: Ngọc Anh (‘Chàng Rôk’ truyện cổ tích dân tộc Cor, Tây Nguyên), Ninh Viết Giao (Phú hầu Tạo),…

 

 

 

 

− Ngày 5: báo Văn học số 106:

bút ký Nguyên Hồng (Khói lò máy xi-măng bay trắng);

Kim Lân (Những ngày cuối cùng của Nguyễn Huy Tưởng), Nguyễn Quang Sáng (Nhớ mãi người anh: Nguyễn Huy Tưởng);

 truyện ngắn Đỗ Diệp Khang (Đôi mắt), Vũ Tú Nam (Chim đêm);

thơ Bàn Tài Đoàn (Tiếng mõ), Đặng Hiển (Đoàn thuyền chở đá), Chế Lan Viên (Văn xuôi về một vùng thơ);

ca dao Nguyễn Ái Mộ;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Phạm Ngọc Giáp (Chị hộ lý);

“Sưu tầm’: N.T. (Vè con cá biển, dân ca LK5);

văn thơ đả kích: Xuân Khai (Khánh thành khu…), Tú Sụn (‘Trù mật’ hay trù mạt?), Phạm Công (Thân trôi man mác biết là về đâu);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Lê Xuân Vũ (Đọc ‘Chuyện cũ viết lại’ của Lỗ Tấn; bản dịch Trương Chính, Nxb. Văn hóa), Phùng Quốc Thụy (‘Quyết chí đấu tranh’, nhiều tác giả, Nxb. Âm nhạc);

Chế Lan Viên (Sổ tay);

Lưu Quang Thuận (Mấy buổi đi thăm trường ca kịch dân tộc);

4 mẩu truyện của Leonid Gu-run, Armenia, L.X. (Một ước mơ; Vai Desdemona; Bạn đường; Ki-ăng Ki-ăng đã đi qua đây, Đỗ Quang Tiến dịch),…

− Ngày 5: tại Hà Nội, nhà báo Phan Thao qua đời. [Phan Thao, đại biểu Quốc hội, chủ bút báo Thống nhất, nguyên Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Liên khu V, con trai cả Phan Khôi].

− Ngày 12: báo Văn học số 107:

trích tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi (Vỡ bờ);

bút ký Xuân Vũ (Lam Sơn quê hương mới);

thơ Dương Quỹ (Tiếng chày giã gạo), Dương Đình Hy (Đây châu Phi), Nguyễn Viết Lãm (Lửa Triều Tiên);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Ngô Thiện Tứ (Một lần về phép), Cầm Phong (Gửi cháu);

ca dao Nguyễn Hữu Ngôi;

‘Sưu tầm’: Chương Dương (Vè cây trái);

văn thơ đả kích: Văn Hoàn (Làm sao cho khỏi…đổ), Tú Mỡ (Vai trò ‘can khéo’ của Liên hợp quốc);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Phạm Hổ (Đọc ‘Người quê hương’, tập truyện Nguyễn Quang Sáng, Nxb. Văn học);

Nguyễn Văn Bổng (Vô cùng thương tiếc anh Phan Thao);

Đỗ Nhuận (Ý nghĩ về 15 năm trong công tác soạn nhạc);

thơ Kim học Khuê, Triều Tiên (Đảng ơi, ta có một trái tim, trái tim Người cho, Sơn Hinh dịch); Vài nét về văn học nghệ thuật Triều Tiên (lược dịch tài liệu ‘Sự nghiệp văn hóa Triều Tiên 15 năm nay’),…

− Ngày 14: Vũ Đình Long qua đời. [Vũ Đình Long, s. 19/12/1896, quê Cao Dương, Thanh Oai, Hà Đông; từ 1925 mở hiệu sách và nhà xuất bản Tân Dân ở Hà Nội, chủ trương các  báo Tiểu thuyết thứ bảy (1934-42), Phổ thông bán nguyệt san (1936-41), Ích hữu (1936-38), Tao đàn (1939-40); tác giả các vở kịch nói Chén thuốc độc (1921), Tòa án lương tâm (1923), Đàn bà mới (1944), Tổ quốc trên hết (1953, phóng tác), các sách giáo khoa Quốc âm độc bản (1932), Thế giới trẻ em (1927)]

− Ngày 17: Bộ văn hóa họp báo về thành tích văn hóa của VNDCCH 15 năm qua: riêng năm 1959 số sách xuất bản đạt 18 triệu bản, gấp 11 lần so với năm 1939 (năm xuất bản cao nhất dưới thời thuộc Pháp); về nghệ thuật: toàn miền Bắc có 59 đơn vị nghệ thuật (gồm 10 đoàn văn công trung ương, 32 đoàn văn công địa phương, 17 đoàn nghệ thuật dân doanh, 37 rạp hát; ở hầu hết các cơ sở sản xuất, thôn xã đều có tổ văn nghệ; 5 năm gần nhất đã cử trên 100 đoàn văn hóa ra nước ngoài và có trên 100 đoàn văn hóa đến từ nước ngoài; đã và đang lập các viện như viện Sử học, viện Văn học, viện Mỹ thuật và Mỹ nghệ, viện Nhạc và Múa, viện Sân khấu; đã mở thêm các trường Âm nhạc, Điện ảnh, Ca kịch dân tộc, múa, và trường Cán bộ văn hóa; toàn miền Bắc có 4630 thư viện hoặc phòng đọc sách lớn nhỏ, trong đó có 37 thư viện công cộng ở trung ương và địa phương với 885.000 cuốn sách. (11)

− Ngày 18: lễ trao giải cuộc thi truyện ngắn của báo Văn học; cuộc thi được mở từ 7/11/1959, kết thúc 19/5/1960; có 1542 bản thảo gửi đến dự thi; tòa soạn báo tổ chức lấy ý kiến đánh giá của bạn đọc (có gần 100 thư bạn đọc tham dự góp ý đánh giá), đồng thời cử ra một ban chấm thi do Tô Hoài làm trưởng ban cùng các thành viên: Hoài Thanh, Bùi Hiển, Đoàn Giỏi, Bùi Huy Phồn, Hà Minh Tuân, Vũ Tú Nam. Kết quả: giải Nhất: 1/ Một cặp vợ chồng của Nguyễn Khải; 2/ Bộ quần áo mới của Ngô Ngọc Bội; giải Nhì: 1/ Con trâu bạc của Chu Văn; 2/ Anh bộ đội và lũ trẻ nhỏ của Hải Hồ; 3/ Chiếc vai cày gỗ nhãn của Đức Hiền; giải Ba: 1/ Chuyện một cô giáo mới của Lê Khắc Hoan; 2/ Cỏ non của Hồ Phương; 3/ Ra đi của Tuyết Minh; 4/ Người lính gác của Nguyễn Xuân Khánh; 5/ Hoa mua của Trọng Khuê; giải Khuyến khích: 1/ Xuống đà của Vũ Trường Sơn; 2/ Một trận đánh kỳ lạ của Lâm Phương; 3/ Cô và cháu của Lê Khánh; 4/ Ngọn đèn của Phạm Hổ; 5/ Gia đình ông chủ nhiệm của Châu Diên; 6/ Những giọt máu của Phạm Văn Đoàn; 7/ Dòng sữa của Trần Thanh Giao; 8/ Một chiến công của thầy Bang Sứt của  Trần Trọng Biền.(12)

− Ngày 19: báo Văn học số 108:

nghị luận Hoàng Trung Thông (Phát huy truyền thống Cách mạng tháng Tám, gắn liền văn học với thực tế đời sống của nhân dân);

bút ký Đào Vũ (Quê hương tôi qua 15 năm);

trích tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi (Vỡ bờ);

thơ Thiện Nhân (Tình yêu), Minh Huệ (Rửa thù cho người cha), Bàng Sĩ Nguyên (Ngã ba sông Tuần Hạc), Hồ Thiện Ngôn (Hoa vải), Đức Mậu (Ông lão bên sông Đào), Nguyễn Xuân Sanh (Sông A-ri-ét hai bờ nay đầy hoa);

sưu tầm: Võ Huy Tâm (Nhà nghèo);

ca dao Phạm Văn Giao, Minh Hiệu;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Nguyễn Thị Thìn (Tổ chim), Văn Hiệp (Ông cụ trên đồi cây dầu);

văn thơ đả kích: Phú Sơn (Gậy ông đập lưng ông), Dũng Hiệp (Đại Pháp kêu trời), Phạm Công (Vững hay không vững?);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Nguyên Hồng (Nhân đọc những truyện ngắn của Nam Cao);

Bùi Tòng (Nền nghệ thuật múa Việt Nam từ sau CMT8),…

− Ngày 26: báo Văn học số 109:

tổng kết cuộc thi truyện ngắn của báo Văn học (Một khóm hoa trong một vườn hoa);

thơ Tố Hữu (Tiếng chổi tre), Nguyễn Hải Trừng (Mừng tàu vũ trụ Liên Xô), Hoàng Trung Thông (Ánh đèn quê hương), Nguyên Hồng (Đường xanh), Hoàng Minh Châu (Mẻ thép đầu), Hoàng Nguyên (Người thợ đóng tàu), Nguyễn Bính (Cầu);

ca dao Phạm Trọng Kiểu, Minh Hiệu;

phóng sự Trần Vượng (Ánh sáng khoa học giữa vùng Cổ Bi);

trích tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi (Vỡ bờ);

văn thơ đả kích: Phú Sơn (Hóa đá), Phạm Công (Bực tức, đau đớn và…lo sợ);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Lê Đình Kỵ (Đọc ‘Hoa gạo’, tập thơ Trinh Đường);

Thúc Mai (Gặt một mùa sáng tác), Hải Như (Người bạn mới đáng yêu của chúng ta);

Trọng Anh (‘Có mặt, những nghệ sĩ sân khấu chúng tôi!’);

M. Sholokhov (Phát biểu khi nhận giải thưởng Lênin 1960 tại điện Kremlin, Moskva, Nguyễn Thụy Ứng dịch);

− Trong tháng 8: Tạp chí Văn nghệ số 39:

Nguyễn Công Hoan (Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo);

truyện ngắn Vũ Tú Nam (Câu chuyện bên bờ biển);

thơ Bàn Tài Đoàn (Nhớ làng xưa), Trần Nguyên (Đứng dậy rồi), Đoàn Văn Cừ (Ôi diệu kỳ tổ quốc chúng ta);

tiểu luận Phan Kế An (Nghệ thuật tạo hình Việt Nam trong mười lăm năm qua), Mạc Phi (Mười lăm năm phát triển văn nghệ ở Tây Bắc), Nguyễn Nho Túy-Mịch Quang (Bước đường lớn lên của ngành tuồng), Thanh Nha (Cải lương qua mười lăm năm);

Huệ Chi-Phong Lê (Đọc ‘Truyện ngắn Nam Cao’ soi lại những bước đi lên của một nhà văn hiện thực);

‘Thời sự Văn nghệ’: Huyền Kiêu (Đợt sóng sáng tác và biểu diễn chống Mỹ-Diệm của văn nghệ sĩ Việt Nam cuồn cuộn dâng cao);

