1963

Tháng 1:

‒ Ngày 4: báo Văn học số 232:

Trường Chinh (Tăng cường tính đảng, đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ nhân dân phục vụ cách mạng tốt hơn nữa, bài nói tại ĐHVNTQ lần 3);

nghị luận: Chế Lan Viên (Chào mừng năm mới từng mong đợi);

bút ký: Văn Ngọc (Sức gái);

thơ: Tế Hanh (Bốn nhà máy chị em Việt Trì), Tuân Nguyễn (Lời chào hy vọng), Hoàng Hưng (Xe lên);

ca dao: Võ Văn Trực, Mai Anh, Nguyễn Bằng Tín;

truyện ngắn: Bùi Minh Quốc (Bài đội ca);

Thanh Tịnh (Nhận xét nhỏ: Tiếng còi và tiếng pháo);

văn thơ đả kích: Đại Sơn Pháo (Đất miền Nam loang lổ), Tú Mỡ (Xịt-pen-man vác mặt đến miền Nam), VH. (Vài con số đáng ghi từ tháng 7/1954 đến tháng 6/1962);

Tạ Quang Bửu (Khoa học và văn nghệ đều bắt nguồn từ đời sống mà phục vụ đời sống, tham luận tại ĐHVNTQ 3);

Nguyễn Anh Tài, Anh Thơ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên (Thu hoạch qua ĐHVN);

Hoàng Công Luận (Nhân xem phòng tranh mỹ thuật của khu mỏ);

Tân Dôn (Trao đổi về sáng tác phuc vụ công nghiệp);

Hồng Hà (Chiến sĩ quân đội Xô-viết qua văn học Xô-viết);

‒ Trong tháng 1: Tạp chí Văn nghệ số 68:

xã luận: Xuân Trường (Hướng đi tới của chúng ta);

bút ký: Đào Vũ (Người đàn bà biên giới);

trường ca dân tộc Ê-đê (Y Ban, ‒ Y Tặc, Y Ngang kể, Y Dung ghi tiếng dân tộc; Y Dung và A Ma Tơ dịch);

Những tham luận trong ĐHVN 3: Tô Hoài (Bàn về một vấn đề của văn xuôi hiện nay), Phạm Khiêm Ích (Văn nghệ và mỹ học), Nguyễn Đỗ Cung (Tìm hiểu và phát triển vốn cũ của nghệ thuật dân tộc), Nguyễn Xuân Khoát (Quan niệm cái hay cái đẹp như thế nào?), Nguyễn Nho Túy (Một nghệ nhân già tâm sự), Kim Xuân (Nâng cao trình độ lý luận và nghiệp vụ, sáng tác thêm kịch bản);

Trường Chinh (Trích bài nói chuyện trong ĐHVNTQ 3);

ĐHVNTQ 3 (Nghị quyết của ĐH; Thư của ĐH gửi TƯ Đảng; Thư của ĐH gửi văn nghệ sĩ miền Nam);

tiểu luận: Xuân Diệu (Mấy ý nghĩ về thơ tình yêu), Nguyễn Công Hoan (Thơ Tú Xương), Nguyễn Anh Tuấn (Xin góp vài ý kiến vào ngành điện ảnh);

Thời sự văn nghệ: Quách Công Chẩm (Dàn nhạc cồng của dân tộc Mường), Chương Dương (‘Thạch Sanh’, một vở múa rối tốt);

Đọc sách: Xuân Trình (‘Hiên ngang Cuba’, bút ký Thép Mới), Võ Lăng (‘Hạnh phúc’, tập truyện ngắn Trần Kim Thành)…

‒ Ngày 10 đến 12: Đại hội nhà văn lần II họp tại câu lạc bộ Đoàn Kết, Hà Nội; 250 đại biểu tham dự; Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi đọc báo cáo của BCH Hội Văn học ta cần vươn lên mạnh mẽ, cố gắng tiến kịp đời sống; các nhà văn tham luận tại ĐH: Chế Lan Viên (‘Những vấn đề nêu trong thư TƯ Đảng gửi ĐHVNTQ 3 là những vấn đề xương sống và mạch máu của tác phẩm chúng ta), Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Nguyễn Tuân (Cần cười), Nguyễn Công Hoan (về văn thơ kỳ quặc dưới chế độ Mỹ-Diệm trong Nam), Thợ Rèn (về thơ châm biếm đấu tranh nội bộ), Hoài Thanh (về công tác phê bình văn học), Cao Xuân Huy (về dịch các tác phẩm chữ Hán ra tiếng Việt), Xuân Diệu (phải làm thơ cho đúng, tốt và hay), Bùi Hiển (truyện ngắn phải có sức nặng, bề sâu và sức vang ngân), Bùi Huy Phồn (đòi hỏi ở thể phóng sự), Phạm Hổ (về thơ cho thiếu nhi), Cẩm Thạnh (về văn học cho phụ nữ), Lưu Trọng Lư (thơ hôm qua của tôi và con người tôi hôm nay), Hồng Chương, Như Phong (về phê bình) Hoàng Văn Bổn (viết cho miền Nam), Hà Minh Tuân (viết về công nhân), Nguyễn Thế Phương (viết về nông dân), Hồ Tôn Trinh (về nghiên cứu văn học), Bửu Tiến (về kịch), Kỳ Ân (về sáng tác kịch bản phim), Nông Minh Châu (về viết cho miền núi), Trần Thị Minh Châu (về sách phổ thông), Lê Kim (về thơ)…; Đại hội chia thành các tổ thảo luận về đề án công tác và điều lệ Hội; nhiều ý kiến góp với đề án về các mặt: đi sâu và đời sống công nông, học tập chính trị, nâng cao chất lượng sáng tác, lý luận, phê bình, chăm lo lực lượng trẻ, chú ý văn học cho thiếu nhi, văn học miền núi, chú ý trao đổi văn hóa với nước ngoài, với miền Nam… Điều lệ lần này có một số điểm sửa đổi và bổ sung; các đại biểu thảo luận kỹ về tôn chỉ mục đích, về tiêu chuẩn, quyền lợi của hội viên. Sáng 12, sau khi biểu quyết thông qua các chương trình công tác và sửa đổi điều lệ Hội, ĐH đã tiến hành bầu cử BCH cho nhiệm kỳ mới; 33 đại biểu do BCH hành cũ giới thiệu đều trúng cử; BCH mới đã bầu Nguyễn Đình Thi vào chức vụ Tổng thư ký Hội. BCH gồm: Cầm Biêu, Huy Cận, Nông Quốc Chấn, Xuân Diệu, Vân Đài, Bàn Tài Đoàn, Bảo Định Giang, Tế Hanh, Bùi Hiển, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải, Lưu Trọng Lư, Xuân Miễn, Tú Mỡ, Thép Mới, Vũ Tú Nam, Như Phong, Bùi Huy Phồn, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Xuân Sanh, Võ Huy Tâm, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Cẩm Thạnh, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Anh Thơ, Nam Trân, Xuân Trường, Chế Lan Viên. Ban thường vụ: Nguyễn Đình Thi (Tổng thư ký), Tế Hanh, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Xuân Trường, Chế Lan Viên. [1] 

‒ Ngày 11: báo Văn học số 233:

Nguyễn Đình Thi (Văn học ta cần vươn lên mạnh mẽ, cố gắng tiến kịp đời sống);

tường thuật: Phạm Hổ (Đại hội các nhà văn lần thứ II);

phỏng vấn nhân ĐH nhà văn II: Bùi Hiển (Mỗi người chúng ta nên có ‘cơ sở’ cắm sâu vào đời sống), Nguyễn Kiên (Nên tìm cho mình cách đi sâu nghiên cứu cuộc sống), Bích Thuận (Tôi còn ‘mắc nợ’ khá nhiều), Huỳnh Lý (Về việc dịch tác phẩm văn học), Huy Cận (Trước hết là trau dồi tính đảng trong văn học), Chính Hữu (Sự thành thực trong thơ trữ tình), Hoàng Thị Minh Khanh (Những khó khăn của tôi), Prekimala-Mak (Mong ĐH chú ý vấn đề người viết trẻ), Ca Lê Hiến (Tôi gắng sống, làm việc, học tập theo gương những người cộng sản), Đào Vũ (Về việc thể hiện người nông dân VN), Nguyễn Thế Phương (Viết về nông dân, đó là nguyện vọng của tôi), Văn Trọng (Tôi tha thiết với đề tài thiếu niên nông thôn), Vũ Sơn (Tôi đang nung nấu viết một kịch bản phim về đấu tranh thống nhất), Phong Lê (Phê bình cần phải xông xáo vào sáng tác để phát hiện);

thơ: Xuân Thiều (Đường làng ta), Duyên Hải (Nhớ sông Trà), Nguyễn Văn Toại (Con lớn trên nông trường), Nguyễn Trung Thu (Mẹ trồng hoa);

bút ký: Châu Diên (Mái lều thợ khoan);

Thanh Tịnh (Nhận xét nhỏ: Cài hoa và rửa chân);

một số phát biểu về văn nghệ miền Nam tại ĐHVNTQ 3: Trần Hữu Trang, chủ tịch Hội VNGP miền Nam (Vài nét về tình hình sân khấu miền Nam); Nguyễn Hiền (Vì tương lai chung của ngành điện ảnh Việt Nam), Phan Thế (Chúng ta sẽ kề vai nhau đồng ca bản ‘Việt Nam thống nhứt’);  

chùm thơ LX. (Thúy Toàn dịch): E. Evtushenko (Những đoạn phim thời sự cũ của Cuba), Rasun Rza (Mưa), S. Ê-ra-liep (Một vì sao rơi), R. Gamzatov (Sông; Khát);

chùm thơ Tiệp Khắc: V. Nezval (Thơ tặng Praha, Tế Hanh dịch), Miroslaw Stony (Mới đầu tôi muốn…, Dương Tất Từ dịch), Wilhem Zavada (Ca ngợi hòa bình, Huyền Kiêu phỏng dịch).

‒ Ngày 18: báo Văn học số 234 & 235 (số Tết Quý Mão):

Văn học (Năm Quý Mão nhất định sẽ ghi lại những thành công mới của chúng ta);

Nguyễn Đình Thi (Văn học ta cần vươn lên mạnh mẽ, cố gắng tiến kịp đời sống, tiếp);

câu đối: Mai Nham (mừng xuân Quý Mão), Vũ Mộng Bảng (dán nhà hợp tác xã nông nghiệp), Đồ Phồn (mừng công nghiệp);

từ miền Nam gửi ra: thơ: Ngọc Sơn (Tình em; Tiếng hát Trường Sơn), văn: Xuân Hải (Tết ở nông thôn miền Nam);

truyện ngắn: Nguyễn Khải (Nguồn vui);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Vũ Thị Thường (Con mèo tam thể), Hải Như (Tết vượt trung nông);

ký sự: Huyền Kiêu (Giếng ông già);

bút ký: Nguyễn Tuân (Tôi bán 5 cành hoa tết);

kịch rối: Đăng Lợi (Gau Dự Nùng Phai, theo cổ tích Mèo);

thơ: Huyền Kiêu (Xuân), Huy Cận (Về đây thăm quê nhà), Tế Hanh (Chăn con), Ngô Hoàng Anh (Cô nữ giao thông), Nguyên Hồng (Cảm xúc mùa xuân), Phạm Hổ (Hoa đào), Ngô Văn Phú (Mùa xuân), Xuân Diệu (Hoa ngọc trâm), Bàng Sỹ Nguyên (Ơi chim xuân thơ trẻ), Bùi Minh Quốc (Mắt em);

chuyện vui ngày Tết: P.X. (Hai mẩu chuyện kháng chiến), Thanh Tịnh (Chuyện cũ Hà Nội), Nguyên Hồng (Hương vị cũ của tỉnh Tú Xương: kẹo sừu; bánh đậu xanh Hanh Tụ);

Tú Mỡ (Cổ tích diễn ca: Khảo đá ra tiền);

Xích Điểu (Bút trào phúng tự phê);

Kim Lân (Râu tuồng mặt tuồng);

Nguyễn Viết Châu (Tranh dân gian);

‘Đòn bút’: Nguyễn Đình (Mỹ-Ngô xin quẻ xuất hành), Phú Sơn (Năm mèo tổng chuột), Tiêu Viên (câu đối đề trên trán tớ thầy Mỹ Diệm);

Tố Mỹ (Bảo nhau: Chúc tết);

sưu tầm: Nguyễn Văn Lược (Mười khúc thơ vịnh Hương Sơn của Cao Bá Quát, Đào Văn Bình dịch), Anh Tuấn (Bài ca chợ Đồng Xuân);

truyện Y. Ku-ra-mốp (Nàng công chúa, Vũ Ngọc Bình dịch), truyện cổ TQ. (Ngu Công dời núi, Suối Hoa thuật);

truyện O. Cardoso (Con cú vọ gian tham, Nguyễn Trung Tính dịch).

‒ Trong tháng 1: tập san Nghiên cứu văn học  s. 1/63 (s. 37):

BCH TƯ ĐLĐVN (Thư gửi ĐHVNTQ lần thứ III);

Hồ Chủ tịch (Bài nói chuyện tại ĐHVNTQ lần thứ III);

Đặng Thai Mai (Trên cơ sở những thành tích đã đạt được, nắm vững nguyên tắc tính đảng, phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc ngày càng phong phú);

Nam Mộc (Nếu đúng là hoa quả của ‘cây đời luôn xanh tươi…’);

Hoàng Xuân Nhị (Một số nhận xét về tính chất dân tộc Việt Nam qua văn học nghệ thuật);

Hoàng Trinh (Từ vở tuồng ‘Tam nữ đồ vương’ đến vở tuồng ‘Ngọn lửa Hồng Sơn’);

Đỗ Đức Hiểu (Bi kịch ‘Othello’ của Shakespeare);

Tư liệu tham khảo: I.S. Braginski (Sơ kết cuộc thảo luận về sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn học các nước phương Đông, tiếp, hết);

Trao đổi ý kiến: Nguyễn Huệ Chi- Hồng Tân (Mấy ý kiến nhân đọc ‘Lịch sử văn học Việt Nam (sơ giản)’);

Đọc sách: Chu Nga (Vấn đề con người và vũ khí trong ‘Mạnh hơn nguyên tử’, tiểu thuyết G. Bê-rốt-cô, LX., bản dịch, Nxb. QĐND); Hoàng Sa (Một bài biểu yêu nước);

NCVH (Nhà nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai 60 tuổi).