‘Đọc sách’: Khái Vinh (‘Cô lái đò sông Ninh’ của Chu Văn), Minh Trí (‘Hoa vùng mỏ’, nhiều tác giả, Sở VH Hồng Quảng xb.), Minh Dương (‘Cô gái Thu Bồn’ kịch thơ Huyền Kiêu);

trích tiểu thuyết M. Sholokhov (‘Đất vỡ hoang’, Hoàng Trinh, Văn Hiến, Trúc Thiên dịch);

thơ Trịnh Văn Hương, Nam Triều Tiên (Tôi suốt đêm không ngủ, Nam Trân dịch);

 Dumitru Micu (Thơ và phê bình thơ ở Rumania, S. dịch);

I. Ehrenburg (Về chân lý nghệ thuật, Lê Đình Kỵ trích dịch);

G. Bredburg (Tập đoàn các nhà văn châu Âu, Hạnh Đàn dịch),…

− Trong tháng 8: tạp chí Văn nghệ quân đội số 8/60:

tùy bút Thanh Tịnh (Đảng là ánh sáng mùa xuân vô tận), Hà Mậu Nhai (Trên đảo Cô Tô);

hồi ký Trường Sinh (Người trước ngã, người sau tiến lên);

truyện ngắn Nguyễn Khoát (Câu chuyện một người thợ lò), Dũng Hà (Người khẩu đội trưởng), Bùi Công Bính (Cô giáo mới), Khắc Giáo (Mùa lúa chín trên nông trường);

hoạt cảnh Trịnh Thuần (Không nên);

thơ Chính Hữu (Bài thơ khẩu hiệu), Sĩ Phan (Cùng chung lý tưởng), Nguyễn Hồng Trung (Thanh Long), Hà Đức Trọng (Thép), Thế Kỷ (Sao), Lưu Trùng Dương (Trên đầu giường), Hoài Giao (Diễn tập), Thái Giang (Tiếng còi người chiến sĩ chăn nuôi), Nguyễn Trọng Oánh (Ngân hàng máu);

ca dao Phan Sĩ Đản, Trọng Khoát, Nguyễn Ái Mộ, Nguyễn Hữu Phách, Xuân Sách, Hữu Trí, Hoàng Tú, Trần Lê Đệ;

thơ đả kích Đồ Phồn (Đế quốc Mỹ và Thần chết);

nghị luận: M.Gorki (Khuyên những người viết trẻ, Lưu Quỳnh dịch);

Nguyễn Khải (Một chuyến đi tốt đẹp);

Hồ Phương (Giới thiệu sách: Tập hồi ký cách mạng ‘Lên đương thắng lợi’),…

Tháng 9:

− Ngày 2: báo Văn học số 110:

xã luận (Phấn khởi và tự hào);

nghị luận Hoàng Trung Thông (Mười lăm năm văn học Việt Nam), Tú Mỡ (Trải qua một cuộc đổi đời), Ngô Thị Liễu (Qua hai chế độ);

trích tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi (Vỡ bờ);

bút ký Võ Huy Tâm (Làng mỏ);

thơ Xuân Diệu (Mười lăm năm), Khương Hữu Dụng (Quai búa), Đỗ Luyện (Việt Bắc-Tây Nguyên), Băng Sơn (Tiếng hát của Tổ quốc), Huy Cận (Chị tổ trưởng mới), Vân Long (Tổ quốc), Tế Hanh (Thu), Lưu Trùng Dương (Thủy điện), Chế Lan Viên (Văn xuôi về một vùng thơ, trích chương Tàu đến);

Lưu Quang Thuận (Xem vở vũ kịch ‘Ngọn lửa Nghệ Tĩnh’),…

− Đầu tháng 9: tập san Nghiên cứu văn học số 9/60:

Hồ Tuấn Niêm (Mười lăm năm văn học Việt Nam dưới chế độ dân chủ cộng hòa);

Thế Toàn (Con người mới trong văn học Việt Nam);

Hoàng Như Mai (Hai yếu tố lãng mạn và hiện thực trong văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám);

Nguyễn Văn Tu (Mười lăm năm phát triển từ vị tiếng Việt);

Tô Hoài (Cách mạng tháng Tám đã đem lại cho người viết văn một vốn sống phong phú);

Lưu Quý Kỳ (Vài nét về văn học cách mạng ở Nam Bộ trong mười lăm năm qua);

Hà Minh Đức (Trần Đăng, người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ);

Kim Bính Tế, Triều Tiên (Văn học Triều Tiên sau giải phóng);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Tính cách điển hình);

‘Đọc sách’: Thành Duy (‘Lịch sử văn học Nga’ của Hoàng Xuân Nhị),…

− Ngày 9: báo Văn học số 111:

trích Báo cáo chính trị của ĐH 3 ĐLĐVN (Cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật ở miền Bắc nước ta);

‘Biết ơn Đảng thân yêu’: Lưu Trọng Lư (Anh chỉ muốn trẻ lại với cuộc đời, với Đảng);

kịch ngắn Hồ Thức (Người đảng viên núi cao);

trích tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi (Vỡ bờ);

thơ Nguyễn Xuân Sanh (Lòng tôi nhớ mãi tiếng nhà thơ), Hoàng Tố Nguyên (Viếng nghĩa trang liệt sĩ Xô-viết Nghệ Tĩnh), Vương Linh (Mẹ và Đảng), Đỗ Luyện (Trang giấy Hoàng Văn Thụ), Đào Xuân Quý (Đất nước mùa xuân), Dương Quỹ (Quà dâng Đảng);

Hoàng Trung Thông (Mười lăm năm văn học Việt Nam, tiếp);

Chế Lan Viên (Một nhà thơ qua 15 năm cách mạng: Tế Hanh);

Trần Đình Thọ (Triển lãm mỹ thuật 1960), Sơn Nam (Hình ảnh đất nước 15 năm tuổi trẻ),…

− Ngày 16: báo Văn học số 112:

nghị luận Nguyễn Đình Thi (Phấn đấu để có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với nhân dân anh hùng và Đảng của chúng ta, tham luận tại ĐH Đảng);

 ‘Biết ơn Đảng thân yêu’: Nguyễn Phan Chánh (Ngẫm lại cuộc đời cũ, suy nghĩ về những ngày hiện tại), Song Kim (Giọt nước mắt nồng nhiệt), Lưu Hữu Phước (Nhớ lại tiếng nhạc 15 năm cũ);

văn Nguyễn Tuân (Nhật ký lên Mèo);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Thanh Long (Hai chàng quản voi);

thơ Nông Quốc Chấn (Tặng Đảng những bó hoa, tiếng hát), Huyền Kiêu (Cô gái và vết bùn), Đặng Hiển (Đón chào kế hoạch 5 năm), Nông Minh Châu (Bài thơ của người cach mạng);

ca dao Minh Hiệu, Trần Lê Đệ;

văn thơ đả kích: Dũng Hiệp (Gửi ngài Ngô);

Chàng Văn (Trao đổi); ‘Đọc sách’: Hà Văn Thư (Nhà thơ miền núi: Bàn Tài Đoàn, nhân đọc ‘Muối của cụ Hồ’, tập thơ, Nxb. Văn học), Nguyễn Trọng (‘Ngọn lửa mới nhen’ thơ Nguyễn Đình, Nxb. Lao động);

Nghệ thuật: Nguyễn Quang Sáng (Xem vở cải lương ‘Người con gái đất đỏ’, một số vấn đề cần suy nghĩ); Trọng Anh (Kịch nói chuyển mình), Thanh Nha (Một chuyến đi thắng lợi);

truyện Ph. Bonosky, Mỹ (Thung lũng bốc cháy);

các bài ca cách mạng Ghi-nê (Lãnh tụ; Voi, Bọn Pháp cút rồi; Chào các ông Tây, Khương Hữu Dụng dịch);

M. Suslov (Về phê bình văn học, Nguyễn Thụy Ứng trích dịch bài nói 17/7/1960 của Suslov tại Moskva),…

 

− Ngày 21: buổi nói chuyện Đại hội 3 ĐLĐVN và sự nghiệp văn học nghệ thuật do Hội LHVHNTVN tổ chức, khoảng 400 văn nghệ sĩ các ngành đến dự; Ủy viên thường vụ  Hội Võ Hồng Cương nêu tóm tắt nghị quyết ĐH3; Tổng thư ký Hội nhà văn VN Nguyễn Đình Thi báo cáo công tác văn nghệ được đề cập tại ĐH3; bí thư TƯ Đảng Tố Hữu nói chuyện về ĐH3 và sự nghiệp văn học nghệ thuật trong giai đoạn mới.(13)

− Ngày 23: báo Văn học số 113:

nghị luận Trường Chinh (Nhiệm vụ công tác tư tưởng trong thời gian trước mắt, trích tham luận tại ĐH3);

truyện ngắn Lâm Phương (Góp gió thành bão), Vũ Tú Nam (Ngày hòa bình đầu tiên);

thơ Phạm Hổ (Lá thư gửi mẹ xuân này), Nguyễn Tri Lý (Chú đừng khai nghe chú!), Mai Phương (Quê hương);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Phan Sinh Viên (Chiếc xe bò), Nguyễn Mạnh Tráng (Bác lái đò ngang), Trường Giang (Trở lại), Lê Trần Hằng (Bà chủ tịch nông trường chăn nuôi), Dương Huy (Núi phân; Tát nước, ca dao);

thơ đả kích: Thạch Hãn (Mặc dù trong đêm, mặc dù trong tối), Tú Sụn (Tổng Ngô xoay ăn), Phạm Công (Lại tiêu ma thôi);

‘Đọc sách’: Nguyên Ngọc (Cảm tưởng đọc ‘Sông Đà’ của Nguyễn Tuân), Nguyễn Đình (‘Thêm một bản án’, thơ đả kích, Chu Hà, Tú Sụn, Nxb. Văn hóa);

thơ Công-gô (Viếng Emanuel, Nguyễn Thụy Ứng dịch qua tiếng Nga), Nê-na Kơ-ha-ri, Ghi-nê (Khí hậu châu Phi, Nam Trân dịch qua bản Hoa văn);

− Ngày 30: báo Văn học số 114:

nghị luận Hồng Cương (Đào tạo lực lượng văn nghệ mới);

truyện ngắn Phạm Thượng Hữu (Bữa cơm tối);

thơ Nguyễn Viết Lãm (Lời cô gái lái trắc-tơ), Trinh Đường (Nhìn lên ống khói), Nguyễn Văn Chương (Chữa máy thời gian), Chế Lan Viên (Đọc Kiều);

nhân ngày giỗ Nguyễn Du: hai bài thơ chữ Hán (Phản chiêu hồn; Sở kiến hành, Khương Hữu Dụng dịch);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Phạm Công Ngô (Một cuộc gặp gỡ), Trần Kim Thành (Trong vườn hoa; Hai chú bé), Lùng Kim Trân (Bên nôi cháu bé);

văn thơ đả kích: Phú Sơn (Chẳng hề thua ai!), Phạm Công (Mênh mông thật!); Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Lê (Đọc hồi ký ‘Bác Hồ’);

Văn Giáo (Điểm qua vài nét về triển lãm mỹ thuật);

bút ký Trần Tàn Vân, T.Q. (Sa Điền nước ngọt, Bích Xuân dịch);

(Đoàn chèo Việt Nam tại Bắc Kinh, Nguyễn Văn Sĩ trích dịch báo Bắc Kinh).