‒ Trong tháng 1: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 1/63:

BCH TƯ ĐLĐVN (Thư gửi ĐHVNTQ lần thứ ba);

Lê Quang Đạo (Tham luận tại ĐHVNTQ lần 3);

truyện ngắn: Chu Phác (Thủ trưởng của tôi), Giang Nam (Bên đường chiến lược);

thơ: Lý Xuân (Chiến khu), Xuân Diệu (Khẩu súng võ trang tự vệ), Phù Thăng (Lên cao), Hoàng Hưng (Xe lên), Cảnh Trà (Khi đến tay em), Xuân Nguyên (Sau giờ làm việc), Bùi Đăng Sinh (Chiều biên giới), Nguyễn Thị Sáu (Em gái mỏ), Xuân Hồng (Tiến quân về biển), Băng Sơn (Bến gỗ đêm nay);

ca dao: Quang Huy, Nguyễn Thức, Việt Hải, Minh Châu, Quang Chi;

truyện ngắn: S.K. Colias, Cuba (Ngôi nhà giải tội, Doãn Trung dịch từ Trung văn);

những đoạn văn ngắn: Hữu (Chú bộ đội), Xuân Thiều (Bờ biển), Vi Dương Hồng (Người bạn đường), Minh Hồ (Người hành khách mới), Thanh Tịnh (Những đêm xa quê);

Anh Cảm (Hò mái đẩy);

độc tấu Cao Tiến Lê (Giả chết);

Bình luận văn nghệ: Nguyễn Khải (Tự lượng sức mình là một điều quan trọng của mỗi người viết); Quang Thọ (Một vài băn khoăn về việc vẽ bộ đội); tài liệu của Viện Văn học (Tìm hiểu danh nhân: Nguyễn Trãi);

Tháng 2:

‒ Ngày 1: báo Văn học số 236:

ĐH nhà văn 2 (Nghị quyết về chương trình công tác Hội nhà văn VN); tham luận: Chế Lan Viên (Sung sướng thay được chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh); báo cáo: Nguyễn Đình Thi (Văn học ta cần vươn lên mạnh mẽ, cố gắng tiến kịp đời sống, tiếp, hết);

Thơ: Giang Nam, miền Nam gửi ra (Xuân chiến thắng), Tân Trà (Đôi gà sống thiến), Hoàng Minh Châu (Xuân nay), Anh Thơ (Bó hoa xuân), Vân Đài (Tranh xuân), Xuân Hoàng (Thăm đền Hùng);

ca dao: Kiều Ánh Nguyệt, Đỗ Văn Tri, Trần Lê Đệ;

truyện ngắn: Nguyễn Khải (Nguồn vui), Hoa Lê (Dì Bảy);

văn thơ đả kích: Tòa soạn VH (Mời dự cuộc thi ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’), Xích Điểu (Thách họa, 1, 2), H. C. (Diệm với phim tết ở miền Nam), Búa Đanh (Diệu kế mách chàng Ken), Huyền Thanh (Rúc đâu cho kín?), Vĩnh Mai (Diệm mừng xuân), Vũ Tú Nam (Xin khai bút cùng ông Diệm);

tư liệu: Trần Hữu Thung (Sưu tầm và trích dịch ‘Thương lạng thi thoại’);

tiểu luận: I-li-sốp, LX. (Sáng tác cho nhân dân, cho chủ nghĩa cộng sản, L.Q. trích dịch).

‒ Trong tháng 2: Tạp chí Văn nghệ số 69:

xã luận: Xuân Diệu (Các nhà văn tiến lên một chặng đường mới);

truyện vừa: Xuân Cang (Ngày hội, trích);

bút ký: Hà Minh Tuân (Mở kho đất);

kịch nói: B. Brecht (Tên chỉ điểm, Đình Quang dịch);

thơ: Huy Cận (Sớm mai gà gáy; Xong buổi cày), Trúc Cương (Thị trấn biên giới), Tế Hanh (Mùa thu ở nông trường), Nguyễn Xuân Sanh (Trước xuân, thăm chùa Hương), Mã Thế Vinh (Mưa xuân), Xuân Diệu (Trên đỉnh non cao),

thơ: P. Éluard (Cái chết, tình yêu, cuộc sống, Xuân Diệu dịch), Mihai Beniuc (Trên đống tro của tuổi, Đào Xuân Quý dịch), A. Jozsef (Gửi Flora, Tế Hanh dịch), V. Nezval (Người cày ruộng, Dương Tất Từ dịch), E. F. Bu-ri-ăng (Sáu giờ anh hãy tới với em);

Tiểu luận: Nguyễn Đình Thi (Phấn đấu nâng cao trình độ tư tưởng các tác phẩm của chúng ta, trích báo cáo tại ĐH nhà văn 2), Mịch Quang (Tìm hiểu đặc trưng sân khấu tuồng), Lê Cường (Mấy nét khái quát về ca nhạc trong tuồng), Đình Phong, Dũng Hiệp (Vài mẩu chuyện về vai hề trong tuồng), Pierre Abraham (Giữa truyền thống và tiến triển), L. F. I-li-tsốp (Sáng tác cho nhân dân, vì chủ nghĩa cộng sản, bản dịch), Phùng Kỳ Dung (Tính độc đáo và tính nhiều vẻ của phong cách nghệ thuật, bản dịch);

Thời sự văn nghệ: Hoàng Xuân Nhị (Cuộc thảo luận ở Liên Xô về bản đề cương xây dựng bộ ‘Lịch sử văn học Xô-viết’), Trần Đức Hinh (Một số điểm mới trong điện ảnh Liên Xô gần đây), Vương Như Chiêm (Triển lãm mỹ thuật Khu mỏ lần thứ hai), Minh Tần (Nghệ thuật tạo hình đang phát triển tốt đẹp trong lao động), Nguyễn Thịnh, Phan Khanh (Chùa Tây Phương);

Đọc sách: Đào Xuân Quý (‘Mở đường’, tập thơ Hoàng Minh Châu), Phạm Hổ (‘Sớm nay’, tập thơ Vũ Cao), Nguyễn Trọng Bích (‘Thung lũng nàng tiên’, tập truyện Huyền Kiêu);

Ý kiến ngắn: Mạc Kỳ Vân (Của ai trả lại nấy), Trần Hải (Chung quanh cái biệt hiệu);

Qua báo chí nước ngoài: (Jorge Amado nói về tiểu thuyết Mỹ latinh), ? (Sự suy đồi của điện ảnh Mỹ qua cái hiện đại của cô đào nguyên tử Marylin Monroe).

 

‒ Ngày 6: buổi tối, tại câu lạc bộ những cây bút trẻ thủ đô có cuộc trao đổi ý kiến về tập thơ ‘Ánh sáng và phù sa’ mới xuất bản của Chế Lan Viên. [2]

‒ Ngày 8: báo Văn học số 237:

ĐH nhà văn 2: tham luận Hoài Thanh (Một vài ý kiến về công tác phê bình văn học);

kịch phim: Tô Hoài (Kim Đồng);

bút ký: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Những luống cày mới);

thơ: Bùi Công Bính (Về Thông Nguyên), Xuân Quỳnh (Chồi biếc),[3] Bàn Tài Đoàn (Một ước mong), Vũ Tuyến (Chợ Điện Biên);

ca dao chống hạn: Hoàng Ý, Phạm Đình Thông, Ngô Văn Phú, Xuân Tình;

tư liệu: T.H.T. (Sưu tầm và trích dịch ‘Thương lạng thi thoại’);

Thanh Tịnh (Nhận xét nhỏ: Ngày xuân con én đưa thoi);

Nguyễn Thịnh (Văn hóa dân tộc: Chùa Bút Tháp ở Hà Bắc);

văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Chú nó nghèo), Quý Yến, Trung Ngôn (Họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’), Tia Sét (Vịnh Mỹ-Diệm mắc răng trong ấp chiến lược);

Đọc sách: Vũ Ngọc Bình (Nhân đọc mấy cuốn truyện viết về sinh hoạt thiếu nhi nông thôn), Lê Đình Kỵ (Chế Lan Viên viết phê bình,- đọc cuốn ‘Phê bình văn học’);

Đặng Đặng (Ý kiến bạn đọc: Bớt những đính chính);

P.V. (Xem tranh vẽ của công nhân); Sơn Nam (Ngày xuân nói chuyện đánh vật);

tiểu luận: Pierre Abraham, Pháp (Từ chủ nghĩa lãng mạn đến chủ nghĩa hiện thực).

‒ Ngày 8: buổi tối, tại câu lạc bộ Hội nhà văn, Nguyễn Đình Thi nói chuyện về kế hoạch sáng tác và đi vào cuộc sống quần chúng trong năm 1963 và từ đây đến hết kế hoạch 5 năm lần thứ nhất; các nhà văn tham dự trao đổi ý kiến, đưa ra nhiều đề nghị thiết thực. [4]

‒ Ngày 9: buổi chiều, tại Viện văn học, nhà văn Pháp Pierre Abraham, chủ nhiệm tạp chí ‘Europe’, đang ở thăm VN, nói chuyện về một số vấn đề của văn học Pháp: các trường phái, các tác giả cũ mới, đặc biệt là vai trò hai nhà văn Balzac và Hugo trong văn học Pháp hiện đại.[5]

‒ Ngày 9: buổi chiều, tại trụ sở Hội nhà văn VN, khoảng ba chục tác giả viết cho thiếu nhi họp bàn về các vấn đề phương hướng, kế hoạch viết cho trẻ em. [6]

‒ Ngày 15: báo Văn học số 238:

Bộ chính trị BCH TƯ Đảng LĐVN (Tuyên bố về sự đoàn kết của phong trào cộng sản quốc tế);

xã luận báo ‘Nhân dân’ 11/2/1963 (Đoàn kết là đảm bảo cho mọi thắng lợi của chúng ta);

bút ký: Đỗ Quang Tiến (Những ngày đêm chống hạn);

kịch phim: Tô Hoài (Kim Đồng, tiếp);

thơ: Giang Phượng (Mùa xuân thăm nhà bạn), Lương Thái Khoan (Tiếng máy trên đồng khuya), Đào Xuân Quý (Giã gạo đêm trăng), Nắng Hồng (Thăm chùa Hàn Sơn);

ca dao chống hạn: Giang Hoài, Trần Nguyên Đào, H.T., Anh Lê, Huyền Tâm;

Thanh Tịnh (Nhận xét nhỏ: Có qua… có lại);

văn thơ đả kích: Tia Sét (Ngô… chém nhạc), Đức Kiên (‘Thế giới tự do có gì lạ’: Con ông cháu cha), họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’: Huyền Hoa (Sau trận Ấp Bắc), Phú Sơn (Gom oán dựng sầu), Thụy Hồ (Hãy nổi lửa);

Đọc sách: Trần Vượng (Hoan nghênh ‘Những con người của thời đại’, tập truyện và ký, nhiều tác giả, Nxb. Văn học); Ly Tao (Chuyện thơ, chuyện không thơ: Lời tựa);

Nguyễn Thị Nam (Ý kiến bạn đọc: Về cách phiên âm tiếng nước ngoài và dùng từ Hán Việt);

Trọng Anh (‘Khói trắng’ và ‘Câu chuyện quê hương’ trên màn ảnh thủ đô);

Đông Phong (Mừng nghệ sĩ chèo Nguyễn Văn Thịnh 80 tuổi).

‒ Ngày 15: Phiên họp toàn thể lần 2 BCH Hội nhà văn VN khóa II; Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi trình bày kế hoạc công tác năm 1963 của Hội; hội nghị thảo luận các vấn đề: 1/ Tổ chức đi vào thực tế đời sống và đẩy mạnh sáng tác; 2/ Thành lập các tiểu ban chuyên môn (văn, thơ, lý luận phê bình…) giúp việc Ban Thường vụ Hội; 3/ Tiến tới thành lập các chi Hội địa phương; 4/ Hoàn thành khóa 1 của trường các nhà văn trẻ; 5/ Phối hợp với Bộ giáo dục về chương trình giảng dạy ở các trường; 6/ Chấn chỉnh các cơ quan báo và xuất bản; 7/ Phân loại hội viên và kết nạp hội viên mới; 8/ Tăng cường công tác quốc tế. [7]

‒ Ngày 21 đến 23: 52 cây bút viết kịch không chuyên ở xí nghiệp, nông thôn, quân đội, tỉnh thành, khu tự trị… về Hà Nội dự hội nghị thảo luận về thể hiện con người mới cuộc sống mới trong kịch bản. [8]

‒ Ngày 22: báo Văn học số 239:

ĐH nhà văn 2: tham luận Xuân Diệu (Đưa cái đúng cái tốt cái hay của thơ vào trong quần chúng), Phạm Hổ (Một vài suy nghĩ về vấn đề  sáng tác cho các em), Nguyễn Tuân (Cần cười), Xuân Cang (Viết về người công nhân);  

Thơ: Minh Huệ (Bác về chống hạn), Trang Nghị (Đường ray), Thanh Diệp (Lán Mông Giăng);

ca dao chống hạn: Nguyên Đào, Hương Huyền, Phạm Đức Nghiệm, Xuân Long;

truyện ngắn: Đỗ Đức Thuật (Qua Bắc Lý);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Hoàng Thanh (Buổi tập cuối cùng), Nguyên Bình (Sao đỏ, sao vàng), Hồ Chiểu (Chú thợ xây);

170 năm mất Lê Hữu Trác (Chữa bệnh cho quan, trích ‘Thượng kinh ký sự’);

thơ Phan Đình Phùng (Tết Mậu Tý, Hoa Bằng dịch);

văn thơ đả kích: họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’: Nam Hương, Đoàn Hân (Xây mồ dựng mả; Nhớ mang theo chiếu), Xuân Thơm (Hãy lo sẵn), Chông Thép (Thân cá rúc lờ);

Ly Tao (Chuyện thơ, chuyện không thơ: Trong vườn xanh hãy tìm ra quả chín);

Nghệ thuật: Nguyễn Văn Mười (Vài nhận xét về tranh trong phòng triển lãm mỹ thuật Indonesia);

trang thơ châu Phi: M. Mắc-cu-ây, Ghana (Trong làng chúng tôi, Thúy Toàn dịch qua tiếng Nga), B. Diop, Senegan (Tổ tiên, Thúy Toàn dịch qua tiếng Nga), J. Craveirinha, Mozambique (Nếu như anh nhìn thấy, Thúy Toàn dịch qua tiếng Nga), Di Oliveira, Angola (Chiều thứ bảy, Bùi Huy Mễ dịch theo bản Trung văn).

‒ Trong tháng 2: tập san Nghiên cứu văn học s. 2/63 (s. 38):

Trường Chinh (Tăng cường tính đảng, đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ nhân dân phục vụ cách mạng tốt hơn nữa);

ĐHVNTQ lần thứ III (Nghị quyết);

Lộng Chương (Về mặt kịch bản văn học chèo cổ cần ‘viết lại’ một số tích cũ);

Tú Mỡ (Nhà thơ Mông Cổ Dashdorzhiyn Nazagdorzh);

Lê Đình Kỵ (Mấy đính chính cần thiết);

Viện văn học (Báo cáo tổng kết công tác năm 1962 của Viện văn học);

Đỗ Quang Lưu (Nghiên cứu và giảng dạy văn học);

Đọc sách: Đỗ Đức Dục (‘Những người chân đất’, tiểu thuyết Z. Stancu, [bản dịch Trần Dần], Nxb. Văn học);

Đính chính văn thơ cổ: Tảo Trang (Một số tài liệu về thơ văn Cao Bá Quát);

P.V. (Hộ nghị tổng kết công tác 1962 của Viện văn học).