− Trong tháng 9: Tạp chí Văn nghệ số 40:

truyện ngắn Nguyễn Thế Phương (Đào chèo);

chèo Nguyễn Đăng Thục (Cuộc đời theo Đảng);

thơ Hoàng Minh Châu (Thăm Việt Bắc), Hoàng Trung Thông (Vinh), Nguyễn Viết Lãm (Núi);

tiểu luận Võ Hồng Cương (Nền văn nghệ của ta đã đổi mới và lớn lên), Lưu Hữu Phước (Mười lăm năm xây dựng nghệ thuật âm nhạc Việt Nam), Tạ Phước (Mười lăm năm đào tạo cán bộ âm nhạc), Hàn Thế Du-Hoàng Kiều (Sân khấu chèo qua mười lăm năm giải phóng), Tô Hoài (Mười lăm năm văn xuôi), Xuân Diệu (Mười lăm năm thơ Việt Nam dân chủ cộng hòa), Võ Lượng-Anh Thái (Văn học thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng Tám);

Nguyên Hồng (Những chuyện bỏ dở…[về Nguyễn Huy Tưởng]);

‘Thời sự văn nghệ’: Ngô Huy Quỳnh (Các di tích lịch sử và công trình kiến trúc dân tộc trong quy hoạch cải tạo và mở rộng thủ đô Hà Nội), Tạ Mỹ Duật (Tình hiện đại và tính dân tộc trong phương án kiến trúc Nhà Quốc hội);

‘Đọc sách’: Lê Đình Kỵ (‘Tiếng sóng’ tập thơ Tế Hanh), Minh Thi (‘Chiến lũy ngầm’, tập truyện ngắn Xuân Vũ), Minh Trí (‘Việt Nam trong lòng bạn’, nhiều tác giả);

thơ L. Aragon (Tiếng hát hòa bình, Tế Hanh dịch), M. Karim (Những ý nghĩ khi ngồi trên bờ hồ Hoàn Kiếm, Nguyễn Xuân Sanh dịch).

− Trong tháng 9: tạp chí Văn nghệ quân đội số 9/60:

tùy bút Văn Phác (Cây hoa tổ quốc vĩ đại);

Thanh Tịnh (Vài hình ảnh thân yêu, nhận xét nhỏ);

truyện ngắn Hữu Mai (Đôi mắt), Hải Hồ (Trước một bức tường), Hoài Ngọc (Anh lính mới và cô xã viên trẻ), Nguyễn Ngọc Tấn (Cậu Huân);

truyện phim: Nguyên Ngọc (Hòa bình);

thơ: Xuân Diệu (Mộ Bế Văn Đàn), Kim Anh (Trong nhà ga), Phạm Ngọc Cảnh (Sông nước tình người), Nguyễn Đình Ảnh (Dưới nắng), Xuân Quỳnh (Màu đỏ), Xuân Ích (Anh trọng tài), Trần Minh Thái (Tình bạn), Chế Lan Viên (Văn xuôi về một vùng thơ, trích), Lưu Trùng Dương (Đêm thao trường), Trần Nhật Lam (Hỡi anh lính miền Nam);

ca dao Dương Lê Cung, Lê Hồng Khê, Anh Tuấn, Đinh Vân, Lê Đẳng, Lê Hồng Hách, Quang Chi, Nguyễn Đức Cẩm;

thơ đả kích: Đồ Phồn (Một vụ họa thơ);

Hồ Phương (Giới thiệu ‘Tuyển tập văn Việt Nam 1945-1960’),…

Tháng 10:

− Đầu tháng 10: tập san Nghiên cứu văn học số 10/60:

Nam Mộc (Vài nét về công tác lý luận, phê bình văn học của chúng ta mười lăm năm qua);

Việt Hùng (Điểm qua tình hình dịch thuật và giới thiệu văn học Xô-viết ở nước ta trong mười lăm năm);

Trương Chính (Mấy ý kiến về việc dịch thuật văn học Trung Quốc hiện đại ở nước ta trong mười lăm năm);

Hà Minh Đức (Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn trưởng thành dưới chế độ mới);

 Xuân Diệu (Mười lăm năm lao động thơ, hồi ký);

N. Nikulin, L.X. (Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo lỗi lạc);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Hoàn cảnh điển hình);

‘Đọc sách’: Hoàng Tuấn Phổ (‘Khảo luận về Truyện Thúy Kiều’ của Đào Duy Anh);

‘Trao đổi ý kiến’: Trần Minh Dũng (Tính tư tưởng trong dịch thuật), Nguyễn Công Hoan (Một vài ý kiến về thơ của Nguyễn Thiện Kế);

‘Sưu tầm’: Đinh Văn Thành ghi, Y Phố kể (‘Ú và Cao’, truyện cổ tích dân tộc Hơ-rê, Tây Nguyên); Đinh Xuân Lâm (‘Bài hịch Trương Định’),…

− Ngày 6: buổi tối, tại câu lạc bộ Đoàn Kết, Hà Nội, kỷ niệm 90 năm sinh nhà thơ Tú Xương (1870-1907); Tú Mỡ nói chuyện về thân thế sự nghiệp Trần Tế Xương, nhấn mạnh 3 tính chất trào phúng, trữ tình và yêu nước trong thơ Tú Xương; sau cuộc nói chuyện có ngâm thơ Tú Xương. (14)

− Ngày 7: báo Văn học số 115:

thơ Băng Sơn (Hà Nội của mình), Vân Long (Trên khu đất xưa), Anh Việt (Trăng của các em);

truyện ngắn Nguyễn Kiên (Con chim nhỏ);

bút ký Trần Độ (Ngọn cờ cộng sản), Bùi Đức Ái (Về biển);

văn thơ đả kích: Phạm Công (Bao nhiêu tử tội?);

Chàng Văn (Trao đổi);

Vũ Tú Nam (Nghĩ về nghề);

‘Đọc sách’: Nguyễn Quang Sáng (Những con người trong tiểu thuyết ‘Mùa mưa’ của Hoàng Văn Bổn, Nxb. QĐND), Thái Anh (‘Lá cờ thêu sáu chữ vàng’ truyện Nguyễn Huy Tưởng, Nxb. Kim Đồng);

Nghệ thuật: Trần Vượng (‘Truyện’ trong phim ‘Cô gái công trường’);

thơ B. Brecht, Đức (Ca ngợi người cách mạng, Hoàng Minh Châu dịch; Những người thợ dệt thảm ở Ku-giân Ba-lat kỷ niệm Lênin, Tế Hanh dịch); Vassily Mikhailov, L.X. (Công việc của nhà văn).

− Ngày 14: báo Văn học số 116:

cảm nghĩ về ĐH3 (nhạc sĩ: Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn Xuân Khoát, họa sĩ: Lê Vinh, Nguyễn Tiến Chung, nghệ sĩ sân khấu: Sỹ Tiến);

truyện ngắn Vũ Thị Thường (Trăng đêm);

bút ký Nguyễn Thành Long (Chuyện xi-măng);

thơ Thái Giang (Quả còn rơm mới), Bàng Sĩ Nguyên (Người thợ đốt lò đầu máy xe lửa), Nguyễn Viết Bình (Tà áo hoa);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Xuân Thơm (Người giáo viên mới), Trần Kim Thành (Bình kiện tướng), Nguyễn Chính (Trên một chuyến xe);

mấy bài thơ Tú Xương (Thề với ăn mày; Hà Nam tức sự; Sông lấp; Bắt được đồng tiền);

thơ đả kích: Chính Nhân (Thư ngỏ gửi ông Ham-mác-giôn), Phạm Công (Thay đen đổi trắng);

Chàng Văn (Trao đổi);

Bùi Hiển (Nghĩ về nghề);

‘Đọc sách’: Hàm Minh (‘Thôn ca’, thơ Đoàn Văn Cừ);

Nghệ thuật: Lưu Quang Thuận (Xem vũ kịch ‘Tấm Cám’);

truyện cho thiếu nhi: Ôc-ta Păng-cu I-a-si, Rumania (Chuyện một chú bé trên hàng rào, Vũ Ngọc Bình kể lại);

Vassily Mikhailov, L.X. (Công việc của nhà văn, tiếp).

− Ngày 17 đến 19: tại Hà Nội, hội nghị của những người sáng tác văn học, do Hội nhà văn VN tổ chức, trên 60 nhà văn hiện làm việc tại Hội nhà văn, Hội nghệ sĩ sân khấu, Viện văn học và một số cơ quan khác đã tham dự; Tổng thư ký Hội nhà văn VN Nguyễn Đình Thi nêu những nhận định tình hình sáng tác văn học năm qua, đề ra phương hướng mới, giúp mỗi nhà văn có thể phác ra mức phấn đấu của mình trong năm 1961, năm mở đầu kế hoạch 5 năm. Các ý kiến trong hội nghị cho rằng: về thơ, phong trào sáng tác đang phát triển về chất lượng, đề tài phong phú, nhưng cảm xúc chưa mạnh mẽ như thơ kháng chiến, thơ trào phúng còn đơn điệu; về văn: thể truyện ngắn phát triển tốt, nhưng bút ký, phóng sự còn ít người viết, tiểu thuyết cần được nâng chất lượng hơn nữa; về kịch, hiện rất thiếu kịch bản, vì vậy cần chú ý xuất bản các vở kịch; những người dự hội nghị đã ghi chương trình sáng tác sắp tới của mình gửi cho ban nghiên cứu sáng tác của Hội nhà văn.(15)

− Ngày 21: báo Văn học số 117:

Phạm Gia Giang, nhà điêu khắc (Trách nhiệm vinh quang); Xuân Diệu (Cảm nghĩ sau Đại hội Đảng);

truyện ngắn: Nguyễn Khắc Liêm (Những lá cờ đỏ);

bút ký: Lưu Quang Thuận (Nước sông Lô vào nhà máy điện Việt Trì);

thơ: Phạm Hổ (Đường vào quê Bác), Vũ Cận (Gió), Lưu Trùng Dương (Bài thơ tình về chim hải âu), Duy Phi (Nông trường Bến Tắm), Đại Thủy (Nhớ máy), Hạnh Hoàng Thu (Cô gái thợ nề);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Phạm Thị Đương (Tổ chăn vịt), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Đêm mùa đông);  

ca dao: Đỗ Ngọc Ban (Đêm chống lụt), Nguyễn Bùi Vợi (Chăm chỉ học hành);

thơ văn đả kích: Huyền Thanh (Đến thế thì thôi), Phạm Công (Hãy chuẩn bị sẵn đi);

mấy bài thơ Nguyễn Trãi nhân ngày giỗ 16/8 âm lịch (Vô đề; Thuật hứng 15; Thuật hứng 22; Xuân hoa tuyệt cú; Tích cảnh 7; Tích cảnh 10; Đào hoa);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Nguyễn Viết Lãm (Hai cuốn sách đầy tình hữu nghị [‘Việt Nam trong lòng bạn’, ‘Thơ Algérie – Cuba’]);

Vassily Mikhailov, L.X. (Công việc của nhà văn, tiếp, hết);

− Ngày 28: báo Văn học số 118:

P.V. (Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói chuyện với văn nghệ sĩ);

phóng sự: Bùi Huy Phồn (Biển lành trở về Cát Hải);

truyện ngắn: Bùi Hiển (Một tấm lòng);

thơ: Vũ Nguyên Ngữ (Những mầm non trên mảnh đất quê hương), Hoàng Minh Châu (Nhắn chim), Hoàng Tỵ (Nhớ dừa Sa Đéc), Chế Lan Viên (Ngoảnh lại mùa đông);

thơ văn đả kích: Lý Nguyên Mạnh (Tết của ngài Ngô), Lã Vọng (Tết móc túi), Phạm Công (Mặt trái của cái mề-đay);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Vũ Lân (‘Ánh đèn trong lò’, tập truyện, Nguyễn Dậu, Nxb. Văn học), Minh Thi (‘Gói đất miền Nam’, thơ Xuân Miễn, Nxb. Văn học);

truyện: Mark Twaine, Mỹ (Săn phù thủy, Nguyễn Văn Sĩ trích dịch); thơ Giăng Bơ-lơ-gơ-ri, Algérie (Trời đã cho ta, Khương Hữu Dụng dịch); P. Pavlenko (Nói về sáng tác, N.T.L. trích dịch);

− Trong tháng 10: Tạp chí Văn nghệ số 41:

truyện ngắn Bùi Hiển (Một câu chuyện trong chiến tranh), Đào Vũ (Vụ lúa chiêm, trích tiểu thuyết);

thơ Phạm Công Cam (Vĩ tuyến), Trần Nhật Lam (Ánh sáng trên bản mường), Nguyễn Thái Thưởng (Bánh xe tôi), Dương Đình Hy (Vá lưới);

‘Phê bình’: Trương Chính (Đọc ‘Sông Đà’ của Nguyễn Tuân);

‘Thời sự văn nghệ’: Nguyễn Văn Niêm (Bước đường lớn lên của sân khấu kịch nói), Trọng Anh (Nhận xét về tính hiện thực trong ‘Giáo sư Hoàng’), Hoàng Kiều (Xem vũ kịch ‘Tấm Cám’), Phạm Văn Khoa (Mấy ý kiến nhỏ về phim ‘Cô gái công trường’);

‘Đọc sách’: Minh Trí (‘Hoa gạo’ tập thơ Trinh Đường), Trần Hải (‘Người quê hương’, tập truyện Nguyễn Quang Sáng), Vũ Minh (‘Thơ Algérie – Cuba’, tập thơ dịch);

truyện Giéc-di Lu-tốp-ski, Ba Lan (Cái nhầm, Hữu Chí dịch); thơ Dora Teitelboim (Trên quê hương của bảy vì tinh tú…, Nguyễn Viết Lãm dịch); nghị luận Chu Dương, T.Q. (Sự kết hợp chủ nghĩa hiện thực cách mạng với chủ nghĩa lãng mạn cách mạng, Hồ Tố Ngọc trích dịch),…

− Trong tháng 10: tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/60:

trích Báo cáo chính trị ĐH3 ĐLĐVN (Cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng);

Mai Hoàng (Gió mới), Nguyên Ngọc (Hàng ngũ chúng ta), Hồ Phương (Trong xóm lá);

truyện ngắn: Trần Khắc (Nguồn sức mạnh), Xuân Vũ (Một đồng chí dân quân dân tộc ít người), Đào Vũ (Hai con trâu húc nhau, trích truyện);

kịch bản phim: Nhất Hiên (Họ đi cùng chuyến);

thơ: Vũ Hồng Quang (Tàu vào giới tuyến), Cầm Giang (Về thăm núi Hứa sông Công), Giang Ích (Nụ cười), Xuân Miễn (Qua sông), Bùi Ngọc Trình (Cùng một ngày hai tấm thư khen), Hoài Giao (Khi đại hội);

ca dao: Lưu Trang, Nguyễn Ái Mộ, Xuân Sách, Nam Phong, Phan Đình Huệ, Trần Nguyên Đào, Hữu Trí;

độc tấu: Xuân Lý (Chuyện Long An);

nghị luận: Lê Liêm (Nâng cao thêm một bước đời sống văn hóa, trích tham luận tại ĐH3 ĐLĐVN), Nguyễn Đình Thi (Phấn đấu để có những tác phẩm văn nghệ, trích tham luận tại ĐH3 ĐLĐVN), Thanh Tịnh (Lời ca vượt tuyến, báo cáo về hoạt động của đoàn văn nghệ trung ương đi biểu diễn ở Vĩnh Linh), Tế Hanh (Tuyển tập thơ Việt Nam 15 năm 1945-1960);

truyện ngắn: Chu Gia Thắng, T.Q. (Ngọn lửa bập bùng, Doãn Trung dịch); Thoong B.C. (Bức thư từ Viên Chăn, N.T. dịch),…

Tháng 11:

− Ngày 4: báo Văn học số 119:

truyện ngắn: Cầm Giang (Mùa mưa);

phóng sự: Bùi Huy Phồn (Biển lành trở về Cát Hải, tiếp);

thơ: Trinh Đường (Tiếng gọi mùa xuân), Trùng Hanh (Sim), Nguyễn Hải Trừng (Bức ảnh chắp);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Lê Văn Viện (Đoàn thuyền), Trương Đức Chính (Một buổi cày thi), Hoài An (Làng khỏe);

ca dao: Nguyễn Ái Mộ;

văn thơ đả kích: Phạm Công (Ngược chiều), Đức Xa (Mỹ cũng bắn vệ tinh), Phú Sơn (Cái siết tay của tổng Ai);

Chế Lan Viên (Nghĩ về nghề);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Tế Hanh (Xuân Diệu và vấn đề ‘riêng-chung’);

thơ A. Tvardovski, L.X. (Gửi mẹ tôi, Tế Hanh dịch qua tiếng Pháp); L. Timofeev, Zhegalov (Mấy vấn đề hiện nay trong văn học Xô-viết); thơ cổ điển T.Q.: Bạch Cư Dị (Trói người Tây Nhung, Khương Hữu Dụng dịch); Giới thiệu phim L.X. ‘Bài ca người lính’,…

− Đầu tháng 11: tập san Nghiên cứu văn học số 11/60:

Bảo Định Giang và Đông Hoài (Mấy ý kiến về tình hình phê bình văn nghệ);

Hoàng Phê (Tiến tới giải quyết hợp lý vấn đề chữ quốc ngữ);

Nguyễn Văn Hoàn (Bước đầu kiểm điểm cuộc thảo luận về ‘Truyện Kiều’);

Nguyễn Hải Hà (Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà đại văn hào Nga L. Tolstoi);

A. Nikoliukin (Văn học Xô-viết ở nước ngoài);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Nhân vật tích cực);

‘Đọc sách’: Phong Lê (‘Những con đường đói khát’ của J. Amado);

‘Trao đổi ý kiến’: NCVH (Sơ kết ý kiến trao đổi về vấn đề dịch tác phẩm văn học nước ngoài);

‘Sưu tầm’: Bình Thanh (‘Đôi mắt lại sáng’; ‘Ở hiền gặp lành’ truyện cổ tích dân tộc Mèo), Vi Trọng Liên (‘Bả Khó’, truyện cổ tích dân tộc Thái);

‘Sinh hoạt văn học’: Hội nghị bàn vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ.

− Ngày 11: báo Văn học số 120: 

truyện ngắn: La Côn (Ao lấp);

phóng sự: Bùi Huy Phồn (Biển lành trở về Cát Hải, tiếp);

thơ: Vân Long (Hỏi núi hỏi mây), Ngô Văn Phú (Cô hàng xén quê tôi), Tạ Vũ (Kiện tướng đẽo tà-vẹt), Mai Thế Chính (Lấy gỗ);

ca dao: Phạm Trọng Kiểu;

‘Chuyện miền Nam’: Dũng Hiệp (Chuyện thơ ông Tú Ca);

văn thơ đả kích: Huyền Thanh (Tổng gì ngữ ấy), Nguyễn Đình (Chế độ xằng, tổng thống xằng), Phạm Công (Cần gì phải bật sáng thêm lên);

Chàng Văn (Trao đổi);

Nguyễn Đình (Nghĩ về nghề);

‘Đọc sách’: Vũ Tú Nam (Thêm một bước phát triển của ngòi bút Nguyễn Khải);

Đình Quang (Đoàn kịch và vấn đề đẩy mạnh sáng tác kịch bản);

L. Tolstoi (Nói về công việc viết văn, Đức Uy dịch);

truyện ngắn: Iordan Iokov, Bulgaria (Trận mưa rào, Nguyễn Phú Cường dịch).

 

− Ngày 18: báo Văn học số 121:

truyện ngắn: Trường Lưu (Bài học lịch sử);

thơ: Xuân Hoàng (Sau ngày Bác đến), Hậu Giang (Nhớ má nhớ miền Nam), Phạm Tuấn (Chở hàng đêm mưa), Nguyễn Viết Lãm (Người gác đèn biển);

‘Người mới-Cuộc sống mới’:  Nguyễn Quý Lãm (Ông tổ trưởng), Mai Vượng (Bé Hảo);

văn thơ đả kích: Phạm Công (Tiếng nói cuối cùng nhất định phải về nhân dân), Nguyễn Đình (Những tin dồn dập), Tú Mỡ (Tuổi già bảo đảm);

Chàng Văn (Trao đổi);

‘Đọc sách’: Trần Vượng (Tôi thích ‘Hoa hướng dương’);

Minh Trị (Vấn đề âm nhạc trên sân khấu kịch nói);

kỷ niệm 50 năm mất L. Tolstoi: Lê Đình Kỵ (L. Tolstoi, nghệ sĩ vĩ đại), Lê Trọng Khánh (Vài quan điểm nghệ thuật của L.Tolstoi); văn L. Tolstoi (Sevastopol vào tháng Chạp, Phạm Vĩnh Cư và Nguyễn Văn Sĩ dịch).

− Ngày 25: báo Văn học số 122:

bút ký: Xuân Vũ (Nhớ dừa);

truyện ngắn: Đỗ Đức Thuật (Con bò đen);

thơ: Huy Đình (Bài ca của người đi dò địa chất), Vũ Huân (Mong lúa), Bàng Sĩ Nguyên (Qua đèo Cổ Yểng), Mai Văn (Ta đi tìm em), Yến Lan (Trường trên bãi biển);

ca dao: Nguyễn Huy Kính, Trần Lê Đệ;

văn thơ đả kích: Phạm Công (Từ tiếng khóc đến phát đại bác), Phú Sơn (Tớ, thầy), Quốc Thụy (Còn là chui nữa);

Chàng Văn (Trao đổi);

Vũ Tú Nam (Nghĩ về nghề);

nghị luận: Hồng Cương (Vài ý kiến về học tập nghiệp vụ, trau dồi nghệ thuật);

Phong Lê (Đọc truyện ‘Goòng’ của Văn Linh, Nxb. Văn học);

Mịch Quang (Hai vấn đề đặt ra trong đại hội ngành tuồng);

truyện M. Sadoveanu, Rumania (Người gác đêm, N.N. dịch).

− Trong tháng 11: Tạp chí Văn nghệ số 42:

trích nghị quyết ĐH3 ĐLĐVN (Cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng văn hóa và kỹ thuật);

nghị luận: Tố Hữu (Đại hội lần thứ ba của Đảng và sự nghiệp văn học nghệ thuật);

bút ký: Tô Hoài (Thành phố Lê-nin);

truyện ngắn: Cẩm Thạnh (Lẽ mọn);

thơ: Xuân Diệu (Mũi Cà Mau), Anh Thơ (Mùa lúa đầu tiên), Lưu Trùng Dương (Không gian càng rộng lớn), Phạm Hổ (Tiếng hát);

‘Phê bình’: Phong Lê (Người chiến sĩ, người phụ nữ bình thường trong truyện ‘Hoa hướng dương’), Trinh Đường (Đọc ‘Muối của cụ Hồ’ của nhà thơ Bàn Tài Đoàn);

Tiểu luận: Nguyễn Tuân (Tolstoi 1828-1910);

‘Đọc sách’: Lưu Quang Thuận (‘Thôn ca’  tập thơ Đoàn Văn Cừ), Tảo Trang (‘Mùa mưa’, tiểu thuyết Hoàng Văn Bổn), Hoàng Anh Đường (Nhìn lại mấy cuốn sách viết cho các em lứa tuổi nhỏ);  

tiểu thuyết: L.Tolstoi (Napoléon trước Moskva, Đinh Gia Trinh dịch qua Pháp văn);

Ca-ta-la, Phơ-ri-u, Rô-ben (Chủ nghĩa nhân đạo năm 1960 trong văn học Xô-viết, Lưu Quỳnh dịch từ ‘Nouvelle critique’, Pháp),…

− Trong tháng 11: tạp chí Văn nghệ quân đội số 11/60:

Trần Độ (Mùa xuân Mạc Tư Khoa, ghi chép);

truyện ngắn: Xuân Sách (Câu chuyện về người trung đội trưởng của tôi), Nguyễn Minh Châu (Con đường đến trường học), Văn Đạt (Nước), Phan Bang (Cô dân công tiền tuyến), Hoàng Kiệt (Tôi làm trưởng hạt);

thơ: Phạm Công Cam (Mong ước thưở Lenin), Hoàng Minh Châu (Xem phim ‘Người cộng sản’), Hà Đức Trọng (Ngắm ảnh Lenin), Phạm Hải Trường (Vườn trẻ), Tô Ngọc Hiến (Đổi mùa), Lưu Trùng Dương (Khu gang thép), Xuân Nhị (Tâm tình), Đại Thủy (Thiết tha), Đức Phúc (Anh pháo thủ già; Nghĩ gì? Anh lính miền Nam), Thái Giang (Giản dị);

‘Sưu tầm’: Tống Hữu Dùng (Thơ ca trong tù);

ca dao: Trần Đồng Chí, Xuân Thiêm, Nguyễn Ái Mộ, Lê Đình Dư, Vũ Hồng Quang, Nguyễn Hồng Hoa;

độc tấu: Nguyễn Viết Thành (Kể chuyện phát thanh ở Điện Biên Phủ);

nghị luận: Thanh Tịnh (Mười tháng đầu năm của VNQĐ), Từ Bích Hoàng (Mấy ý kiến viết về đề tài bộ đội huấn luyện), Nguyễn Ngọc Tấn (‘Mùa mưa’, một cuốn truyện tốt), Hải Hồ (Hình ảnh chiến đấu trên sân khấu quân đội), Mai Ngữ (‘Bài ca người lính’, một bài thơ rất đẹp về con người Xô-viết);

truyện K. Simonov (Những người sống và những người chết, Mai Luân trích dịch); thơ Gim-cer, Triều Tiên (Bài thơ bỏ dở, Nguyễn Hải Trừng dịch); Ba-ren, L.X. (Trên mũi nhọn chiến đấu, [sáng tác về thế chiến II ở Liên Xô]),…

Tháng 12:

− Ngày 2: báo Văn học số 123:

nghị luận: Tô Hoài (Quan hệ anh em của văn học Việt Nam và văn học Liên Xô ngày càng phát triển);

truyện ngắn: Tiến Dũng (Con nuôi chung);

thơ: Chế Lan Viên (Cỏ nghĩa trang), Vương Lộc (Gửi chị Xuân Hương), Hồng Nam (Bản Rùa đổi mới), Bình Minh (Nhớ bát cơm ngô sắn);

mấy bài thơ Hồ Xuân Hương (Đền thái thú; Ngẫu hứng; Cảnh lấy lẽ);

ca dao: Lê Thị Thanh Mai;

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Nguyễn Anh Bình (Hai đứa bé), Phan Văn Tại (Một đứa trẻ ra đời), Trần Kim Thành (Lá bồ đề);

văn thơ đả kích: Phạm Công (Từ con đà điểu đến con dao pha), Huyền Thanh (Hỏi thăm ông tổng Diệm);

Chàng Văn (Trao đổi);

Vũ Tú Nam (Nghĩ về nghề);

‘Đọc sách’: Bàng Sĩ Nguyên (Qua hai tập truyện ngắn ‘Bên đồng nước úng’ và ‘Một tổ sản xuất mới’, Nxb. Văn học), Sơn Thủy (Đọc ‘Bài ca tuổi trẻ’, tiểu thuyết Dương Mạt, T.Q., Nxb. Thanh niên);

Văn Phác (Mấy ngày đầu đoàn văn hóa Việt Nam ở Indonesia);

Thơ: Đỗ Phủ, T.Q. (Bắc chinh, Khương Hữu Dụng dịch);

truyện ngắn: A. Dumas-con, Pháp (Giải thưởng chim bồ câu, Nguyễn Quân dịch).

− Đầu tháng 12: tập san Nghiên cứu văn học số 12/60:

B. Riurikov, L.X. (Lenin và các vấn đề văn học);

Quách Mạt Nhược, T.Q. (‘Nay ở trong thơ nên có thép’);

Nguyễn Đình Chú (Thực chất của cuộc đấu tranh giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh chung quanh vấn đề ‘Truyện Kiều’);

Triêu Dương (Mấy ý kiến về việc đánh giá ‘Sơ kính tân trang’ nhân đọc tập khảo thích giới thiệu của Lại Ngọc Cang, Nxb. Văn hóa);

Hoàng Trinh (Bước đầu tìm hiểu văn học Hungary);

‘Thường thức văn học’: Sơn Tùng (Tính khách quan của điển hình và lập trường chủ quan của nhà văn);

‘Đọc sách’: T.T. Nghị (‘Con đường sấm sét’, tiểu thuyết của Peter Abrahams), Lương Mộc (‘Mười ngày rung chuyển thế giới’ tiểu thuyết của John Read);

‘Trao đổi ý kiến’: Thanh Việt (Nên khai thác và đánh giá truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy như thế nào?);

‘Sưu tầm’: Ngọc Anh (Một ít tài liệu bước đầu để bổ sung vào ‘Bài ca Đam San’),…

− Ngày 9: báo Văn học số 124:

bút ký Nguyễn Thanh Vân (Những người chủ mỏ);

phóng sự: Hoài An (Bắt đất đền);

thơ Võ Quang Thiều (Làng Vĩnh), Anh Thơ (Người thợ vẽ Thiên Tân), Thanh Tòng (Cô hộ lý bệnh viện lao);

văn thơ đả kích: Phạm Công (Sát nhân giả tử), Đại Sơn Pháo (Lang sinh đôi), Nguyễn Đình (Văn tế sống Ngô Đình Diệm);

thơ Nguyễn Khuyến (Di chúc; Văn tế Rivier);

Chàng Văn (Trao đổi);

Xuân Vũ (Nghĩ về nghề: Thế nào là ngôn ngữ địa phương?);

Sổ tay (Maiakovsky: Hai khó khăn, L. dịch);

‘Đọc sách’: Nguyễn Đức Thuyết, Xuân Bình (Vở chèo ‘Mối tình Điện Biên’ của Lưu Quang Thuận), Kiều Ngọc (‘Chuyện lớn, chuyện nhỏ’, thơ trào phúng, Thợ Rèn, Nxb. Phổ thông);

Phạm Văn Chừng (Bài học của đoàn ca múa dân gian Bulgaria: Mạnh dạn khai thác nền ca múa nhạc dân tộc); Hoàng Châu (Vài ý kiến về kịch múa);

thơ René Dépestre, Haiti (Quặng đen, Tế Hanh dịch).

− Ngày 16: báo Văn học số 125:

truyện ngắn Trần Nguyên (Những người đi trước);

ghi chép: Phạm Tường Hạnh (Người công nhân lái máy kéo);

ký sự: Gia Ninh (Hành lang lửa);

thơ Huyền Kiêu (Cái không cuốc được), Nguyễn Xuân Sanh (Cây đa La Tiến), Trần Huy Sơ (Giận nhau), Lê Bầu (Dép cao su), Hoàng Tỵ (Em vẫn đẹp), Minh Huệ (Mang tên đồng chí);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Lê Mai (Nghĩ lại), Văn Đức (Cô thông tin viên);

ca dao: Tạ Xuân Kỳ;

văn thơ đả kích: Phạm Công (Chó chết hết cắn), Đăng Bách (Chưa muốn ra tay), Nguyễn Đình (Tiếng chuông);

Chàng Văn (Trao đổi);

Trinh Đường (Nghĩ về nghề);

‘Đọc sách’: Hoàng Minh Châu (‘Đất nở hoa’ tập thơ Huy Cận), Vũ Lân (‘Con đò’, tập truyện ngắn Vũ Lê Mai);

Lê Khâm (Mấy nét về văn học dân tộc Lào); Nguyễn Đức Toàn (Mấy ý kiến về âm nhạc trên sân khấu kịch nói).

− Ngày 23: báo Văn học số 126:

nghị luận: Lưu Quý Kỳ (Ánh sáng tỏa lên ánh sáng);

bút ký: Nguyễn Quang Sáng (Làng mới);

thơ: Huy Cận (Sao bạn cùng ta), Hoàng Minh Châu (Mầu hoa dáng núi), Vương Linh (Nối tiếp ga từng ga), Định Hải (Trả lời em), Nguyễn Hoàn (Trả lời em), Nắng Mai Hồng (Các em);

ca dao: Ngô Trực Nhã;

Chàng Văn (Trao đổi); ‘Đọc sách’: Trần Tuấn Lộ (‘Người chị’ tập truyện Nguyễn Văn Bổng), Trường Lưu (‘Má Năm Cần Thơ’ tập truyện, nhiều tác giả);

Xuân Diệu (Chúc mừng nhà thơ Tú Mỡ sáu mươi tuổi);

Nguyễn Đức Thuyết (Mấy ý kiến về cuốn sách ‘Le théâtre vietnamien’ (Sân khấu Việt Nam) của Song Bân, Nxb. Ngoại văn);

Thơ: L. Aragon (Ta chào nước Pháp, Tế Hanh dịch; Cuộc hẹn hò bất tuyệt, Nguyễn Viết Lãm dịch; Trẩy hội hòa bình, Phạm Hổ dịch; Đêm Moskva, Đào Xuân Quý dịch);

truyện ngắn Zukrowzski, Ba Lan (Cái thằng bé miệng còn hơi sữa, Hoàng Tuệ dịch).

− Ngày 30: báo Văn học số 127:

thơ Hồ Chí Minh (Mừng năm 1961);

bút ký Tô Hoài (Rực rỡ chân trời 1961), Trần Thanh Giao (Sửa soạn chạy đường dài);

thơ Chế Lan Viên (Một đoạn tình ca), Tế Hanh (Ba năm qua, em ơi), Vũ Cao (Thơ của Người), Khương Hữu Dụng (Khúc ‘soọng cô’ mới);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Lê Khắc Minh (Cánh bay tương lai), Nguyễn Bùi Vợi (Chiều thứ bảy);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Thằng sem đầm của Mỹ), Phạm Công (Hoa Đà sống lại cũng xin chịu);

Chàng Văn (Trao đổi);

Châu Diên (Nghĩ về nghề);

‘Đọc sách’: Nguyễn Hồng Phong (Mấy cảm nghĩ về ‘Tuyển tập văn Việt Nam 1945-1960’);

Xuân Diệu (Nói chuyện với các bạn làm thơ trẻ: Vào trong bếp nước của thơ);

Mai Văn Hiến (Vài ý nghĩ về cuộc Triển lãm mỹ thuật Việt Nam qua các nước anh em).