‒ Trong tháng 2: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 2/63:

truyện ngắn: Từ Bích Hoàng (Bé Mai), Lê Bầu (Hương cau), Xuân Sách (Câu chuyện ở thôn Đào), Hồ Phương (Đêm ba mươi), Nguyễn Minh Châu (Đất quê ta), Phan Văn Tại (Bông hoa tím);

thơ: Đào Thản (Gặp cô gái Mán), Trần Minh Thái (Chòi canh trên đỉnh Đèo Nai), Nguyễn Tô Phương (Trên đảo vắng), Huy Cận (Mẹ con), Vũ Cao (Hoa), Anh Thơ (Dưới rặng sa-mu), Huyền Kiêu (Fidel Castro), Bàng Sĩ Nguyên (Một đêm xuân), Lương Sĩ Cầm (Gọi rừng), Phù Thăng (Hội làng);

ca dao: Nguyễn Văn Dinh, Lý Biên Cương, Quốc Anh, Hoài Giao, Trần Biên, Hồ Trương;

những đoạn văn ngắn: Xuân Khánh (Hoa núi), T.T. (Cái còi), Trịnh Thuần (Tết riêng và tết chung);

tùy bút: Văn Phác (Trên đường thời gian);

kịch vui: Hải Hồ (Bức điện kỳ lạ);

câu đối Tết: Hoài Giao, Xuân Thiều, Ba Quang;

phác thảo phim truyện: Thanh Tịnh (Tiếng hát);

Tháng 3:

‒ Ngày 1: báo Văn học số 240:

truyện ngắn: Dương Linh (Chém vạt dừa);

bút ký: Đào Vũ (Con chim lửa);

thơ: Huy Cận (Thi nghé; Cảnh địa ngục; Anh thợ gốm; Bốn em chơi cá ngựa; Mỗi chiều tối đón con về);

ca dao: Nguyễn Sĩ Bỉnh, Giang Quân;

T.N. (Qua cuộc họp đầu năm của những cây bút viết cho các em);

Nguyễn Công Hoan 60 tuổi: Vũ Ngọc Phan (Nguyễn Công Hoan ngày còn nhỏ);

Thanh Tịnh (Nhận xét nhỏ: Nói chuyện riêng);

văn thơ đả kích: Búa Đanh (Hít-le chịu kém), Đức Kiên (‘Thế giới tự do có gì lạ?’: Một con số … rất Mỹ);

Đọc sách: Ngô Văn Phú (‘Bài ca từ chiến hào’, tập truyện ngắn Hải Hồ);

Trao đổi: Chàng Văn (…mục ‘Trao đổi’ lại ra đời…), Đỗ Nhuận, Nguyễn Công Hoan (Trả lời bạn đọc);

Ly Tao (Chuyện thơ, chuyện không thơ: Quả tim thật và lời thơ giả).

‒ Trong tháng 3: Tạp chí Văn nghệ số 70:

BCH Hội LHVHNTVN (Thư gửi BCH Hội văn nghệ giải phóng MNVN);

bút ký: Bùi Hiển (Trên một nông trường miền bể), Nguyễn Trinh (Cá từ khơi xa);

Thơ: Xuân Diệu (Tiếng gọi Bến Tre);

ĐHVNTQ lần 3: Tố Hữu (Phát biểu tại ĐHVNTQ 3); Chế Lan Viên (Một vài ý nghĩ); Bùi Hiển (Câu chuyện ngắn về truyện ngắn); Nguyễn Kiên (Mỗi nhà văn cần có một vùng quê riêng);

Tiểu luận, phê bình: Bảo Định Giang, Trang Nghị (‘Thượng kinh ký sự’ và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác); Như Thiết, Khái Vinh (Một vài cảm nghĩ về hình ảnh con người trong ‘Mũi Cà Mau’, thơ Xuân Diệu);

Đọc sách: Hà Minh Đức (‘Con chó xấu xí’, tập truyện Kim Lân), Huệ Chi (‘Bài ca từ chiến hào’, tập truyện ngắn Hải Hồ), Lại Ngọc Cang (‘Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – XVII’, Nxb. Văn hóa);

truyện ngắn: A. Moravia (Hạnh phúc sẽ rơi vào anh, Chu Nga dịch qua tiếng Nga);

A. Rodin (Gửi các bạn họa sĩ trẻ);

Thời sự văn nghệ: Trần Văn Lắm (Một nền hội họa trẻ nhiều màu sắc), Thanh Chi (Một vài ý kiến về phim ‘Khói trắng’), Trọng Anh (Xem vở kịch múa ‘Bả khó’), Hoàn Việt (Nâng cao hơn nữa chất lượng phim đèn chiếu); Xuân Trình (Vài ý nghĩ khi xem ‘Một đêm giông tố’, kịch Caragiale);

Hoàng Châu Lĩnh (Chùa Một Cột); Tạ Mỹ Duật (Kiến trúc phải phục vụ cuộc sống mới với tất cả những đặc trưng của nó);

Nguyễn Đức Lộc (Trích sổ tay Stanislavski: Một nghệ thuật nói lên được tình người);

‒ Ngày 8: báo Văn học số 241:

80 năm ngày mất C. Marx (trích Hệ tư tưởng Đức’: Chủ nghĩa cộng sản tạo điều kiện để mọi tài năng tự do phát triển);

BCH Hội LHVHNTVN (Thư gửi BCH Hội văn nghệ giải phóng miền Nam VN);

Thơ: Chế Lan Viên (Bài thơ chống Mỹ);

trang thơ phụ nữ: Xuân Quỳnh (Quê hương; Trời đẹp; Băn khoăn; Ghét), Cẩm Lai (Cây ở quê tôi; Hội cấy);

truyện ngắn: Thanh Hương (Cô Tím), Vũ Thị Thường (Ông Đông giở chứng);

Văn Ngọc, Hồ Huy (Phụ nữ miền Nam chống Mỹ-Diệm);

Ly Tao (Chuyện thơ, chuyện không thơ: Thơ…những nàng thơ);

Trọng Thiên, Khánh Ngọc (Vịnh Trưng Vương, sưu tầm);

văn thơ đả kích: Lê Văn Xuân (Diệm về thăm mẹ), Nguyễn Thị Thiếu Anh, Nguyễn Công Danh (Họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’), Đức Kiên (‘Thế giới tự do có gì lạ?’: Nỗi buồn của nhà triệu phú);

Đọc sách: Huyền Kiêu (‘Hương lúa sớm’, tập truyện của 9 cây bút phụ nữ), Tế Hanh (Hai mẩu chuyện về 2 cuốn sách viết cho các em);

Tĩnh Trai Hà Văn Cầu (Bàn lại với ông Nguyễn Đức Thuyết về nhân vật Thúy Vân);

Trao đổi: Tú Mỡ, Văn Giáo (Trả lời bạn đọc);

truyện ngắn: A. Chekhov (Chị ta đi; Một người nhu nhược, Đỗ Quang Tiến dịch).

‒ Ngày 9: cuộc họp các nhà thơ do ban thơ của Hội nhà văn triệu tập, thảo luận về nâng cao chất lượng thơ. [9]

‒ Ngày 15: báo Văn học số 242:

nhân 80 năm ngày mất C. Marx (Trích các bức thư Engels nói về C. Marx);

BCH Hội LHVHNTVN (Nghị quyết về chương trình công tác văn nghệ trong năm 1963);

bút ký: Lê An (Những ngày vui trên đất nước triệu voi), Đinh Phong Nhã (Gánh sọt mẫu), Phạm Hổ (Tiếng thác);

hồi ký: Nguyễn Công Hoan (Thầy ký rượu);

thơ: Hoàng Trung Thông (Cửa Tùng; Tặng Pierre Abraham), Khương Hữu Dụng (Bài thơ đầu năm), Xuân Diệu (Hoa ‘anh ơi’), Tú Mỡ (Hưu trí ‘nghiệp dư’ cảm tác);

truyện ngắn: Đặng Chương (Nhật ký người chăn vịt);

tư liệu: Trần Văn Giáp, Cao Huy Giu (‘Đồ Sơn bát vịnh’, thơ Hồ Xuân Hương?);

văn thơ đả kích: Yến Lan, Đoàn Văn Cừ, Khương Hữu Dụng (họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’), Đức Kiên (‘Thế giới tự do có gì lạ’: 100.000 chiếc quần tám túi), Trần Kích (Thư mụ Hoăc gửi chồng, theo điệu ‘Anh khóa’);

Đọc sách: Trần Tuấn Lộ (‘Thung lũng nàng tiên’ của Huyền Kiêu);

Trao đổi: Bùi Hiển, Đỗ Nhuận (Trả lời bạn đọc);

‒ Ngày 15: Ban thường vụ Hội nhà văn VN tổ chức cho 23 nhà văn đi xuống cơ sở và viết trong từ 1 đến 3 năm, trong số này có Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Bùi Huy Phồn, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Bùi Hiển, Vũ Tú Nam, v.v…[10]

‒ Ngày 16: UV Bộ CT TƯ ĐLĐVN Nguyễn Chí Thanh và UV Ban bí thư TƯ ĐLĐVN Tố Hữu đến trụ sở Hội nhà văn gặp gỡ nói chuyện với những nhà văn sắp đi thực tế sáng tác trong thời gian dài. [11]

‒ Ngày 19: nhân ‘ngày chống Mỹ’, nhóm thơ trào phúng (trong ban thơ Hội nhà văn) lần đầu họp mặt, gồm 20 người, trong đó có Tú Mỡ, Xích Điểu, Thợ Rèn, Nguyễn Đình, Phú Sơn, Huyền Thanh, v.v…; sau buổi họp mặt, các nhà thơ trào phúng đã đến Văn Miếu ngâm và đọc một số bài thơ chống Mỹ-Diệm. [12]

‒ Ngày 22: báo Văn học  số 243:

Tiểu luận: Mai Hương (Chung quanh việc viết về đề tài nông thôn); Vũ Trọng (Mười năm phát triển của ngành điện ảnh Việt Nam);

trích tiểu thuyết: Thành Thế Vỹ (Chú học trò trường lục-sì);

thơ: Giang Nam, miền Nam gửi ra (Tiếng hát trên rừng cao), Chế Lan Viên (Đi trong hương chùa Hương), Nguyễn Nhã (Mía về; Qua nhà máy đường; Đường về; Đường về Đông Hiếu);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Phan Thị Hà (Cậu bé hàng xóm), Tây Thiên (Vua thủy tề), Lâm Quang Ngọc (Ông thủ kho);

văn thơ đả kích: Q. H. (‘Thế giới tự do có gì lạ’: Thần thánh không có giống), Phú Sơn (Trả đạn), Minh Nông Nguyễn Công Tiễu, Thu Hoài Vũ Kim Thành (Họa thơ mùa xuân phá ấp chiến lược);

Sổ tay văn nghệ: (Nhân vật điển hình, Đông Hoài, Xuân Tửu tìm và dịch);

Bạn đọc với tập thơ Xuân Diệu: Võ Văn Tống (“Mũi Cà Mau’, thơ đấu tranh thống nhất), Trương Hoàng Nguyễn (Đọc những bài thơ tình yêu gần đây của Xuân Diệu), Sơn Hà (Đọc tập ‘Mũi Cà Mau’);

Đọc sách: Bùi Ngọc Trác (Tập kịch ngắn ‘Bông mẫu đơn’, Nxb. Thanh niên);

Trao đổi: Vũ Tú Nam, Lưu Trọng Lư (Trả lời bạn đọc);

Ly Tao (Chuyện thơ, chuyện không thơ: Chỉ nhiệt tình không thôi không đủ);

Tư liệu: Trần Văn Giáp, Cao Huy Giu (‘Đồ Sơn bát vịnh’, thơ Hồ Xuân Hương?, tiếp);

Nguyễn Công Hoan (Ý kiến ngắn: Thế Chiến Quốc thế Xuân Thu)…

‒ Ngày 27: tại trụ sở Hội nhà văn họp mặt các cây bút phụ nữ viết văn tại thủ đô; ngót 30 cây bút tham dự; Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi nêu những việc Hội đang làm nhằm tạo điều kiện cho người sáng tác; những người tham dự nêu nguyện vọng được học tập, được giúp đỡ để sáng tác. [13]

‒ Ngày 29: báo Văn học số 244:

nhân 95 năm sinh Gorki: V. Lê-nin (Gorki, người đại biểu vĩ đại nhất của nghệ thuật vô sản, bản dịch Nxb. Sự thật), Lưu Quỳnh (Mấy mẩu chuyện về Gorki);

Tô Hoài (Viết về nông thôn hiện nay: Cuộc chiến đấu mới);

bút ký: Huyền Kiêu (Gặp gỡ những bạn dân chài); truyện ngắn Vũ Phạm Chánh (Đêm trăng rằm);

thơ: Bàn Tài Đoàn (Cùng nhau vùng dậy), Khánh Hữu (Đường Chạng Háy), Ngô Văn Phú (Cái chết của đồng chí bí thư chi bộ);

văn thơ đả kích: Đức Kiên (Thế giới tự do có gì lạ: Làm báo, nói láo ăn bơ sữa), Nam Hương, Đoàn Hân (Sóng vùi xương), Vĩnh Mai (Họa thơ mùa xuân phá ấp chiến lược);

Đọc sách: Nguyễn Thành Long (Vài nhận xét khi đọc ‘Con nhện vàng’ của Châu Diên), Thanh Trà (‘Nguyên vẹn’, tập thơ Phan Xuân Hạt);

Tư liệu: H.M.C. (Ngành thơ chúng ta…); (Nghệ thuật thơ, Xuân Tửu-Đông Hoài tìm và dịch);

Thơ: A. Jozsef (Bài thơ đầu; Những người theo chủ nghĩa xã hội; Người đẹp ngày xưa; Tháng 3 năm 1937, Tế Hanh dịch).

Trao đổi: Nguyễn Xuân Khoát, Tú Mỡ (Trả lời bạn đọc);

Nghệ thuật: Hoàng Ly (Xem phim ‘Chị Tư Hậu’);

‒ Trong tháng 3: tập san Nghiên cứu văn học  s. 3/63 (s. 39):

Nguyễn Phan Ngọc (Cách nhìn và vốn sống của Võ Huy Tâm trong ‘Những người thợ mỏ’);

Vũ Đức Phúc (Mấy nhận xét về quá trình phát triển của các khuynh hướng thuộc trào lưu văn học lãng mạn 1930-1945);

Như Phong (Suy nghĩ về công tác phê bình văn học);

Trần Thanh Mại (Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán?);

Hoàng Phê (Một số ý kiến về vấn đề thống nhất và tiêu chuẩn hóa tiếng Việt);

Việt Hùng (A.N. Tolstoi và bộ ba tiểu thuyết ‘Con đường đau khổ’);

Trao đổi ý kiến: Đặng Thanh Lê, Nguyễn Đức Dũng (Góp thêm một tiếng nói trong việc dánh giá ‘thơ Hồ Xuân Hương’);

Đọc sách: Đinh Khắc Thư (‘Máu người không phải nước lã’, truyện Stelmakh, bản dịch, Nxb. Văn hóa);

Sưu tầm: Ninh Viết Giao (Hịch văn thân chống Pháp);

(Bạn đọc góp ý kiến với Chu Thiên - bài trên NCVH s. 9/62 - về thơ của Dực Đình và Hiếu Khanh);

Sách mới: Cẩm Tâm (‘Con chó xấu xí’, tập truyện Kim Lân), Minh Hương (‘Vỡ tỉnh’, tập truyện và bút ký của Tô Hoài), Thành Duy (‘Hòn đá cõi’, tiểu thuyết của Thạch Giản-Đức Ánh, Tủ sách mùa đầu, Nxb. Văn học);

Sinh hoạt văn học: (Viện văn học đón tiếp các đồng chí bạn [Lajos Nije, nhà nghiên cứu Hugary, P. Abraham, nhà văn và nhà báo Pháp]).  

‒ Trong tháng 3: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 3/63:

truyện ngắn: Đỗ Chu (Hương cỏ mật), Nguyễn Văn Nhất (Người bạn chiến đấu), Xuân Thiều (Niềm tin);

ghi chép: Trúc Hà (Ở đâu);

thơ: Trinh Đường (Nghe tiếng trống xuân), Phạm Ngọc Cảnh (Hoa), Vũ Đình Minh (Gánh ngô), Thái Hà Hương (Người quả phụ Paris), Thanh Tịnh (Có những bước đi), Xuân Diệu (Nhân bề cao chia hai), Nguyễn Trọng Oánh (Họp đồng hương), Nguyễn Văn Dinh (Hàng dừa Trị Thiên), Minh Sơn (Qua đèo), Nguyễn Xuân Thâm (Rừng), Xuân Hoàng (Tiếng hát, trích truyện thơ);

truyện ngắn: Jiri Marek, 1914-94, Czech (Về làng, Dương Tất Từ dịch);

những đọan văn ngắn: Phạm Phát (Những chiến vỏ diêm), Hà Mậu Nhai (Gặp nhau), Xuân Đài (Người con gái), Nguyễn Minh Châu (Chữ);

ca dao: Nguyễn Ái Mộ, Tô Văn, Thùy Dương, Trần Biên;

độc tấu: Cảnh Trà (Câu chuyện bình thường); hò: Minh Châu (Nỗi lòng người vợ binh sĩ miền Nam);

Bình luận VN: Trần Độ (Lời phát biểu tại ĐHVNTQ lần 2), tổ văn VNQĐ (Nhìn qua sáng tác văn xuôi đã gửi tới dự thi viết về đề tài lực lượng vũ trang), Nhất Hiên (Từ tiểu thuyết ‘Một chuyện chép ở bệnh viện’ đến phim ‘Chị Tư Hậu’);   

Tháng 4:

‒ Ngày 5: báo Văn học số 245:

một số nhân sĩ trí thức Mỹ (Thư ngỏ gửi Tổng thống Kenedy đòi chấm dứt chiến tranh ở VN);

Đặng Thai Mai (Thư gửi những nhân sĩ trí thức đã gửi thư ngỏ đến tổng thống Kenedy đòi chấm dứt chiến tranh VN);

Hội VNGP miền Nam VN (Tuyên bố về việc Mỹ-Diệm rải chất độc hóa học xuống Bến Tre);

Thơ: Nguyễn Xuân Khánh (Đôi chim bồ câu; Em ngã; Một ngày vui), Vương Linh (Đường con nằm);

ca dao: Lê Nghĩa, chiến sĩ thi đua nông nghiệp;

truyện ngắn: Nguyễn Xuân Huy (Hai buổi chiều và một buổi sáng);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: Nguyễn Đỗ Phú (Chiếc máy bơm), Dương Thị Xuân Quý (Hai thùng nước gạo);

văn thơ đả kích: Đức Kiên (Thế giới tự do có gì lạ: Nghề này thì lấy ông này…), Búa Đanh, Nguyễn Tiến Thành, Xuân Tiên (Họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’);

Đọc sách: Bùi Minh Quốc (‘Tôi đến tôi yêu’, tập thơ Yến Lan), Đông Phong (‘Hồng Đức quốc âm thi tập’, Nxb. Văn hóa);

Thông tin: Đông Phong (Mấy nét về tiểu thuyết Trung Quốc 1961-1962);

‘Trao đổi’: Bùi Huy Phồn, Nguyễn Công Hoan (Trả lời bạn đọc);

thơ W. Broniewski (Kính chào cách mạng, Thanh Lê dịch);

nhân 100 năm sinh Stanislavski (Sổ tay của người nghệ sĩ sân khấu, Đỗ Đức dịch).

‒ Ngày 12: báo Văn học số 246:

Tường thuật: Huyền Kiêu (Các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu trò chuyện với một số anh chị em nhà văn sắp đi về nông thôn);

Thơ: Lê Xuân Dụ (Hoa xoan nở), Hoàng Minh Châu (Qua cơn ốm, con đã biết đi), Hằng Phương (Ngày xưa mẹ tôi đi học), Đào Xuân Quý (Một buổi chiều), Vũ Quần Phương (Tam Thanh; Qua đèo Ngang; Trăng ở nông trường thanh niên);

truyện ngắn: Nguyễn Mộng (Sức trẻ);

bút ký: Trần Vượng (Đường về khu Cháy);

văn thơ đả kích: Nguyên Hòa (Thế giới tự do có gì lạ: Gà kèm tên lửa), Học Giới (‘Đức thắng’ thành thất bại), Nghĩa Giang, Lão Nông, Trần Kích, Đặng Vũ Quý, Nguyễn Ngọc Bích (họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’);

Đọc sách: Phong Lê (‘Con chó xấu xí’, tập truyện Kim Lân), Hồng Tân (‘Một trận đánh kỳ lạ’, tập truyện Lâm Phương);

Trao đổi: Lưu Trọng Lư, Đỗ Nhuận (Trả lời bạn đọc);

Thơ: N. Guillen, Cuba (Dòng máu không ngừng chảy, Thúy Toàn dịch), P. Kha-lit (Vì nền tự do này, Thúy Toàn dịch), M. Navarro Luna (Người mẹ, Lưu Ngọc Tuyến dịch);

Thông tin: Lưu Quỳnh (‘Sau Marti là Fidel’).

‒ Kết quả cuộc thi thơ đả kích: họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’ của báo Văn học: 5 tặng phẩm chính cho các tác giả: 1/ Nghĩa Giang; 2/ Phú Sơn; 3/ Lão Nông; 4/ Nguyễn Ngọc Bích; 5/ Trần Kích; 3 tặng phẩm khuyến khích: 1/ Nguyễn Công Tiễu; 2/ Đặng Vũ Quý; 3/ Nam Hương và Đoàn Hân; ngoài ra còn có 2 tặng phẩm khuyên khích về nhiệt tình và cố gắng (Lão Lang, 80 tuổi ở Thái Bình; Nguyễn Thị Thanh, cấp dưỡng Tổng cục Bưu điện).[14]

‒ Báo Văn học  trao tặng phẩm cho những tác phẩm bút ký, mẩu chuyện đăng trên báo này từ tháng 7/1962 đến tháng 3/1963 (thứ tự a,b,c tên tác giả): 1/ Nhật ký người chăn vịt của Đăng Chương; 2/ Mái lều thợ khoan của Châu Diên; 3/ Bác Nghi của Nguyễn Đình Đại; 4/ Sức gái của Văn Ngọc; 5/ Buổi tập cuối cùng của Hoàng Thanh; 6/ Những luống cày mới của Nguyễn Thị Ngọc Tú.[15]

 

‒ Ngày 19: báo Văn học số 247:

bút ký: Nguyễn Tuân (Sơn La chạy tàu thủy trên sông Đà);

thơ: Hoàng Trung Thông (Chiều đến Bình Ca; Chào con suối; Trên võng tre), Xuân Hoàng (Nhớ Quách Xuân Kỳ), Nguyễn Xuân Sanh (Kéo đàn);

văn thơ đả kích: Đức Kiên (Thế giới tự do có gì lạ: Nhân nào quả nấy), Phú Sơn (Nghị Mỹ nêu danh), Quát và Giát (Ngẩn tò te);

Đồ Phồn (Mấy nét về cuộc họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’);

Tư liệu: Hải Đường sưu tầm (Vè nói láo, dân ca Quảng Nam);

Đọc sách: Nguyễn Thành Long (‘Đất nước’, tập truyện Mai Ngữ);

Sổ tay văn nghệ: Bàn về thơ (‘Thương lãng thi thoại’, Trần Hữu Thung trích dịch);

Trao đổi: Xuân Diệu (Trả lời bạn đọc);

Nghị luận: A. Chakovski (Tự do cho nhân dân, vì nhân dân);

Ký: E. Kazakevich (Lenin ở Razliv, Lưu Quỳnh dịch);

truyện: Carlo Montenegro, Cuba (Mười hai viên ngọc, Tử Kính dịch từ tiếng Nga);

thơ: Dan Desliu, Rumania (Nhớ lại; Lời ghi trên mặt hồ, Nguyễn Xuân Sanh dịch).

‒ Ngày 26: báo Văn học  s. 248:

Văn học (Bạn đọc thân mến [sau 5 năm với 248 số báo, báo ‘Văn học’, cũng như ‘Tạp chí Văn nghệ’, sẽ ngừng xuất bản; bài vở cộng tác viên đã gửi cho ‘Văn học’ sẽ được chuyển sang tuần báo ‘Văn nghệ’ ]);

Nghị luận: N. Khrutsev (Giữ vững quan điểm gia cấp trong nghệ thuật, trích bài nói 8/3/1963, Lưu Quỳnh dịch);

truyện ngắn: Xuân Sách (Tổ trinh sát tý hon);

thơ: Chế Lan Viên (Cuối năm), Xuân Diệu (Giọng nói), Phạm Hổ (Sáng ở lán khai hoang), Tế Hanh (Nói chuyện với người yêu về kế hoạch sáng tác), Đào Xuân Quý (Mẹ);

‘Người mới-Cuộc sống mới’: PhạmTuấn Hiền (Cô hàng mía);

Tư liệu: Trần Văn Giáp, Cao Huy Giu (Một bài thơ Nôm mới tìm thấy của Hồ Xuân Hương); Hải Đường (5 câu hát trữ tình của hò khoan Quảng Nam);

văn thơ đả kích: Khánh Toàn (Văn chiêu hồn…Mỹ), Nguyễn Đình (Dám xin hổ cái bớt gào), Đức Kiên (Thế giới tự do có gì lạ: Mã Giám Sinh của thế giới tự do);

Trao đổi: Học Phi, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư (Trả lời bạn đọc);

Đọc sách: Đỗ Quang Tiến (‘Hòn đá cõi’ tiểu thuyết của Thạch Giản-Đức Ánh), Hoàng Minh Châu (‘Tung còn và Suối đàn’ tập thơ của Nông Minh Châu và Triều Ân);

Nghệ thuật: Đỗ Nhuận (Đánh trống họp làng nhạc); Trọng Anh (Mấy ý kiến về vở cải lương ‘Chuyện cũ Cổ Loa’); Xuân Tửu-Đông Hoài (Lao động nghệ thuật, sưu tầm, trích dịch); Ngô Ái Mỹ (Tề Bạch Thạch, một họa sĩ lớn của Trung Quốc);

P.V. (Hai nhà văn Liên Xô Borodin và M. Tkachev đến thăm Hội nhà văn VN).  

 

 

‒ Trong tháng 4: Tạp chí Văn nghệ  s. 71:

Xuân Diệu (Mười lăm năm “Tạp chí Văn nghệ”);

bút ký: Xuân Trình (Cuộc chiến đấu khốc liệt);

truyện ngắn: Trần Vượng (Ông cháu người chăn vịt);

thơ: Trường Giang (Thư về xuôi), Lâm Quang Vinh (Bài ca Sơn La), Hoàng Trung Thông (Thác Bản Giốc), Anh Thơ (Chiều), Chế Lan Viên (Chùm nhỏ thơ yêu), Lưu Trùng Dương (Nhớ nhân dân);

Tiểu luận, phê bình: Lê Đình Kỵ (Bước đầu tìm hiểu phương pháp sáng tác “Truyện Kiều”); Nguyễn Huệ Chi (Nhân dân Tiên Điền đối với “Truyện Kiều”); Hữu Nhuận (Về thăm từ đường Nguyễn Khuyến); Lưu Trọng Lư (Nhân đọc một tập thơ tình của Xuân Diệu); Xuân Diệu (Thêm thơ nữa cho thơ thời đại chúng ta);  Tố Hữu (Văn nghệ phải trả lời những vấn đề của cuộc sống);

Đọc sách: Đào Xuân Quý (Cái cũ và cái mới trong thơ Nguyễn Bính);

M. H. (Những con người của thời đại); Nguyễn Văn Bỉnh (Một tập thơ nên có hay không nên có?);

truyện ngắn: S. Hi-mơ (Tự do kinh doanh);

Nghệ thuật: Công Vũ (Điểm qua các phim truyện của chúng ta); Nguyễn Văn Bảy (‘Chị Tư Hậu’, một thành công mới cuả điện ảnh Việt Nam); Hoàng Trung Nho (Bảy mươi năm trong nghệ thuật chèo); Giáng Hương (Triển lãm tranh tượng của phụ nữ); Chương Dương (Mấy nét về nghệ thuật xiếc Hungary);

BCH Hội LHVHNTVN và BCH Hội NVVN (Thông báo hợp nhất ‘Tạp chí Văn nghệ’ và tuần báo ‘Văn học’ thành một tờ tuần báo lớn lấy tên là ‘Văn nghệ’, cơ quan của các đoàn thể trong Hội LHVHNTVN; Hội đồng biên tập: Bảo Định Giang, Tế Hanh, Mai Văn Hiến, Lưu Trọng Lư, Đỗ Nhuận, Nguyễn Hồng Nghi, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên; chủ nhiệm: Nguyễn Đình Thi, thư ký tòa soạn: Hoàng Trung Thông; trụ sở 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội; xuất bản từ đầu tháng 5/1963)

‒ Trong tháng 4: tập san Nghiên cứu văn học s. 4/63 (s. 40):

Tố Hữu (Câu chuyện về thơ);

Phong Lê (Mấy nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn xuôi);

Trần Hữu Thung (Hào khí Đồng Nai);

Trần Nghĩa (Thử tìm hiểu về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi);

Đỗ Đức Dục (Sự kế thừa của chủ nghĩa hiện thực phê phán đối với chủ nghĩa lãng mạn trong văn học);

Hoa Lựu (Vấn đề ‘lấy xưa dùng nay’ trong kịch lịch sử của Quách Mạt Nhược);

Tư liệu tham khảo: B. Riurikov (Kinh nghiệm nghệ thuật và khoa học thẩm mỹ);

Trao đổi ý kiến: Đỗ Huy (Vấn đề phương pháp nghệ thuật), Trần Bảo (Một vài ý kiến về cuốn ‘Các phương pháp nghệ thuật’ của Lê Đình Kỵ); Vũ Ý Nhi (Cuốn ‘Các phương pháp nghệ thuật’ và phương pháp nghiên cứu lý luận văn học);

Đọc sách: Dương Tất Từ (‘Bài ca người thợ mỏ’, tiểu thuyết M. Maerova, Tiệp Khắc, bản dịch, Nxb. Văn hóa); Việt Hùng (‘Kỹ sư Lobanov’, truyện D. Granin, LX., bản dịch, Nxb. Văn hóa);

Sưu tầm: Tân Sinh, Phùng Duy Thế, Đặng Văn Uẩn (Thêm một số thơ trào phúng của Kép Trà và Phan Điện);  