− Trong tháng 12: Tạp chí Văn nghệ số 43:

trường ca Ê-đê (Y P’rao, Y Nhí, Sông Hinh sưu tầm, Sông Hinh dịch, Ngọc Anh hiệu đính);

thơ Lương An (Đêm Hải Lăng), Bàng Sĩ Nguyên (Người công nhân đèn biển), Bùi Minh Quốc (Tiễn người yêu đi học ở Moskva);

nghị luận Phạm Văn Đồng (Bài nói chuyện với văn nghệ sĩ ở Hội nghị học tập Nghị quyết ĐH3 ĐLĐVN);

‘Phê bình’: Hồng Chương (Đọc ‘Riêng chung’ của Xuân Diệu), Hồ Phương (Đọc ‘Mùa lạc’ của Nguyễn Khải);

Nguyễn Lai-Hoàng Châu Ký (Vài ý kiến về chỉnh lý, cải biên sáng tác tuồng);

Hồ Chí Minh (Tôi là người học trò nhỏ của nhà văn vĩ đại Tolstoi, bài viết cho báo ‘Văn học’ L.X., 19/11/1960);

‘Thời sự văn nghệ’: Minh Trí (vở cải lương ‘Người con gái đất đỏ’), Phạm Văn Khoa (‘Bài ca người lính’, một thành công mới của điện ảnh Liên Xô);

‘Đọc sách’: Chiến Kỳ (‘Gói đất miền Nam’), Hoa Thu (‘Trắng đen’, ‘Cái khó ban đầu’), Định Hải (‘Ánh đèn trong lò’);

‘Ý kiến ngắn’: Thiều Quang (Nên phát triển loại phóng sự trong văn học);

tiểu thuyết L. Aragon (Những người cộng sản, Vũ Quý Vỹ trích dịch);

thơ P. Éluard (Vì tình yêu; Nhân danh tình bạn, Tế Hanh dịch).

− Trong tháng 12: tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/60:

hồi ký Nguyễn Văn Rạng (Tôi vào giải phóng quân), Hoàng Phương (Một cuộc rút lui toàn thắng), Nguyễn Như Lăng (Những dũng sĩ Nhà hát lớn Hải Phòng);

 bút ký Trần Độ (Bác yêu bộ đội), Vũ Hồng Quang (Những ngày vượt sóng), Vũ Thành (Cánh bay trưởng thành, ghi chép);

thơ Đào Thúc Khang (Hoàng hôn), Thái Giang (Cày đêm), Xuân Sách (Một dòng sông), Đinh Tuấn Lợi (Công trường), Nam Phong (Chọn mùa chiến dịch lấy tên anh), Văn Thọ-Ngọc Dậu (Xóm miền Nam);

ca dao Bùi Kim, Thi Hoài, Phùng Nhân, Lưu Trang, Vũ Hồng Quang, Nguyễn Kim Tịnh, Trương Công Tường, Dương Lê Cung, Huyền Tâm;

độc tấu: Vũ Thế Tân (Chăn bê); 

truyện ngắn Dân Hồng (Đỉnh Hạnh phúc);

VNQĐ (Điểm qua 10 số tạp chí VNQĐ về thơ, văn, phê bình-nghiên cứu),…

Trong năm 1960 đã xuất bản:

TIỂU THUYẾT, TRUYỆN

− Ánh đèn trong lò (tập truyện ngắn) Nguyễn Dậu (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Bên đồng nước úng (tập truyện ngắn) Bút Ngữ, Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Tiến Thuyết (H. : Nxb. Văn học, 1960)

Cỏ non (tập truyện ngắn) Hồ Phương (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Con đò (tập truyện ngắn) Vũ Lê Mai (H. Nxb. Văn học, 1960)

Con đường phía trước (tập truyện) Trần Thanh Giao, Sông Đà, Nguyễn Quang Sáng (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Cô lái đò sông Ninh (tập truyện ngắn) Chu Văn (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Đêm phương Tây (tập truyện ngắn) Nguyễn Quang Thân, Hoàng Tuấn Nhã (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Đi bước nữa (tiểu thuyết) Nguyễn Thế Phương (H. Nxb. Văn học, 1960)

Đường trở về (tập truyện ngắn) Trịnh Xuân An (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Goòng (tiểu thuyết) Văn Linh (H. Nxb. Văn học, 1960)

Hai trận tuyến (truyện) Hà Minh Tuân (H. Nxb. Văn học, 1960)

− Hoa mua (tập truyện ngắn chọn lọc cuộc thi báo ‘Văn nghệ’) Trọng Khuê, Lâm Phương, Hải Hồ, Lê Khánh, Nguyễn Xuân Khánh (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Hoa hướng dương (truyện) Đoàn Giỏi (H. Nxb. Văn học, 1960)

− Má Năm Cần Thơ (tập truyện được giải báo ‘Thống nhất’ đợt 2) Nguyễn Quang Thân, Xuân Vũ, Giang Nam, Hải Hồ, Văn Ngọc (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Mạch nước ngầm (tập truyện) Nguyên Ngọc, Võ Huy Tâm (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Một cặp vợ chồng (tập truyện chọn lọc cuộc thi báo ‘Văn nghệ’) Nguyễn Khải, Trần Trọng Biền (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Một tổ sản xuất mới (tập truyện ngắn) Xuân Hồng, Vũ Thanh Sơn, Vũ Thị Thường, Châu Diên (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Mùa lạc (tập truyện ngắn) Nguyễn Khải (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Mùa mưa  (tiểu thuyết) Hoàng Văn Bổn (H. : Nxb. Quân đội nhân dân, 1960)

− Ngày cưới (tập truyện ngắn) Ngô Quân Miện (H.: Nxb. Thanh niên, 1960)

Người chị (tập truyện) Nguyễn Văn Bổng (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Người kỹ sư mới  (tiểu thuyết) Duy Cương, Vũ Như (H. : Nxb. Lao động, 1960)

Như cánh chim bay (tiểu thuyết) Đinh Chương (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Quê hương (tập truyện ngắn) Vũ Tú Nam (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Suối gang (tiểu thuyết) Xuân Cang (H.: Nxb. QĐND, 1960)

− Trăng sáng (tập truyện ngắn) Nguyễn Ngọc Tấn (H. : Nxb. Văn học, 1960)

Trước giờ nổ súng (tiểu thuyết) Lê Khâm (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Trong làng (tập truyện ngắn) Nguyễn Kiên (H.: Nxb. Văn học, 1960)

KỊCH BẢN 

Ai xe chỉ thắm  (kịch chèo hai hồi) Lương Tá (H. : Nxb. Phổ thông, 1960)

Cái ba lô  (kịch) Tào Mạt (H. : Nxb. Phổ thông, 1960)

Cô gái Thu Bồn  (kịch thơ 1 màn; Giải thưởng cuộc thi viết về đề tài Miền Nam)  Huyền Kiêu (H. : Nxb. Văn học, 1960) 

Ép duyên  (kịch dân ca 3 màn) Xuân Hinh (H. : Nxb. Phổ thông, 1960) 

− Lũy hoa (truyện phim) Nguyễn Huy Tưởng (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Rổ cá chim  (kịch một hồi, Giải thưởng hạng A cuộc thi kịch bản 1959 cuả hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam và Vụ nghệ thuật) Huỳnh Chinh (H. : Nxb. Phổ thông, 1960)

Vẹn cả đôi đường (chèo) Xuân Bình (H. : Nxb. Văn học, 1960) 

Vợ chồng A Phủ (truyện phim) Tô Hoài (H.: Nxb. Văn học, 1960)

TÁC PHẨM THỂ KÝ

− Bác Hồ (tập hồi ký) Hoài Thanh, Thanh Tịnh, Bùi Lâm, Trần Đĩnh, Giăng Pho (Jean Ford?) (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Hai lần vượt ngục (hồi ký cách mạng, in lần thứ 4) của Trần Đăng Ninh (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Lên đường thắng lợi (hồi ký cách mạng) của Chánh Thi, Hà Hoa, Bùi Công Trừng, Hứa Văn Định (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Nhân dân ta rất anh hùng (hồi ký cách mạng) Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Hùng,…(H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Sông Đà (tập tùy bút) Nguyễn Tuân (H.: Nxb. Văn học, 1960)

THƠ, TRUYỆN THƠ

Ánh sáng và phù sa  (tập thơ) Chế Lan Viên (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Ba mươi năm đời ta có Đảng (diễn ca) Tố Hữu (H.: Nxb. Phổ thông, 1960)

Có Đảng mới có ngày nay  (thơ) Ngô Đức Mậu (H. : Nxb. Phổ thông, 1960)

Cầu vào bản (thơ miền núi) Đinh Sơn, Cầm Giang, Lâm Tâm, Ngọc Anh, Sông Hinh, Tạ Minh Hội (H. : Nxb. Văn học, 1960)

Đất nở hoa  (tập thơ 1958 - 1959) Huy Cận (H. : Nxb. Văn học, 1960)

Đường chúng ta đi (tập thơ) Hoàng Trung Thông (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Gói đất miền Nam (tập thơ) Xuân Miễn (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Hoa gạo (tập thơ) Trinh Đường (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Khúc hát tương lai (tập thơ công nhân) Lê Dực, Cao Minh Châu, Phạm Đức Tâm, Hoàng Thị Rư, Lương Thái Khoan (H.: Nxb. Phổ thông, 1960)

Một mùa hoa (tập thơ) Anh Thơ, Vân Đài, Cẩm Lai, Tú Khanh (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Mùa xuân theo đến (thơ) Nguyễn Bao, Trần Cẩn, Trinh Đường, Phan Xuân Hạt, Ngô Quân Miện (H. : Nxb. Thanh niên, 1960)

− Muối của cụ Hồ (tập thơ) Bàn Tài Đoàn (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Ngọn lửa mới nhen (diễn ca về cuộc đời Trần Phú) Nguyễn Đình (H.: Nxb. Lao động, 1960)

Nhớ công ơn Bác (thơ) Anh Thơ, Hằng Phương, Lê Thị Hải Yến, v.v… (H. : Nxb. Phụ nữ, 1960)

Nhớ công ơn Đảng  (thơ) Hoàng Mai, Kim Nhung, Tuấn Sơn, v.v... (H. : Phụ nữ)

− Những người đáng yêu nhất (tập thơ 1948-1959) Lưu Trùng Dương (H.: Nxb. Văn học)

Ra khơi (tập thơ) Phạm Hổ (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Riêng chung (tập thơ) Xuân Diệu (H.: Nxb. Văn học, 1960)

So hay ná huôm chụ, t. 1 (Xin làm ruộng cùng với người yêu)  (thơ tiếng Thái) của Quăm Khắp, Lò Văn Cậy, Tòng Văn In, v.v… (Khu tự trị Thái Mèo: Sở Văn hoá Khu tự trị Thái Mèo xb. , 1960)

Tàn xuân đế quốc  (tập thơ đả kích Mỹ-Diệm) Đồ Phồn (H. : Phổ thông, 1960)

− Theo cánh chim câu (tập thơ) Anh Thơ (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Thêm một bản án (tập thơ đả kích) Chu Hà, Tú Sụn (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Thôn ca  (gồm 1/ Ngày xưa, thơ 1939-45; 2/ Tiếng hát quê ta, thơ 1946-60) Đoàn Văn Cừ (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Tiếng ca người Việt Bắc (tập thơ) Nông Quốc Chấn (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Tiếng hát miền Nam (tập thơ từ miền Nam gửi ra) của Lưu Quý Kỳ, Thanh Hải, Mah Mod, Mạc Quyên, Nguyễn Huỳnh,… (H.: Nxb.  Văn học, 1960, in lần thứ hai)

Tiếng sóng (tập thơ) Tế Hanh (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Trên miền Bắc thân yêu (tập thơ) Huy Cận, Khương Hữu Dụng, Nguyễn Xuân Sanh, Vũ Cận, Gia Ninh (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Trên đe dưới búa (tập thơ đả kích Mỹ-Diệm) Tú Mỡ, Đồ Phồn, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình, Huyền Thanh (H.: Nxb. Lao động, 1960)

Trời xanh (tập thơ) Nguyên Hồng (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Sóng gầm Côn Đảo (trường ca) Huyền Kiêu (H.: Nxb. Phổ thông, 1960)

Về quê mẹ (tập thơ 1945-1960) Vân Đài (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Vì hoà bình vì thống nhất, t. 1 - 2   (tập thơ) Chu Hà, Giang Quân, Băng Sơn, Sơn Chi, Bạch Phượng, Trần Huyền Trân, v.v…  (H. : Sở văn hoá xb. , 1960)

VĂN HỌC CHO THIẾU NHI

Chú bé du kích Angiêri (chuyện kể) Đại Đồng, Hoàn Mai (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Chim hải âu (truyện) Tô Hoài (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Chim mùa xuân (truyện) Đào Vũ; Ngọc Lynh minh hoạ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Chú đất nung  (truyện) Nguyễn Kiên (H. : Nxb. Kim Đồng, 1960)

Cuộc đời chìm nổi của chú Kíplê (truyện kể) Vũ Cận (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Đường hầm A1 (truyện ngắn) Hữu Mai (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Giữ súng mướn (truyện) Vân An (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Em đội viên mắt sáng (tập truyện miền Nam) Hy Minh, Tống Văn Công, Hoàng Lai (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Em nuôi đội trinh sát (truyện) Đại Đồng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Kể chuyện Quang Trung (chuyện kể) Nguyễn Huy Tưởng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Lá cờ thêu sáu chữ vàng (truyện) Nguyễn Huy Tưởng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Sóng gió Bạch Đằng (truyện) An Cương (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Tìm mẹ (truyện) Nguyễn Huy Tưởng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Tổ tâm giao (truyện) Trần Thanh Địch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Vài mẩu chuyện Tây ở Điện Biên Phủ (chuyện kể) Hồ Phương kể; Bìa và minh hoạ: Huy Toàn (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

***

Anh thợ rèn kỳ dị (truyện dân gian Rumani, V. Cô-lin kể)  (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Bí mật của trái bầu tiên, T. 1 - 2 (truyện, Trương Thiên Dực, TQ.) Đỗ Uyên, Phạm Khang trích dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Cây thông năm mới (truyện, Nikolai Nosov, Ferrenz Mora) Vũ Ngọc Bình, Quang Huy dịch; Bìa và minh hoạ: Tạ Lựu (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Chiến dịch khăn quàng đỏ (truyện, Liu-svich Ta-sơ-kê-na-di) Lữ Hải dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Chuyện con chó và con mèo (truyện, Jozeph Kapec) Doãn Trung dịch từ tiếng Trung (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Cuộc chiến đấu gian khổ của chú hành (truyện, Gianni Rodari, 1920-80, Italia) Hồ Lãng dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Đảo giấu vàng, T. 1 - 2 (truyện,  Robert Louis Stevenson, 1850-1994, Scotland) Hoàng Lan Châu lược dịch và phóng tác (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Điều gì tốt điều gì xấu (thơ, V. V. Maiakovsky, 1893-1930, Nga, LX.) Phạm Hổ dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Khói trong rừng (truyện,  Arkady Gaidar, 1904-41, Nga, LX.) Trần Khuyến dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Mặt trời trên thảo nguyên (truyện, P. Pavlenko, 1899-1951, LX.) Hồng Sơn dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Mấy nhạc sĩ thành Bơ Rem (chuyện cổ tích, Wilhelm Grimm, Đức) Huỳnh Lý dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Người tù binh ở Cô-ca-dơ (truyện, Lev Tolstoi, Nga) Nguyễn Thụy Ứng dịch (H.: Nxb. Kim đồng, 1960)

Những mẩu chuyện về Tchapaev (truyện, Viktor Banykin, LX.) Hồng Sơn dịch  (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô, T. 1 (truyện, Daniel Defoe, 1659/61-1731, Anh) Hoàng Thái Anh dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Thanh đoản kiếm, T. 1 – 2 (truyện, Anatoly Rybakov, 1911-98, Nga, LX.) Dương Vĩnh dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

Valôđia Ulianôp (những mẩu chuyện về Lênin thời học sinh, Đ. M. Andreev,  A. I. Ulianova, Vaxili.Đơruri…) Trần Khuyến, Nguyễn Cẩm Tiêu dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1960)

PHÊ BÌNH, LÝ LUẬN, NGHIÊN CỨU

Kinh nghiệm sáng tác thơ văn trào phúng (nghị luận) Tú Mỡ, Đồ Phồn (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX  (biên soạn) Hoàng Xuân Nhị (H. : Nxb. Văn hoá, 1960)

Mấy vấn đề nguyên lý văn học, t. 1 – 2  (giáo trình đại học) Nguyễn Lương Ngọc (H. : Nxb. Giáo dục, 1960)

Nâng cao chất lượng sáng tác (nghị luận) Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Vũ Ngọc Phan (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Nói chuyện văn thơ (hỏi đáp về văn học) Chàng Văn (H.: Nxb. Văn học, 1960; Tủ sách lý luận hướng dẫn sáng tác)

Phê bình giới thiệu thơ (1947-1959) Xuân Diệu (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Phê bình và tiểu luận [tập I] Hoài Thanh (H. : Nxb. Văn học, 1960)

Phú Việt Nam cổ và kim (biên khảo) Phong Châu, Nguyễn Văn Phú sưu tầm, giới thiệu (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Viết tiểu thuyết (kinh nghiệm sáng tác) Nguyễn Công Hoan, Võ Huy Tâm (H.: Nxb. Văn học, 1960)

 

SÁCH TẬP HỢP NHIỀU THỂ TÀI

− Ánh sáng mùa xuân (tập thơ văn kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng LĐVN) Hoàng Trung Thông, Nam Chi, Xuân Hoàng, Nguyễn Viết Lãm, Thép Mới (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Bác đến  (tập văn, thơ viết về Hồ Chủ tịch) Nông Quốc Chấn, Nguyễn Bá Dậu, Lê Tam Anh, v.v...  (H. : Nxb. Quân đội nhân dân, 1960)

− Dâng Bác (tập thơ văn nhân 19-5-1960) nhiều tác giả ‘lao động Nam Bắc’ (H. : Nxb. Lao động, 1960)

Đời ta có Bác  (tập thơ văn về Hồ Chủ tịch) Tố Hữu, Nguyễn Trọng Oánh, Bùi Kim Phượng, v.v…  (H. : Nxb. Phổ thông, 1960)

− Một mùa hoa (tập thơ văn của các nữ tác giả) Anh Thơ, Tú Khanh, Cẩm Lai, v.v…(H.: Nxb. Văn học, 1960)

TUYỂN TẬP, SƯU TẬP

Dư địa chí (nguyên tác chữ Hán của Nguyễn Trãi), Phan Duy Tiếp dịch, Hà Văn Tấn chú thích (H.: Nxb. Sử học, 1960)

Lĩnh Nam chích quái (nguyên tác chữ Hán của Vũ Quỳnh, Kiều Phú) Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San sưu tầm, dịch, chú thích (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Nhật ký trong tù (nguyên văn chữ Hán của Hồ Chí Minh) bản dịch của Viện Văn học (H.: Nxb. Văn hóa; Nxb. Phổ thông, 1960)

Nhị độ mai (tác phẩm Nôm khuyết danh) Lê Trí Viễn, Hoàng Ngọc Phách khảo luận, hiệu đính, chú thích (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Sơ kính tân trang (tác phẩm Nôm của Phạm Thái), Lại Ngọc Cang khảo luận, hiệu đính, chú thích (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Tang thương ngẫu lục (nguyên tác chữ Hán của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án) (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền (biên khảo, sưu tập) Lê Thước, Nguyễn Sĩ Lâm, Trịnh Đình Rư… dịch, chú thích, giới thiệu (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1960 (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Tuyển tập văn Việt Nam 1945-1960, tập 1 (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Truyện ngắn Nam Cao (sưu tập của Nxb. Văn hóa) (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

− ‘Từ ấy’ và ‘Việt Bắc’ (sách tham khảo cho học sinh) Phong Châu, Đái Xuân Ninh biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1960)

Văn tế cổ và kim (biên khảo, sưu tập) Phong Châu, Nguyễn Văn Phú soạn (H. : Nxb. Văn hóa, 1960)

Văn thơ Phan Bội Châu (nghiên cứu, tuyển tác phẩm) của Đặng Thai Mai (H. : Nxb. Văn hoá, 1960;  In lần thứ 2 có sửa chữa)

Việt điện u linh (nguyên tác chữ Hán của Lý Tế Xuyên) Trịnh Đình Rư dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

 

 

 

DỊCH THUẬT VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

− Ai-van-hô, tập 1, tập 2 (Ivanhoe, 1820, tiểu thuyết của W. Scott, Anh) Trần Kiêm dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Bài thơ biển (1956, truyện phim của Dovzhenko, Liên Xô) Thiết Vũ, Thảo Nguyên dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Bài ca người lính (truyện phim của Valentin Ezhov, Liên Xô) Mai Nam dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Bài ca tuổi trẻ (tiểu thuyết của Dương Mạt, TQ.) Trần Văn Tấn dịch (H. : Nxb. Thanh niên, 1960)

Bản làng đổi mới (truyện của Chu Lập Ba, Trung Quốc) Lê Xuân Vũ dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Bất tử (1940, tiểu thuyết của M. S. Bubennov, Nga, LX.) Cường Thiết dịch, Hoàng Tuấn Nhã hiệu đính (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Con đường sấm sét (1948, tiểu thuyết của Peter Abrahams, Nam Phi), Nguyễn Quang Phùng dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Con người hãy sáng suốt (nghị luận của Julius Fučik, Czech) Thanh Sơn dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Chó sói (tiểu thuyết của Hàn Tuyết Dã, Trung Quốc) Trần Phúc, Doãn Trung dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Chuyện cũ viết lại (1936, tập truyện của Lỗ Tấn, Trung Quốc) Trương Chính dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Chuyện một người mẹ (tập truyện ngắn Gian Đơ-rđa, Lut-vich At-skê-na-dy, Gian Uéts, Gi-ri Ma-ret, Tiệp Khắc) bản dịch Phan Thao, Hùng Thao, Thiết Vũ, Thảo Nguyên (H. : Nxb. Văn học, 1960) 