‒ Trong tháng 4: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 4/63:

truyện ngắn: Trương Tuấn Uyển (Dằn vặt), Hữu Mai (Đồng chí Đại), Văn Đạt (Trăng lên), Nguyễn Trung Quyền (Người bạn cũ), Phạm Gia Thanh (Chị Nhàn), Nora Badia, Cuba (Ông già da đen Xê-nhen, Doãn Trung dịch qua Trung văn);

thơ: Dương Lân (Xuân), Hằng Phương (Giếng mới), Huyền Kiêu (Tặng nông trường chiến sĩ Khu Năm), Lương Sĩ Cầm (Lưng đèo), Sơn Hà (Lời bà nội), Cảnh Dương (Ban mai), Lê Văn Sửu (May quần cho con), Duyên Hải (Gửi đến anh), Hồng Chương (Chiến sĩ hải quân), Ninh (Chào các anh bạn quý của chúng tôi), Vân Đài (Ra đảo);

ca dao: Minh Lam, Phan Trọng Phương, Võ Quang Tịnh, Sĩ Hồng, Hữu Thỉnh;

độc tấu: Ngọc Điều (Chuyện cắt tóc);

sưu tầm: Xuân Tùng, Nguyễn Văn Dinh (Hò Trị Thiên);

những đoạn văn ngắn: Song Giang (Diễn tập trong sóng gió), (Tiếng hát), Sinh Chi (Chuẩn bị chiến đấu), Trần Thanh (Xuân về trên mặt biển);

Bùi Hiển (Nhật ký ghi trên mặt sóng);

tổ thơ VNQĐ (Qua thơ ca dự thi viết về đề tài lực lượng vũ trang cách mạng);

Nguyễn Đức Toàn (Nói chuyện âm nhạc: Dân ca);

Hồng Châu (Trang trí sân khấu của các đoàn văn công quân đội);

PV. (Tin văn nghệ);

Tháng 5:

‒ Ngày 3: tuần báo Văn nghệ số 1:

Văn nghệ (Cùng bạn đọc);

Xuân Tửu (Phỏng vấn nhạc sĩ Đỗ Nhuận: Vì tiền đồ của nền âm nhạc Việt Nam);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Lưu Quý Kỳ (Chuyển một lời chào đến người cầm bút);

‘Những áng văn hay’: tác phẩm dân gian Tày (Khảm hải, [Vượt biển], Hoàng Hạc sưu tầm và dịch);

bút ký: Nguyễn Tuân (Hoa thác dọc sông Đà), Nguyễn Trinh (Câu chuyện rơ-moóc);

truyện ngắn: Nguyễn Kiên (Người yêu ngày trước);

thơ: Giang Nam, miền Nam gửi ra (Đêm qua làng), Huy Cận (Nhật ký đi đường), Thế Mạc (Xòe);

tiểu luận: Lưu Trọng Lư (Lại nói về thơ tình);

Điểm sách: Hoàng Trung Thông (‘Rừng sâu’ của Nguyễn Xuân Khánh), Đào Xuân Quý (‘Thơ Attila Jozsef’, Tế Hanh giới thiệu và dịch), Trần Hữu Thung (‘Trung nghĩa ca’ của Đoàn Hữu Trưng; Đinh Xuân Lâm - Triêu Dương sưu tầm, giới thiệu);

Tìm hiểu văn học nghệ thuật: Phi Hoanh, Sĩ Ngọc (Tượng chân dung Ai-cập);

Mỹ thuật: Trần Văn Cẩn (Vài nét về họa sĩ Tô Ngọc Vân trong kháng chiến);

Sân khấu: Lưu Quang Thuận (Ngành sân khấu chuẩn bị đại hội lần thứ hai); Hi Chi (Sổ tay SK: Cái râu cái tóc);

Tô Vũ (Nguyễn Trãi với âm nhạc); PV (Ngành nhạc chuẩn bị đại hội lần thứ hai);

Lê Minh Hiền (Xây dựng con người trong phim hoạt họa);

Hòa Vang (Diễn viên sân khấu đóng phim);

Sông Trà (Ý kiến ngắn: Tác phẩm hay chức vụ?)  

văn thơ đả kích: Xích Điểu (Lô-gic con chó sói), Tú Mỡ (Nuốt nhục ăn tiền);

trào phúng nội bộ: Đồ Phồn (1.000 bát bún riêu).

‒ Ngày 10: tuần báo Văn nghệ số 2:

Phạm Văn Đồng (Hoạt động văn hóa, tác phẩm văn hóa phải là tấm gương phản chiếu hiện thực ngày nay ở miền Bắc,- trích báo cáo trước Quốc hội khóa 2 kỳ 6);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Hoàng Trung Thông (Nghị quyết Hội nghị TƯ lần thứ 8 và công tác văn nghệ);

bút ký: Chế Lan Viên (Chào mừng Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm nước ta: Sức mạnh và tình yêu);

Phê bình: Thành Thế Vỹ (Đọc “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – thế kỷ XVII”);

Điểm sách: Nguyễn Văn Niêm (‘Mật đắng gươm thiêng’, kịch Tào Ngu, Mai Thiên, Vu Thị Chi, bản dịch Hồ Lãng, Nxb. Văn hóa), Khương Minh Ngọc (‘Trên mảnh đất này’, tiểu thuyết Hoàng Văn Bổn, Nxb. QĐND), Tế Hanh (‘Dân ca miền Nam Trung Bộ’, Nxb. Văn hóa), Lưu Quỳnh (‘Những ngôi sao ban ngày’, bút ký Olga Bergholtz, bản dịch Phan Quang, Nxb. Văn học);

Trao đổi: nhạc sĩ Lê Yên (Trả lời bạn đọc);

Trần Văn Giàu (Một cuộc tranh luận ở Sài Gòn cuối năm 1962 về ‘vụ án Truyện Kiều’);

truyện ngắn: Đào Vũ (Kiện tướng về làng);

hồi ký: Tô Hoài (Người bạn đọc ấy);

thơ: Xuân Diệu (Trong rừng Quỳ Châu), Phạm Đức (Những em bé), Minh Huy (Vá ba-lô);

thơ: Trần Nghị, TQ. (Hồng mai; Mặt trăng; Tôi đọc; Bất giác, Hoàng Trung Thông dịch);

truyện ngắn: Chu Lập Ba, TQ. (Dân quân, Vân Hồ dịch).

Tìm hiểu VHNT: Nguyễn Văn Khỏa (Hô-me-rơ), trích Engels (Về Homere), Homere (Lời cầu xin của Priam, khúc ca XXIV, Phan Thị Miến dịch);

Trương Đình Quang (Vài nhận xét về ‘Dân ca soạn cho ghi-ta’ của Tạ Tấn), Như Ý (Tìm hiểu nhạc cụ dân tộc);

Vương Như Chiêm (Con người mới cuộc sống mới trong tranh tượng của ta gần đây);

Lưu Quang Thuận (Ngành sân khấu chuẩn bị ĐH lần 2);

Thu Hà (Xem phim ‘Kẻ hèn nhát’ của Tiệp Khắc);

văn thơ đả kích: Xích Điểu (Quỷ sa-tăng và báo sa-tăng), Nguyễn Đình (Mồm hỡi mồm), Phú Sơn (Hu hu);

trào phúng nội bộ: Thợ Rèn ();

‒ Ngày 17: tuần báo Văn nghệ số 3:

‘Tiếng nói chúng tôi’: Văn nghệ (Mài sắc hơn nữa ngòi bút của chúng ta);

‘Mừng chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm VN’: Trường Lưu (Như Hồng Hà – Dương Tử), thơ: Lưu Trọng Lư (Gửi chị), Khương Hữu Dụng (Gạo Trung Quốc);

Phê bình: Vũ Tú Nam (Đọc tập truyện ‘Một chặng đường’ của Nguyễn Khải);

Điểm sách: Thành Thế Vỹ (‘Vừa đi đường vừa kể chuyện’ của T. Lan, Nxb. Sự thật), Ngọc Anh (‘Truyện cổ Việt Bắc’, Nxb. Văn hóa), Nguyễn Đình (‘Rừng chông’, tập thơ đả kích Mỹ-Diệm, Nxb. Phổ thông), Nguyễn Thành Long (‘Những người phu đốn gỗ’, tiểu thuyết của Traven);

Nam Trân (Thơ xuân của Hồ Chủ tịch trong kháng chiến);

ghi chép: Trần Kim Thành (Hợi);

kịch: Học Phi (Lúa mùa thu);

thơ: Ngô Viết Dinh (Về quê Bác), Anh Thơ (Cô kỹ sư chăn cừu), Phạm Văn Thiết (Nhật ký trắc địa);

ca dao: Tân Trà, Nguyễn Trọng Báu;

văn thơ đả kích: Bút Chiến (Con ‘xì’ Mỹ trong ván bài Lào), Huyền Thanh (Văn tế cố vấn Mỹ toi mạng ở miền Nam);

‘Trao đổi’: Tế Hanh (Trả lời bạn đọc);

truyện: Rafael Aramian, LX. (Nhà họa sĩ và em bé gái, Nguyễn Văn Sĩ dịch);

P. Abranham (Suy nghĩ ở Nam Đàn, Đào Xuân Quý dịch);  

‘Tìm hiểu VHNT’: Hoàng Nguyễn (Dân ca Nga);

Xuân Tửu (Phải luyện tai mới hiểu hết cái hay của âm nhạc,- Tường thuật buổi nói chuyện của Nguyễn Xuân Khoát), Đỗ Nhuận (Bác Hồ nói về dân tộc tính trong âm nhạc), Hoàng Lộc (Giáo dục thưởng thức âm nhạc);

Chương Dương (Xem xiếc Trung Quốc);

Vân Long (Phòng tranh của nông dân);

Nguyễn Huy Hoàng (Con đường tiến của nghệ thuật nhiếp ảnh);

‒ Ngày 24: tuần báo Văn nghệ số 4:

Thế Lữ (Về đóng góp của nghệ thuật sân khấu VN, trích tham luận trước QH);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Lưu Hữu Phước (Vì đau hoa héo hon, vì đâu hoa nở rộ?);

Phê bình: Chế Lan Viên (Lướt qua những trang hợp tuyển), Hoài Thanh (Nghe lại tiếng nói của người xưa), Tế Hanh (Tôi đã đi 20 năm để gặp tâm hồn đất nước tổ tiên);

Điểm sách: Đào Xuân Quý (‘Cô gái Phú Yên’, trường ca Nguyên Hồ, Nxb. Phổ thông), Hoàng Minh Châu (‘Bạch Đằng tráng khúc’ trường ca Trinh Đường, Sở VH Hồng Quảng xb.), Hồ Ngọc (‘Máu người không phải nước lã’, tiểu thuyết Stelmakh);

‘Trao đổi’: Nguyễn Công Hoan (Trả lời bạn đọc);

bút ký: Nhất Hiên (Cây liễu trong bệnh viện), Vũ Như (Thuyền trưởng);

truyện ngắn: Trần Vượng (Chuyện cụ Tư Chuôm với người vợ kế);

thơ: Nguyễn Xuân Thâm (Đáy cá đêm), Lương An (Năm tấn), Huy Cận (Nghe con thở);

ca dao khai hoang: Minh Hiệu;

văn thơ đả kích: Tư Chống (Nhân vụ Diệm bắn vào đồng bào Phật giáo ở Huế), Tú Mỡ (Chiêu hồi);

chùm thơ Á-Phi: Ai-đích, chủ tịch ĐCS Indonesia (Con đường duy nhất, Hoàng Trung Thông dịch qua Trung văn), A.V. An-ba-za-ti, Iraq (Bọn bồi bút, Tế Hanh dịch), Cát Trung Kim Thứ, Nhật (Viếng Tiêu Tử bị chết cháy, Lê Huy Tiêu, Trần Hữu Thung dịch qua Trung văn), Jean Sénac, Algérie (Không cho con vật lại trồi lên, Đào Xuân Quý dịch), David Diop, Senegan (Kẻ mất hết, Hoàng Minh Châu dịch), Semben Ousman (Tự do, Nguyễn Viết Lãm dịch);

‘Tìm hiểu VHNT’: Dương Bản (Những bước đầu của điện ảnh), Gorki (Với điện ảnh);

Hoàng Lộc (Hưởng ứng ĐH nhạc sĩ), Văn Ký (Những bài hát đáng yêu);

Trường Lưu (Kịch dân ca phát triển đúng hướng);

Ngô Huy Quỳnh (Những bài học về nền kiến trúc dân tộc);

Hàng Châu (‘Hưng Yên nước bạc cơm vàng’, phim phóng sự của Xưởng phim Thời sự tài liệu VN),

PV. (Diễn viên sân khấu và đóng phim có gì khác nhau?).

‒ Ngày 31: tuần báo Văn nghệ số 5:

Nguyễn Đình Thi (Mấy đề nghị về công tác văn nghệ, tham luận tại kỳ họp 6 QH khóa 2);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Huy Cận (Văn nghệ với sự giáo dục toàn diện cho thiếu nhi);

‘Phê bình’: Tô Hoài (Thơ cho các em);

Điểm sách: Phạm Hổ (‘Bên đồn địch’, truyện Bùi Hiển, Nxb. Kim Đồng), Ngô Văn Phú (‘Đưa trâu qua sông’, truyện Trần Thanh Địch, Nxb. Kim Đồng), Thanh Lê (‘Những người công dân’, tiểu thuyết, K. Brandys, Ba Lan), Xuân Trình (‘Chuyện làng’ tập bút ký, phóng sự của Hoài An, Nxb. Văn học);

Trọng Anh (Nghệ sĩ miền Nam dưới ách Mỹ-Diệm);

‘Trao đổi’: Đỗ Nhuận (Trả lời bạn đọc);

Thơ: Xuân Diệu (Bác đi xa, cháu nhớ ghê), Phạm Hổ (Hai tuổi thơ, một tình bạn đẹp), Nguyễn Quang Nguyên (Chiêm bao);

ca dao: Nguyễn Huy Kính;

truyện ngắn: Nguyên Hồng (Chuyện cái xóm tha hương ở cửa rừng Suối Cát và con hùm con bồ côi), Tạ Lục (Xót ruột), Sỹ Hồng (Thay cáp), Kim Bằng Sanh (Hai cuộc đời);

‘Tìm hiểu VHNT’: Phi Hoanh (Tượng người ném đĩa và tượng vệ nữ ở Mi-lô);

Ngô Huỳnh (Nhân bàn về âm nhạc trong phim hoạt họa búp bê), Tô Hải (Nâng cao chất lượng bài hát cho thiếu nhi);

Lưu Quang Thuận (Kịch nói: mũi nhọn đi vào cuộc sống), Mai Thu (Sổ tay sân khấu: Màn không mở);

Trương Qua (Vẽ nhiều tranh có tác dụng giáo dục tốt cho thiếu nhi);

Trung Sơn (Xung đột giữa cái mới và cái cũ trong phim ‘Cuộc chiến đấu đang tiếp diễn’),

Hồng Lực (Trao đổi ý kiến: Đưa ‘người thực việc thực’ vào phim truyện).

‒ Trong tháng 5: tập san Nghiên cứu văn học số 5/63 (s. 41):

Hồng Chương (Một tài liệu lịch sử: Đề cương tác phẩm ‘Nhật ký chìm tàu’ của Hồ Chủ tịch);

Hoàng Như Mai (Hồ Chủ tịch nói về văn nghệ);

Phan Thiều (Tính chất anh hùng ca trong tập thơ ‘Gió lộng’);

Tảo Trang (Đọc ‘Lược truyện các tác gia Việt Nam. Tập I: Các tác gia sách Hán – Nôm’);

Cao Huy Đỉnh (Bước đầu tìm hiểu quá trình Việt hóa những yếu tố văn hóa từ Nam Á qua một số truyện cổ);

La Côn (‘Odysée’, tiếng hát ca ngợi cuộc sống);

Hồ Lê (Vấn đề câu què và câu rút gọn trong tiếng Việt);

‘Trao đổi ý kiến’: Lê Bá Hán-Hà Minh Đức (Về cuốn ‘Các phương pháp nghệ thuật’ của Lê Đình Kỵ), Thành Duy (Về cái gọi là ‘mâu thuẫn giữa thế giới quan và sáng tác’ và thuyết ‘tính người phổ biến’);

Sưu tầm: Trần Nghĩa (Bài vè đấu tranh của công nhân mỏ Cẩm Phả, tháng 11/1936);

‒ Trong tháng 5: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 5/63:

truyện ngắn: Hồ Phương (Bên bếp lửa), Nguyễn Khải (Hãy đi xa hơn nữa), Trịnh Xuân Ngỗi (Quê hương);

thơ: Thanh Tịnh (Qua sông Dương Tử), Xuân Sách (Tình Việt -Trung), Xuân Thiều (Giữa rừng), Hà Bắc (Về Mường Pồn), Hoàng Hưng (Tiếng hát người chăn bò), Phạm Thành (Nhớ anh), Đào Ngọc Chung (Câu chuyện mùa xuân), Hoàng Trung Thông (Tôi cầm đá này về), Anh Thơ (Hoa chanh trên hải đảo), Xuân Miễn (Thăm đảo), Trần Cư (Tiếng gà), Phạm Ngọc Cảnh (Bến tre);

ca dao: Nguyễn Nguyễn, Phan Nam Hải, Lý Biên Cương, Thuận Hóa, Nguyễn Văn Mệnh, Duy Thảo;

những đoạn văn ngắn: Thanh Tịnh (Lễ sinh nhật của nguồn vui chung), Chu Phác (Trong chiến hào Điện Biên Phủ), Lê Đình Dư (Niềm vui);

độc tấu: Hoàng Anh Nhân (Câu chuyện trồng đào);

Sưu tầm: Trần Nguyên Đào (Hò miền Trung);

Bình luận VN: Hồ Nhị Quang (Tìm hiểu mỹ học Mác-Lênin: Nhu cầu thẩm mỹ); Lữ Huy Nguyên (Đọc ‘Sớm nay’, tập thơ Vũ Cao);

Tháng 6:

‒ Ngày 7: tuần báo Văn nghệ số 6:

Nghị luận: Lưu Quang Thành (Châu Phi hôm qua và hôm nay);

điểm sách: Trọng Đức (‘Làm gì?’ của Tchernyshevsky, một cuốn tiểu thuyết của hành động), Thành Thế Vỹ (‘Kiến văn tiểu lục’ của Lê Quý Đôn), Ngô Văn Phú (‘Dòng nhật ký đầu tiên’, nhiều tác giả, Nxb. Thanh niên), Hà Thiên Bảo (‘Hải Âu’, tiểu thuyết của Biriukov, Nxb. Thanh niên), Văn Ngọc (‘Hoa thiên lý’, tập bút ký Nguyễn Trí Tình, Nxb. Phụ nữ);

‘Trao đổi’: Phạm Hổ (Trả lời bạn đọc);

Thơ: Hoàng Văn Sau (Đón đồng bào lên khai hoang, Bàn Tài Đoàn dịch), Tế Hanh (Hoa ‘đừng quên em’; Mặt quê hương), Sỹ Hồng (Chiều), Giang Bích Giảng (Trở lại Mường Tè);

tiểu thuyết: Nguyễn Công Hoan (Đống rác cũ, trích);

mẩu chuyện: Nguyễn Thế Truyền (Cứu lò), Văn Giang (Cô Hải Văn);

tiểu luận: K. Fedin (Nói với các nhà văn, bạn đường của tôi, Lưu Quỳnh dịch);

truyện ngắn: E. Caldwell, Mỹ (Cái chết của Cơ-ri-xti Tắc-cơ, Phan Lộc dịch);

‘Tìm hiểu khoa học’: Nguyễn Lân Dũng (Thế giới không nhìn thấy của sự sống);

 ‘Tìm hiểu VHNT’: Nguyễn Văn Khỏa (‘Ô-đi-xê’), Homere (Ulyse trả lời tiên nữ Calypso, Vũ Minh dịch);

Đỗ Nhuận (Bàn về nhạc giao hưởng của ta);

Trần Bảng (Một vài ý kiến về vai hề trong chèo), Anh Pha (Sổ tay sân khấu: Thanh kiếm ‘trấn Việt’);

Nguyễn Văn Mười (Nhà danh họa Pháp Delacroix);

Nguyễn Trinh (Tình người và trách nhiệm: Xem phim ‘Những đứa con của người khác’).

‒ Ngày 13: báo “Lao động” s. 1223, tr. 3: Lê Ngải (Vài ý kiến sau khi đọc cuốn “Vào đời” của Hà Minh Tuân, Nxb. Văn học) [đây là bài mở đầu đợt phê phán tiểu thuyết của Hà Minh Tuân: “Vào đời”, Nxb. Văn học, 1963]  

 

‒ Ngày 14: tuần báo Văn nghệ  s. 7:

Văn nghệ (Đại hội lần thứ 2 của các nhạc sĩ Việt Nam);

Lưu Hữu Phước (Những nhiệm vụ của âm nhạc trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, trích báo cáo của BCH Hội nhạc sĩ VN trước ĐH);

Phê bình: Đông Hoài (‘Dao có mài mới sắc’, tập tiểu luận, Xuân Diệu);

Điểm sách: Phong Lê (‘Đồng đội’, tập truyện Hữu Mai, Nxb. QĐND), Trần Thanh Địch (‘Vừ A Dính’, truyện Tô Hoài, Nxb. Kim Đồng), Khương Minh Ngọc (‘Căn cứ nguyên tử’, truyện, Halldor Laxness, Nxb. Văn học);

tiểu thuyết: Nguyễn Công Hoan (Đống rác cũ, trích, tiếp);

truyện ngắn: Vũ Thị Thường (Cái đĩ con), Xuân Trình (Thần giáo già);

thơ: Hoàng Trung Thông (Gửi về Thái Thủy), Phạm Công Cam (Tình yêu), Thái Giang (Nhớ), Tân Trà (Chiều Cổ Loa), Giang Phương (Để lại);

ca dao: Kỳ Xuân, Dư Văn Nghi;

thơ Tây Ban Nha (Chế Lan Viên giới thiệu và dịch): Raphael Alberti (Ca khúc cho những người Andaluz ngày nay), Ramon Garciason (Xon-nê), Jesus Lopez Pachero (Bàn tay đặt lên Tây Ban Nha), Carlos Baral (Người ra giữa biển), Blas de Otero (Vẫn còn);

Xuân Diệu (Vĩnh biệt Nazim Hikmet);

‘Tìm hiểu VHNT’: Sỹ Ngọc (Kim tự tháp Ai Cập);

tham luận tại ĐH Hội nhạc sĩ: Nguyễn Đức Toàn (Làm thế nào để phản ánh một cách chân thực cuộc sống và con người mới trong âm nhạc), Y Yơn (Ước mơ), Sùng Thị Mai (Nhờ có sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí), Trọng Loan (Sáng tác nhiều bài hát hay cho quần chúng hát);

Hồ Lãng (Vấn đề chuyển thể qua một số tiết mục cải lương), Mộng Đức (Vắng mặt kịch thơ);

Trung Sơn (Truyện Sholokhov lên màn ảnh: ‘Chú bé bướng bỉnh’); Nông Ích Đạt, Vũ Phạm Từ (Diễn viên đóng vai Kim Đồng);

‒ Ngày 21: Nhà xuất bản Văn học thông báo: từ 01/7/1963, Nxb. Văn hóa (Viện Văn học) và Nxb. Văn học (Hội nhà văn VN) sẽ hợp nhất thành một nhà xuất bản lớn lấy tên là Nhà xuất bản Văn học thuộc Hội nhà văn VN, chuyên xuất bản những sáng tác mới trong nước, những tác phẩm văn học cổ điển và dân gian VN, những tác phẩm chọn lọc của văn học thế giới, những sách lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học. Trụ sở Nxb. Văn học (mới) đặt tại 49 Trần Hưng Đạo, Hà Nội.[16]

‒ Ngày 21: tuần báo Văn nghệ số 8:

Nghị luận: Trần Hiếu Minh, phó chủ tịch Hội VNGP MNVN (Ra sức xây dựng một nền văn nghệ yêu nước, dân chủ và lành mạnh ở miền Nam VN); Nguyễn Nhất (Chính sách chia rẽ, lợi dụng, đàn áp tôn giáo của Mỹ-Diệm ở miền Nam); Lưu Trọng Lư (Hãy cắn chặt hàm răng);

Phê bình: Hoàng Trung Nho (Một tác phẩm nâng cao người đọc,- về “Nhà trên quảng trường”, tiểu thuyết, E. Kazakevich, bản dịch Nguyên Bình, Nxb. Ngoại ngữ Moskva, 1963);

Điểm sách: Trường Lưu (‘Mỹ học là gì?’ của Kriviski, bản dịch, Nxb. Văn hóa-nghệ thuật), Xuân Trình (‘Điện giật’, kịch Hoài Giao, ‘Chiếc đồng hồ báo thức’, tập kịch Phạm Mai-Nguyễn Hùng, Nxb. Phổ thông), Tuấn Chi (‘Vào đời’, tiểu thuyết Hà Minh Tuân, Nxb. Văn học), Đỗ Đức Thuật (‘Tổ ong’, tập truyện Ana Seghers);

tiểu thuyết: Nguyễn Công Hoan (Đống rác cũ, trích, tiếp);

truyện ngắn: Bùi Hiển (Gió khua đồi cọ);

thơ: Huyền Kiêu (Ông lão và cành cam), Đỗ Thu (Hỏi em), Đào Xuân Quý (Ngủ ngoài trời);

ca dao: Vũ Đức Minh, Anh Hà-Trần Hậu Tân, Nguyễn Văn Dinh;

ký sự: Nhật Tỉnh (Ngọn lửa), Vương Trung (Hoa trong men);

‘Trao đổi’: Đinh Đăng Định (Trả lời bạn đọc);

Nguyễn Công Hoan (Nhân bài ‘Một cuộc tranh luận cuối năm 1962 ở Sài Gòn về ‘vụ án Truyện Kiều’);

‘Tìm hiểu VHNT’: Phi Hoanh (Điêu khắc Pác-tê-nông, Hy Lạp);

Đỗ Nhuận (Chúng ta phải là những chiến sĩ trên mặt trận âm nhạc, diễn văn bế mạc ĐH nhạc sĩ lần 2),

Trúc Mai (ĐH lần 2 các nhạc sĩ VN đã thành công tốt đẹp);

Nguyễn Văn Y (Tìm hiểu nghệ thuật trang sức bằng đá của VN);

Phạm Văn Khoa (Phần văn học trong điện ảnh);

Juri Gagarin (Chúc thành công và may mắn, phát biểu tại Đại hội các nhà văn trẻ LX. lần 4, M.H. dịch).

‒ Ngày 23: báo “Cứu quốc”, s.  3125, tr. 5: Nguyễn Xuân Bình (Chúng tôi không tán thành “cặp mắt” của ông Hà Minh Tuân trong cuốn “Vào đời”);

‒ Ngày 26: báo “Tiền phong” s. 1054, tr. 3, 4: Thanh Bình (“Vào đời”, một tác phẩm rất xấu);

‒ Ngày 27: báo “Thời mới”, s. 3125, tr. 2: Trọng Khiêm (Đọc sách: “Vào đời” của Hà Minh Tuân, Nxb. Văn học);

‒ Ngày 28: tuần báo Văn nghệ số 9:

ĐH nhạc sĩ lần 2 (Thư gửi các anh chị em làm nghệ thuật âm nhạc ở miền Nam);

Phạm Văn Đồng (Đảng và nhân dân đòi hỏi nghệ sĩ phải có tâm hồn người chiến sĩ cách mạng, bài nói tại ĐH nhạc sĩ);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Vũ Tú Nam (Đằng sau những con số ‘khô khan’), Hoàng Vân (Còn gì đẹp hơn), Trần Đức Hinh (Bắt rễ sâu hơn nữa vào cuộc sống);

Phê bình: Trần Hữu Thung (Cách nhìn và thái độ đối với cuộc sống qua cuốn ‘Vào đời’);

Điểm sách: Hoàng Minh Châu (‘Tình nguyện’, tập thơ Lưu Trùng Dương), Vân Hồ (‘Danh nhân 702’, kịch A. Midan, Rumania, bản dịch, Nxb. Văn học), Lưu Quang Thuận (‘Thói cũ’, kịch Trần Vượng, Nxb. Văn học), Triêu Dương (‘Bài ca sư phạm’ của Makarenko, Nxb. Văn hóa);

tiểu thuyết: Nguyễn Công Hoan (Đống rác cũ, trích, tiếp);

4 truyện ngắn: A. Chekhov (Đứa dê cụ hay thằng vô lại, Nguyễn Phúc Vinh dịch), Nguyễn Công Hoan (Không không không không), Tudor Arghezi, Rumania (Chú mèo, Nguyễn Văn Sĩ dịch), Người Xây Dựng (Không có khăn đỏ, rút từ báo Thủ đô Hà Nội);

bút ký: Nguyễn Khắc Viện (Paris – Hà Nội);

thơ: Nông Quốc Chấn (Rồng; Lửa sẽ bùng lên khắp mọi nơi), Anh Thơ (Tặng Valentina, nữ phi công vũ trụ đầu tiên), Trường Giang (Đồng chiêm);

Trao đổi: Mai Văn Hiến (Trả lời bạn đọc);

Tìm hiểu VHNT: (Mấy nét về đời sống văn hóa ở Triều Tiên: Bộ từ điển Triều Tiên; Thư viện ở Triều Tiên);

Trúc Mai (Giới sân khấu thảo luận vấn đề miêu tả sâu sắc con người mới: ý kiến Thế Lữ, Song Kim, Lưu Trọng Lư, Trúc Quỳnh, Ngọc Bạch);

Mai Nguyên (Hai phòng tranh của thiếu nhi), Phi Hoanh (Phòng tranh của lao động thủ đô).