Chuyện phiêu lưu của Hấc-phin (1884, tiểu thuyết của Mark Twaine, Mỹ) Xuân Oanh dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1960)

Cửa cuối cùng (ba vở kịch của V. Đi-khô-vích-ni, M. Slôbôskhô, Uliênninsky, Liên Xô) Thế Lữ dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Đất vỡ hoang, tập 2 (1959, tiểu thuyết của M. Sholokhov, Liên Xô) Trúc Thiên, Văn Hiến, Hoàng Trinh dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Đội cận vệ thanh niên, t. 1, t. 2  (1945, tiểu thuyết của A. Fadeev, Nga, LX.) Bùi Hiển, Nguyễn Văn Sỹ dịch từ tiếng Pháp (H. : Nxb. Thanh niên, 1960)

Đubrovski. Người con gái viên đại úy (1832, 1836, truyện của A. Pushkin, Nga) Cao Xuân Hạo dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Eugénie Grandet  (1833, tiểu thuyết của Honoré de Balzac, Pháp) Huỳnh Lý dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1960)

Gót sắt (1908, tiểu thuyết của Jack London, Mỹ) Vũ Cận dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Hoa bách hợp (tập truyện ngắn của Nhữ Chí Quyên, Vương Nguyện Quyên, Đặng Hồng, Chu Gia Thắng, TQ.) Doãn Trung dịch (H. : Nxb. Văn học, 1960)

Khuất Nguyên (1942, kịch lịch sử của Quách Mạt Nhược, Trung Quốc) Đào Anh Kha, Hồng Sơn dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Luyện mãi thành thép (truyện của Ngải Vu, Trung Quốc) Kỳ Ân, Bùi Hạnh Cẩn dịch (H.: Nxb. Lao động, 1960)

Mặt trời mới mọc (tập truyện ngắn về công xã nhân dân của Mã Phong, Lưu Phụ Huy, Lý Chuẩn, Vương Văn Thạch, Đỗ Bằng Trình) Hồ Tố Ngọc, Minh Châu, Kiều Mộc dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Một anh hùng thời đại (1839-40, tiểu thuyết của Ju. Lermontov, Nga) Phạm Thủy Ba dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Một vinh quang vô ích (1955, truyện của S. Voronin, Liên Xô) Đỗ Đức Thuật dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960)

− Mười ngày rung chuyển thế giới (1919, tác phẩm của John Reed, Mỹ) Đặng Thế Bính, Trương Đắc Vị dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Mười lá thư gửi các bạn mới tập viết văn (Cô Thạch Như, TQ.) bản dịch Xuân Quang, hiệu đính: Hồ Thi (H. : Nxb. Văn học, 1960; Tủ sách lý luận hướng dẫn sáng tác)
Ngõ Ba nhà, t. 1 (tiểu thuyết của Âu Dương Sơn, TQ.) Kỳ Ân, Bùi Hạnh Cẩn dịch (H. : Nxb. Lao động, 1960) 

− Ngôi nhà lớn (1952, tiểu thuyết của Mohammed Dib, Algérie) Chu Khắc, Dương Thị Loan dịch từ nguyên bản chữ Pháp (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Người nhạc sĩ mù (1886, truyện của V. Korolenko, Nga) Nguyễn Văn Sĩ dịch  (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Những bức thư không gửi  (1936, truyện của Adel Kutui, 1903-45, Tatar, LX.) Trọng Thanh dịch (H. : Nxb. Thanh niên, 1960)

Những con đường đói khát, tập 1, tập 2 (1946, tiểu thuyết của Jorje Amado, Brazil) Huy Phương dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Ơ-giê-ni Gơ-răng-đê (Eugénie Grandet, 1833, tiểu thuyết của H. de Balzac, Pháp) Huỳnh Lý dịch (H.: Nxb. Văn hóa)

Rừng thẳm tuyết dày (truyện của Khúc Ba, TQ.) Hải Nguyên, Như Hà dịch (H. : Nxb. Thanh niên, 1960)

Sông Đông êm đềm, tập 4, tập 5, tập 6, tập 7 (1937-40, tiểu thuyết của M. Sholokhov, Liên Xô) Nguyễn Thụy Ứng dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Thời gian khổ (1854, tiểu thuyết của Ch. Dickens, Anh) Phạm Thủy Ba dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Thơ Algérie, Cuba  (các bài thơ của Cader, Môhamed Enaid, Kateb Yacine, v.v…) Thanh Tịnh dịch (H. : Nxb. Văn học, 1960)

Thơ Aragon (tập thơ, dịch của L. Aragon, Pháp) Đào Xuân Quý, Tố Hữu, Nguyễn Viết Lãm, Tế Hanh, Phạm Hổ dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Thượng Hải ban mai tập II (truyện của Chu Nhi Phục, Trung Quốc) Trương Chính, Đức Siêu dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1960)

Tra-pa-ép (1934, truyện phim của anh em Vasiliev, Liên Xô) Thượng Thuận, Xuân Tùng dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Việt Nam trong lòng bè bạn  (tập thơ văn nước ngoài viết về Việt Nam) của Điền Gian, P. Eluard, G. Daniel, v.v.... (H. : Nxb. Văn học, 1960)

***

Bàn về văn học và nghệ thuật (vựng biên các tác phẩm của V. Lenin; theo bản Pháp văn của Nxb. Xã hội, Paris, 1957, do Jean Fréville soạn, trình bày và giới thiệu) bản dịch (H. : Nxb. Sự thật, 1960)

Công việc của nhà văn (kinh nghiệm của I. Ehrenburg, Liên Xô) Nguyễn Xuân Trâm dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960; Tủ sách lý luận hướng dẫn sáng tác)

Kinh nghiệm viết cho các em (của Hạ Nghị, Kim Cận, Cao Hương Chân..., TQ.) Vũ Ngọc Quỳnh, Xuân Tửu dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960; Tủ sách lý luận hướng dẫn sáng tác)

Kinh nghiệm viết kịch (của Đỗ Ân, Tôn Vu, Lão Xá, TQ.) bản dịch Hồ Lãng (H. : Nxb. Văn học, 1960; Tủ sách lý luận hướng dẫn sáng tác)

Lỗ Tấn. Thân thế, Tư tưởng, Sáng tác (nghiên cứu của Lý Hà Lâm, TQ.) Trần Văn Tấn, Hồng Dân Hoa dịch (H.: Nxb. Giáo dục, 1960) 

Mười lá thư gửi các bạn mới tập viết văn (của Cô Thạch Như, TQ.) Xuân Quang dịch, Hồ Thi hiệu đính (H.: Nxb. Văn học, 1960 Tủ sách lý luận-hướng dẫn sáng tác) 

Tôi đã học viết như thế nào (kinh nghiệm, M. Gorki, Liên Xô) Phạm Mạnh Hùng, Võ Minh Phú, Nguyễn Văn Sĩ, Lưu Huỳnh dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960; Tủ sách lý luận hướng dẫn sáng tác)

Văn học Xô-viết (1934, báo cáo đọc tại Đại hội nhà văn Liên Xô lần thứ nhất của M. Gorki) bản dịch của Hoài Thanh (H.: Nxb. Văn học, 1960)

Viết kịch bản như thế nào? (nghị luận, Cố Trọng Di, Viên Văn Thù, Trung Quốc) Kỳ Ân, Thượng Thuận dịch (H.: Nxb. Văn học, 1960; Tủ sách lý luận hướng dẫn sáng tác)


 

(1) Tin văn nghệ // Tạp chí Văn nghệ, Hà Nội, s. 33 (tháng 2/1960), tr. 120.

(2) Tin văn nghệ // Tạp chí Văn nghệ, Hà Nội, s. 33 (tháng 2/1960), tr. 120.

(3) P.V.: Ngày 19-1-1960, Tòa án nhân dân Hà Nội đã xử vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang và Thụy An // Nhân dân, Hà Nội, 21/01/1960 (s. 2135), tr. 1, 6; P.V.: Ngày 19-1-1960, trước Tòa án nhân dân Hà Nội, năm tên gián điệp phản cách mạng phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội // Thời mới, Hà Nội, 21/01/1960 (s. 2188), tr. 4; P.V.: Bọn gián điệp phản cách mạng phá hoại hiện hành Thụy An, Nguyễn Hữu Đang…đã chịu tội trước pháp luật // Quân đội nhân dân, Hà Nội, s. 688 (21 / 01/ 1960), tr. 4; Nguyễn Vinh: Phiên tòa công khai ngày 19-1-1960 xử vụ án gián điệp, phản cách mạng, phá hoại hiện hành Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thụy An // Thủ đô, Hà Nội, 21/01/1960 (s. 195), tr. 4; Hồng Chương: Bọn gián điệp phản cách mạng Thụy An, Nguyễn Hữu Đang…trước Tòa án nhân dân Hà Nội // Văn học, Hà Nội, 05/02/1960 (s. 80), tr. 11, 14. 

 

(4) Kết quả ‘Trại viết văn cho các bạn trẻ’ // Văn học, Hà Nội, s. 80 (5. 2. 1960), tr. 7; Lưu Quỳnh: Trại viết văn cho các bạn trẻ // Văn học, Hà Nội, s. 83 (26. 2. 1960), tr. 4.

(5) P.V.: Liên hoan bạn viết đầu năm trong quân đội // Văn học, Hà Nội, s. 84 (4. 2. 1960), tr. 2

(6) Thông báo của Hội LHVHNTVN, Hội nhà văn VN, Hội mỹ thuật VN, Hội nhạc sĩ VN, Hội nghệ sĩ sân khấu VN, Đoàn kiến trúc sư VN, Ban liên lạc nhiếp ảnh VN // Văn học, Hà Nội, s. 90 (15. 4. 1960), tr. 1, 2; TCVN.: Hãy bỏ phiếu cho văn nghệ sĩ tham gia ứng cử Quốc hội khóa này // Tạp chí Văn nghệ, Hà Nội, s. 36 (tháng 5/1960), tr. 88.

(7) Các thông tin trên đều rút từ các bản quảng cáo của Nxb. Phổ thông, Nxb. Văn hóa đăng trên báo chí đương thời.

(8) V.D.: Nói chuyện về tập ‘Nhật ký trong tù’ // Văn học, Hà Nội, s. 95 (20. 5. 1960), tr. 4.

(9) Hội nghị Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam // Văn học, Hà Nội, s. 102 (8. 7. 1960), tr. 2.

(10) Danh sách các tác phẩm trúng giải trong đợt II cuộc thi viết về đề tài miền Nam do báo ‘Thống nhất’ tổ chức // Văn học, Hà Nội, s. 104 (22. 7. 1960), tr. 14.

(11)  Đời sống văn hóa // Văn học, Hà Nội, s. 109 (26. 8. 1960), tr. 15.

(12) Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của báo ‘Văn học’ // Văn học, Hà Nội, s. 108 (19. 8. 1960), tr. 3.

(13) P.V.:  Đại hội lần thứ ba của Đảng và sự nghiệp văn học nghệ thuật // Văn học, Hà Nội, s. 114 (30. 9. 1960), tr. 3.

(14) Đời sống văn hóa // Văn học, Hà Nội, s. 116 (14. 10. 1960), tr. 15.

(15) Hội nghị bàn về sáng tác văn học // Văn học, Hà Nội, s. 118 (28. 10. 1960), tr. 2, 14.