‒ Ngày 28: Báo “Tiền phong”, s. 1055, tr. 3, 4: Đ.V.N. (“Vào đời” đã miêu tả lao động của thanh niên một cách tiêu cực và phiến diện); tr. 3, 2: Nguyễn Xuân Bình (Ý kiến của một người cha: Chúng tôi không tán thành “cặp mắt” của ông Hà Minh Tuân trong cuốn “Vào đời”; ghi chú chân trang: Bài đã đăng báo “Cứu quốc” số ra ngày 23.6.1963);

‒ Ngày 29: báo “Nhân dân”, s. 3380, tr. 3: Minh Tâm (“Vào đời”, một cuốn tiểu thuyết có hại); [người viết ký Minh Tâm có thể là Như Phong]

‒ Ngày 29: báo “Quân đội nhân dân” s. 1221, tr. 4: Lê Lương Nghĩa & Dân Hồng (Đọc “Vào đời” của Hà Minh Tuân, Nxb. Văn học);

‒ Ngày 29: Báo “Thủ đô Hà Nội”, s.1455, tr. 3: Lê Hồng Mai (Một cuốn sách lạc hậu và nhiễm độc); [viết về cuốn truyện “Vào đời”]

‒ Ngày 30: báo “Tiền phong”, s. 1056: tr. 3: Tuổi vào đời đọc cuốn “Vào đời”: Đặng Minh Hân, Nghĩa Đàn, Nghệ An (Cái xấu choán cái tốt, bóng đen trùm lên ánh sáng trong tác phẩm “Vào đời”); Nguyễn Việt Hùng, hòm thư 5856, Hà nội (Tác phẩm “Vào đời” trái ngược hẳn với cuộc sống lành mạnh, tươi vui của chúng tôi);

‒ Ngày 30: báo “Cứu quốc” s. 3126, tr. 13: Nguyễn Bắc (Nhân đọc “Vào đời” của Hà Minh Tuân: Một bức tranh về Hà Nội và cách nhìn của chúng ta); [Nguyễn Bắc lúc này là giám đốc sở văn hóa Tp. Hà Nội]

‒ Trong tháng 6: tập san Nghiên cứu văn học số 6/63 (s. 42):

Nguyễn Minh Cương (Mấy suy nghĩ về vấn đề điển hình trong thể ký);

Triêu Dương (‘Một chặng đường’ của Nguyễn Khải);

Nguyễn Phan Ngọc (Nguyễn Khải với ‘Một chặng đường’);

Vân Thanh (Thơ viết cho thiếu nhi gần đây);

Trần Thanh Mại (Bảy thế kỷ văn học chữ viết Việt Nam);

Đặng Thế Bính (Shakespeare, con người của mọi thời đại);

Nguyễn Năm (Tìm hiểu thời kỳ hình thành của thơ Trung Quốc);

Vũ Đức Phúc (Ông Nguyễn Đức Bính và thơ Hồ Xuân Hương);

Nguyễn Lân (Góp ý kiến về vấn đề xây dựng quy tắc viết hoa);

Từ Lâm (Một số ý kiến về quy tắc viết hoa);

Bùi Văn Nguyên (Về mấy câu thơ đối đáp giữa sư Thuận và sứ nhà Tống Lý Giác);

Đọc sách: Lê Vĩnh (‘Làm gì?’ của Chernyshevski, bản dịch, Nxb. Văn hóa), Vũ Tuấn (‘Tổ ong’, tập truyện, Anna Seghers, bản dịch, Nxb. Văn học);

NCVH (Tọa đàm về Nguyễn Đình Chiểu);

NCVH (Thông báo từ tháng 7/1963 chuyển đổi tập san ‘Nghiên cứu văn học’ thành ‘TẠP CHÍ VĂN HỌC’, cơ quan lý luận, phê bình, nghiên cứu, giới thiệu văn học của Viện văn học, chủ nhiệm Đặng Thai Mai, thư ký tòa soạn Hoài Thanh).

‒ Trong tháng 6: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 6/63:

truyện ngắn: Nguyễn Minh Châu (Trên vùng đất sỏi), An-đô Ga-bô, Hungary (Trên bãi chiến trường cũ, Nguyễn Kim Dực dịch từ Pháp văn), Nguyễn Kiên (Vực thẳm), Đỗ Chu (Trong thung lũng cò);

ghi chép: Đinh Lăng (Một chuyến tàu);

thơ: Hàng Anh Trúc (Bé ơi), Vũ Ngọc Bình (Chú đèn biển; Cái tổ chim), Hàn Ly Đáng (Những vì sao của chị), Nguyễn Xuân Thâm (Sông Mã Hàm Rồng), Trúc Thông (Qua thao trường cũ), Giang Tâm (Trên xe mía), Cầm Giang (Vùng địch), Thanh Tịnh (Sông Hương dậy sóng);

ca dao: Hoài Giao, Lê Tuấn, Văn Hênh, Lê Đình Dư;

những đoạn văn ngắn: Thang Sắc (Qua đường), Xuân Sách (Mùa đông), C.P. (Tiếng hát);

Bình luận VN: Hồ Nhị Quang (Tìm hiểu mỹ học Mác-Lênin: Cái đẹp và cuộc sống); Nhị Ca (Đọc ‘Năm lần vượt biển’); Nguyễn Đức Toàn (Nói chuyện âm nhạc);

Tháng 7:

‒ Ngày 3: buổi tối, tại trụ sở Hội nhà văn VN, một số nhà văn, trong đó có Nguyễn Tuân, Kim Lân, Huyền Kiêu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Vũ Tú Nam, Bùi Hiển, Thành Thế Vỹ, v.v… đã họp để góp ý phê phán cuốn ‘Vào đời’. Sau khi nghe tác giả trình bày, các nhà văn nói trên đã phê phán những tư tưởng sai lầm nghiêm trọng của cuốn truyện. [17]

‒ Ngày 3: báo “Tiền phong”, s. 1057, tr. 3: Nguyễn Bình, nhà máy cơ khí Hà nội (Ý kiến của thanh niên công nhân nhà máy cơ khí Hà Nội: Hà Minh Tuân đã mô tả lệch lạc bước vào đời của chúng tôi);

‒ Ngày 5: tuần báo Văn nghệ số 10:

‘Tiếng nói chúng tôi’: Lưu Quý Kỳ (20 tháng 7 sắp đến);

Khương Minh Ngọc (Ta phải chống Mỹ và ta thắng được Mỹ: hai đề tài chính về công tác tư tưởng hiện nay, tường thuật buổi nói chuyện của trưởng ban thống nhất TƯ Nguyễn Văn Vịnh, bí thư TƯ Đảng Tố Hữu với 70 văn nghệ sĩ tại trụ sở Hội LHVHNTVN);

kỷ niệm 75 năm mất Nguyễn Đình Chiểu: Bảo Định Giang (Một tấm gương yêu nước lớn, một nhà thơ lớn), thơ Nguyễn Đình Chiểu (Chạy giặc; Ngựa Tiêu Sương; Điếu Trương Định; Điếu Phan Tòng; Ông quán);

Trần Văn Giàu (Nhân nghĩa trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu);

Thơ: Xuân Diệu (Khúc hát tình yêu và đất nước), Tế Hanh (Cái giếng đầu làng), Đỗ Tĩnh (Văn công ra đảo), Lê Đại Thanh (Thôn Đông Lương);

truyện ngắn: Văn Ngữ (Hạnh phúc người khác);

‘Trao đổi’: Vũ Tú Nam (Trả lời bạn đọc);

Nguyễn Đình Thi (Cần phê bình rất nghiêm khắc quyển truyện ‘Vào đời’);

Ban biên tập Nxb Văn học cũ (Tự phê bình về việc biên tập cuốn ‘Vào đời’);

Thông tin: Thép Mới (Gặp một nhà văn Indonesia), Pramoedya Anata Toer, Indonesia (Gửi các đồng chí và các bạn VN);

Đòn bút: Phú Sơn (Hổ giấy… hổ rơm);

tiểu thuyết: Ba Kim, TQ. (Gia đình, Lê Sơn Hinh, Bùi Hạnh Cẩn dịch);

thơ: Thôi Diên Hoa, Triều Tiên (Hơi thở Đảng, Trần Hữu Thung dịch qua Trung văn), Trô Xi Kun, Triều Tiên (Núi sông ba nghìn dặm);

Lê Thanh Đức (Xem tranh của Vasily Zachinjaev);

Trần Đức Hinh (Tăng cường mặt trận điện ảnh XHCN);

Xuân Trình (Bàn về phong cách dựng vở ‘Chết trước rạng đông’);

‒ Ngày 5: báo “Thống nhất” s. 315, tr. 14: Phạm Hữu Tùng (Đọc sách: “Vào đời” của Hà Minh Tuân);

‒ Ngày 6: Hội nghị Ban thường vụ Hội nhà văn. Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi báo cáo tình hình các nhà văn đi vào thực tế và học Nghị quyết 8 của TƯ Đảng; báo cáo về tình hình trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ. Chế Lan Viên báo cáo việc thâm gia ý kiến với Bộ giáo dục về các văn tuyển; hội nghị đã cử Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Xuân Diệu tham gia đọc các sách văn tuyển dùng trong nhà trường để làm một báo cáo. Hoàng Trung Thông, giám đốc Nxb. Văn học (cũ) trình bày trường hợp xb cuốn “Vào đời”. Sau khi nêu những thiếu sót của các biên tập viên và các thành viên Ban giám đốc, Hoàng Trung Thông đã tự phê bình vì thiếu kiểm tra nên cuốn sách đã không được  giám đốc NXB duyệt trước khi xuất bản. Ban Thường vụ Hội đã phê bình nghiêm khắc khuyết điểm của Nxb. Văn học (cũ) và đặt vấn đề rút kinh nghiệm để cải tiến lề lối làm việc của Ban biên tập cho chặt chẽ. Hội nghị đã bàn việc hợp nhất hai Nxb. Văn hóa và Nxb. Văn học và việc kiện toàn Ban biên tập của Nxb. Văn học mới.[18a]

‒ Ngày 6: báo “Lao động” s. 1223, tr. 2: Ngọc Lộc, công nhân nhà máy cơ khí Hà Nội (Tiểu thuyết “Vào đời” đã bôi nhọ sự thật trong các nhà máy công trường);

‒ Ngày 7: báo “Cứu quốc” s. 3127, tr. 13: Phùng Bảo Kim (Không! Chúng ta không vào đời như vậy!);

‒ Ngày 9: báo “Quân đội nhân dân” s. 1225, tr. 3: Nguyễn Thiều & Võ Xuân Viên (“Vào đời” của Hà Minh Tuân đã xuyên tạc bản chất truyền thống của quân đội);

‒ Ngày 9: báo “Lao động”, s. 1234, tr. 3: Đặng Chính, công đoàn nhà máy tơ Nam Định (Bàn thêm với Hà Minh Tuân, tác giả “Vào đời”: Cần phải đánh bại những loại tư tưởng ngược dòng ấy!);

‒ Ngày 12: tuần báo Văn nghệ số 11:

xã luận (Nâng cao hơn nữa tính đảng trong văn nghệ); [về nhiệm vụ phê phán cuốn “Vào đời”]

Huỳnh Văn Tiểng (Miền Nam trong lòng Hồ Chủ tịch);

Trường Lưu (Khí thế mới trong nền văn học cách mạng ở miền Nam);

Phê bình: Hoàng Trung Thông (Tư tưởng sai lầm nguy hại của cuốn truyện ‘Vào đời’);

Điểm sách: Ngô Văn Phú (‘Sống giữa những người anh hùng’ t. 1, Nxb. Thanh niên), Nguyễn Kiên (‘Sương tan’, tập truyện Hoàng Tiến, Nxb. Văn học);

trích tiểu thuyết: Nguyễn Quang Sáng (Đất lửa);

truyện ngắn: Đỗ Quảng (Bà mẹ miền Bắc);

bút ký: Nguyễn Gia Nùng (Đường dốc núi);

thơ: Vương Linh (Cơn đau), Vĩnh Mai (Bài thơ thống nhất), Minh Hoài (Xem tranh của nông dân Sơn Tây), Xuân Hoàng (Hải đăng), Vương Trung (Tiếng khèn lá đào);

Lê Phát (Tuổi nhỏ nhưng căm thù lớn), Phạm Thanh Tâm (Lớp vẽ đầu tiên của quân đội);

‘Tìm hiểu VHNT’: Hạnh Quang (Sân khấu cổ đại Hy Lạp); Nguyễn Xuân Khoát (Học tập truyền thống âm nhạc trong kháng chiến), Đỗ Nhuận (Cái vốn quý nhất vẫn là tâm hồn), Nguyễn Liệu (Đảng ân cần săn sóc chúng ta);

Mai Hồng (Xem phim ‘Sau ngày đình chiến’), Hải Phong (Phim mới: ‘Thư gửi cha tôi ở Ulan Bato’);

Chương Dương (Xiếc VN trên bước trưởng thành);

Tú Mỡ (Tú Mỡ đấy, không phải Nguyễn Khuyến, [về việc Hãn Chương Vũ Đình Trác trong sách ‘Việt văn bình giảng đệ nhị ABCD’, in 1962 ở Sài Gòn, đã lấy thơ trong ‘Dòng nước ngược’ của Tú Mỡ gán cho Nguyễn Khuyến]);

M.V.(Hội nghị BCH mở rộng Hội LHVHNT Trung Quốc lần 2: Tiến tới nền văn học nghệ thuật có nhiều tính chiến đấu hơn).      

‒ Ngày 13: báo “Nhân dân”, s. 3394, tr. 5: Trần Hạnh, bộ đội, hòm thư 1230, Hà Nội (Ý kiến bạn đọc: “Vào đời” xuyên tạc sự thật của chế độ ta);

‒ Ngày 14: Báo “Tiền phong”, s. 1062: tr. 3, 2: Nguyễn Thị Hồng Tuyến, nữ công nhân xưởng cơ khí, nhà máy cơ khí Hà Nội (Ý kiến một nữ thanh niên công nhân về cuốn “Vào đời”: Ông Hà Minh Tuân đã làm tổn thương đến danh dự chúng tôi);

‒ Ngày 14: Báo “Cứu quốc” s. 3128, tr. 12-13: Dân Hồng (Trong “Vào đời” hình ảnh anh bộ đội đã bị bôi một vết nhơ);

‒ Ngày 17: Báo “Tiền phong”, s. 1063: tr. 3: Nguyễn Thị Phương Hoa, phòng Kế hoạch, xưởng đóng tàu 3, Hải Phòng (“Vào đời” của ông Hà Minh Tuân chỉ là câu chuyện bịa đặt, xuyên tạc sự thật mà thôi); Kim Thoa, 10 Hàng Bông, Hanoi (Những bài báo phê bình cuốn “Vào đời” đã giúp tôi lấy lại lòng tin và hiểu rõ cuốn sách đó hoàn toàn xuyên tạc sự thật);

‒ Ngày 18: Báo “Quân đội nhân dân” s. 1229, tr. 3: Phương Tống, nông trường Mộc Châu (Lập trường tư tưởng tư sản phản động trong cuốn “Vào đời”);

‒ Ngày 19: báo “Tiền phong”, s. 1064, tr. 3: Tiền phong (Cần vạch trần hệ tư tưởng tư sản phản động trong cuốn tiểu thuyết ‘’Vào đời’’); Nguyễn Lương, cục vật liệu kiến thiết, Bộ Nội thương (‘’Vào đời’’ đã xuyên tạc hết sức bỉ ổi bản chất tốt đẹp của các quân nhân phục viên, chuyển ngành);

‒ Ngày 19: tuần báo Văn nghệ  s. 12:

‘Tiếng nói chúng tôi’: Tế Hanh (2 ‘bài thơ tháng bảy’), Diệp Minh Châu (Căm thù địch và tin tưởng ở tương lai chiến thắng), Nguyễn Đức Toàn (Âm nhạc chúng ta là âm nhạc chống Mỹ-Diệm), Nguyễn Quang Sáng (Tôi sẽ viết về người miền Nam đang xây dựng miền Bắc);

Phê bình: Hoàng Minh Châu (Đọc ‘Hai nửa yêu thương’: tình cảm trong thơ Tế Hanh);

Điểm sách: Đào Xuân Quý (‘Trong đêm khuya miền Nam’, thơ kể chuyện của Phạm Hổ), Trần Hữu Thung (‘Keo sơn’, diễn ca, Lương An, Nxb. Phổ thông), Mai Nguyên (‘Tiếng gọi’ của Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Kiên, Nxb. Phổ thông), Thanh Lê (Sách Ba Lan về Việt Nam);

Thơ: T.N.T. miền Nam gửi ra (Đi lên), Chế Lan Viên (Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta), Thế Mạc (Giảng thơ Nguyễn Đình Chiểu trên quê hương kết nghĩa), Bảo Định Giang (Gợi nhớ), Khánh Chi (Ngất trời phẫn nộ);

truyện ngắn: Văn Ngọc (Dỡ nhà);

tùy bút: Nguyễn Tuân (‘Khi nào Bắc Nam đã thống nhất, anh sẽ vô thăm đâu trước hết?’);

Những bức thư từ miền Nam: Gs. L. X. Việt từ Sài Gòn, Nguyễn Ngọc B. từ Thừa Thiên, T. Thân từ Quảng Ngãi, T. T. Đức từ Đồng Tháp Mười;

Thơ đả kích: Nghĩa Giang (Tổng Ken xoay kế);

Về cuốn “Vào đời”: Xuân Cang (Tiểu thuyết ‘Vào đời’ và trách nhiệm của nhà văn), Văn Dân (Anh bộ đội trong “Vào đời” bị bóp méo, xuyên tạc);

Lý Thúc Vi, TQ. (Việt Nam nhất định sẽ thống nhất);

Semion Cheguv (70 năm sinh Maiakovski: Một người đổi mới vĩ đại của thơ ca);

Trọng Anh (Sân khấu: chín năm giữ vững truyền thống, phát triển nghệ thuật);

Ngô Đình Chương (Về tranh đả kích);

Hồ Hải (Xem phim Ba Lan “Em chờ ông chủ tịch”),

Lê Thanh Hiền (Xem phim miền Nam: “Miền Nam anh dũng”). 

‒ Ngày 21: báo “Cứu quốc” s. 3129, tr. 12-13: Hoàng Thiếu Sơn (“Vào đời” dưới mắt nhà giáo chúng tôi);

‒ Ngày 25: báo “Lao động”, s. 1241, tr. 3: Nguyễn Anh Tài (Cần vạch ra thêm các loại tư tưởng xấu trắng trợn và cài ngầm trong cuốn “Vào đời”);

‒ Ngày 26: tuần báo Văn nghệ  s. 13:

Thép Mới (Tham luận tại Hội nghị BCH nhà văn Á-Phi);

Tin (Hội nghị BCH các nhà văn Á-Phi lên án chủ nghĩa đế quốc thực dân do Mỹ cầm đầu và ủng hộ phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc);

Phê bình: Đông Hoài (Cuốn truyện ‘Vào đời’ đã chống chọi lại nhiều chủ trương chính sách hiện nay của Đảng); Dương Văn Hùng, Tô Minh Trung, Đào Phương, Nguyễn Thanh Dân, Lương Sĩ Cầm (Bạn đọc phê phán nghiêm khắc cuốn “Vào đời”);

Điểm sách: Xuân Trình (‘Chị cả Phây’, tập truyện và ký Ngô Ngọc Bội, Nxb. Văn học);

Thơ: Khánh Hữu (Bài thơ trên đồi hoang), Nguyễn Viết Bình (Khát gỗ), Gia Ninh (Một mùa xuân giới thuyến);

thơ ca từ miền Nam gửi ra: Giang Hoa (Đốt sạch rào vi ớ chị anh ơi), Kym Tấn (Cho bát cơm đầy trọn vẹn bữa ăn), Q. Nam (Ca dao), Vĩnh Quảng (Câu hò), Nam Chi (Bài ca phá ấp chiến lược);

bút ký: Nguyễn Quang Thân (Trăng Hàm Rồng, người núi Ngọc), Nguyễn Trọng Oánh (Chuyến đi của một quê hương nhỏ);

Lăng (Văn nghệ Mỹ-Diệm ở trong ngõ bí);

Trao đổi: Tô Hoài (Trả lời bạn đọc);

truyện ngắn: K. Filipovich, Ba Lan (Chiến thắng, Hữu Chí dịch);

‘Tìm hiểu VHNT’: Nam Trân (Virgile và ‘Énéide’), Virgile (Éné và Didon, Nam Trân dịch);

Vũ Lân (Thắng lợi đầu tiên của Trường múa VN);

Phạm Tuyên (Những bài hát trong tháng bảy năm nay);

Huy Khoát (Sân khấu phục vụ biên phòng);

Đinh Đăng Định (Nhiếp ảnh: Ánh sáng và bóng tối).

‒ Ngày 27: Báo “Lao động” s. 1242, tr. 3: Trần Dũng Tiến (Bàn thêm với tác giả cuốn “Vào đời”: Sai lầm của Hà Minh Tuân chủ yếu là sai lầm về quan điểm);

‒ Ngày 28: báo “Tiền phong”, s. 1068, tr. 3 : Tần Lê, tác giả Trung Quốc (Làm cho văn học cách mạng nở hoa kết quả trong lòng người thanh niên, bài trên “Nhân dân nhật báo” Bắc Kinh, 23/6/1963, Tuyết Mai trích dịch);

‒ Ngày 28: báo “Cứu quốc”, s. 3130, tr. 12-13: Xuân Hải (“Vào đời” viết cho ai đọc và nhằm phục vụ ai?);

‒ Ngày 31: báo “Tiền phong”, s. 1068, tr. 3: Tần Lê, tác giả Trung Quốc (Làm cho văn học cách mạng nở hoa kết quả trong lòng người thanh niên, bài trên “Nhân dân nhật báo” Bắc Kinh, 23/6/1963, Tuyết Mai, Thanh Lam trích dịch, tiếp, hết);

‒ Trong tháng 7: Tạp chí văn học số 1 (tháng 7/63) (s. 43):

Phạm Văn Đồng (Nêu cao tác dụng của văn học nghệ thuật trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội);

Phạm Văn Đồng (Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc);

Trần Văn Giàu (Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu?);

Trần Thanh Mại (Nguyễn Đình Chiểu, lá cờ đầu của nền thơ yêu nước thời kỳ cận đại);

Bùi Thanh Ba (Qua ‘Ngư Tiều vấn đáp’ tìm hiểu thế giới quan Nguyễn Đình Chiểu);

Trần Nghĩa (Thử bàn về nguồn gốc truyện ‘Lục Vân Tiên’);

Vũ Ngọc Phan (Bài học của thực tế);

Nguyễn Đức Đàn (Nhất Linh trên bước đường sáng tác hiện nay);

Dương Hòa (Đọc một số thơ, ca dao đăng trên những tờ báo cách mạng ở các tỉnh Trị Thiên và Nam Trung Bộ);

Hữu Hồng (Những hình ảnh khá chân thật về miền Nam đau thương: Giới thiệu tập truyện ngắn tiến bộ miền Nam “Chiếc áo thiên thanh”);

Hoàng Như Mai, Sỹ Tiến (Vở ca kịch cải lương ‘Đời cô Lựu’ của Trần Hữu Trang);

Ngọc Anh (Giới thiệu vài nét về truyền thống chiến đấu của thơ ca dân gian Tây Nguyên);

Nguyễn Khoa Bội Lan (Một loại văn chương kiểu Mỹ trong chế độ Diệm);

Hoàng Phê (Trên cơ sở nào thống nhất chính tả? Nhân đọc “Việt ngữ chính tả tự vị” của Lê Ngọc Trụ, xuất bản ở Sài Gòn).

‒ Trong tháng 7: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 7/63:

tùy bút: Nguyên Hồng (Ghềnh thác sông Đà và sóng gió Hạ Long);

truyện ngắn: Nguyễn Đình Tiên (Lũ ‘cọp biển’ và hai em bé), Xuân Sách (Ông lão Ngọc), Hải Hồ (Chuyện người khônng quen), Phan Trác Hiệu (Cái bật lửa);

thơ: Thanh Tịnh (Đây là đài Giải phóng), Thanh Huyền (Bài thơ gửi anh giải phóng quân), Nguyễn Bao (Có con sông), Huyền Sâm (Ngôi mộ đầu non), W. Broniewski, Ba Lan (Trên nấm mồ người chiến sĩ cách mạng, Thanh Lê dịch), Võ Văn Trực (Trên trận tuyến đêm nay), Xuân Diệu (Cà phê Đông Hiếu), Vương Linh (Lòng mẹ);

ca dao: Phương Dung, Duy Thảo, Trần Nguyên Đào, Văn Thích, Nguyễn Thị Bông;

kịch: Nguyễn Đức Phúc (Suýt nữa hỏng việc);

những đoạn văn ngắn: Ngọc Bảo (Dưới nắng hè), Xuân (Những chiếc kẹo), Trương Nghĩa Tiến (Một kỷ niệm);

độc tấu: Thu Vân (Em gái gan dạ và mưu trí);

lý luận-phê bình: Nguyễn Đức Toàn (Đại hội lần thứ hai của các nhạc sĩ Việt Nam); Mai Văn Hiến (Nói chuyện về mỹ thuật); Trọng Lanh (Mấy nét về ‘ngôn ngữ’ của múa); Nhị Ca (Đọc ‘Bài ca từ chiến hào’ của Hải Hồ);

Tháng 8:

‒ Kết quả thi sáng tác kịch bản năm 1962 do Hội nghệ sĩ sân khấu VN tổ chức: Về kịch dài: giải Nhì: 1/ Cơ sở trắng (kịch nói 5 màn) của Hoài Giao; 2/ Nguyễn Hữu Cầu (kịch thơ 5 màn) Lê Trung Kiện; giải Ba: 1/ Đôi mắt (kịch nói 4 màn) Đỗ Diệp Khang; 2/ Cầu suối Sồ (kịch nói 3 màn) Nguyễn Quốc Tiến; 4/ Dũng (kịch nói 4 màn) Lục Nhất Tĩnh; giải Khuyến khích: 1/ Khơi nguồn (kịch nói 4 màn) Thủy Linh; 2/ Cướp máy (kịch nói 2 màn) Đặng Trần Nghĩa; 3/ Không phải máu người (kịch nói 3 màn) Huỳnh Chinh; 4/ Kim Đồng (kịch nói 4 màn) Nguyễn Thành, Nguyễn Ánh; 5/ Lấn biển (kịch nói 4 màn) Nhất Hiên.

Về kịch ngắn: giải Nhì: 1/ Chị Đoan (kịch nói) Vương Bình; 2/ Ba nghìn bạc (kịch nói) Phạm Văn Thiên; giải Ba: 1/ Mầm tan rã (kịch nói) Anh Dân; 2/ Trước giờ thao diễn (kịch nói) Cầm Giang; 3/ Bó lúa sót lại (kịch dân ca) Nguyễn Ruyển; giải Khuyến khích: 1/ Lòng tin (nhạc cảnh) Minh Phương; 2/ Vợ chồng anh tư Pháp (kịch nói) Chu Nghi; 3/ Dòng sữa (cải lương) Xuân Phong. [18]   

‒ Ngày 2: tuần báo Văn nghệ  s. 14:

Phạm Văn Đồng (Nêu cao tác dụng của văn học nghệ thuật trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội);

Phê bình: Đào Xuân Quý (Mấy ý kiến nhân đọc tập truyện thơ ‘Du kích sông Loan’ của Xuân Hoàng);

Điểm sách: Đỗ Quang Tiến (‘Họ đã chiến đấu vì Tơ quốc’ của Sholokhov, bản dịch, Nxb. QĐND), Hoàng Trung Nho (‘Trong gió bão’ truyện Nguyễn Thành Long, Nxb. Phụ nữ), Tô Hoài (‘Trung lập’, tuần báo văn nghệ của Việt kiều tại Campuchia);

truyện ngắn: Trần Tùng (Bác Ngân);

bút ký: Khương Minh Ngọc (Trên đồi núi Lương Sơn), Đức Lân (Làng nổi);

nhật ký: Bút Ngữ (Ra Cồn Vành);

tùy bút: Thủy Thủ (Chiếc guốc xinh xinh, trích ‘Văn nghệ giải phóng’);

thơ: Thanh Giang (Đi), Vị Thủy (Kỷ niệm), Bằng Việt (Qua Trường Sa), Xuân Diệu (Thơ tặng Má);

văn thơ đả kích: Nguyễn Đình (Biệt kích …biệt tích), Tú Mỡ (Thải hồi Nâu-tinh), Phú Sơn (Chúng nó luận bàn), Lê Ngọc Vượng (Tổng Diệm đi … tu);

châm biếm nội bộ: Lã Vọng (Quả gì?), Nguyễn Quốc Văn (Nhắn ông kiểm soát), Tuấn Hiền (Tâm sự chiến xe cải tiến);

thơ: Napoli, Cuba (Cảnh giác cách mạng, Hồng Vân dịch);

Nguyễn Năm (Nhân 200 năm mất Tào Tuyết Cần: Đọc ‘Hồng lâu mộng’);

Nguyễn Văn Y (Bàn về mỹ thuật thực dụng);

Mộng Lân (Những bài hát cho thiếu nhi về đề tài đấu tranh thống nhất),

Tường Vy (Ca hát như thế nào để biểu hiện con người mới);

Lưu Trọng Lư (Lại vấn đề sáng mắt sáng lòng);

Trung Sơn (Cuộc sống lao động trong phim ‘Người gác đèn biển’),

PV. (Tại ĐHLH điện ảnh quốc tế Moskva lần 3: Phim ‘Chị Tư Hậu’ được huy chương Bạc; phim ‘Miền Nam anh dũng’ được nhiệt liệt hoan nghênh).  

‒ Ngày 9: tuần báo Văn nghệ số 15:

Hồ Chủ tịch (Một cuộc vận động to lớn, một cuộc vận động cách mạng, nói về cuộc vận động ‘Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí’);

xã luận báo Nhân dân 6/8/1963 (Tăng cường đoàn kết bảo vệ hòa bình, phá tan âm mưu chuẩn bị chiến tranh hạt nhân của đế quốc Mỹ);

Nghị luận: Quách Mạt Nhược, TQ. (Nhân dân cách mạng nhất định thắng lợi);

Phê bình: Hoàng Trung Nho (Đọc tập truyện ‘Ngày xuân’ của Vũ Tú Nam);

Điểm sách: Ngô Văn Phú (‘Xóm mới’, tập truyện Hồ Phương, Nxb. Văn học), Thành Thế Vỹ (Gương chiến đấu của thanh niên miền Nam’, Nxb. Thanh niên), Đỗ Đức Thuật (‘Người tù ở Ankara’ của Suad Dervis, bản dịch, Nxb. Văn hóa);

kịch ngắn: Anh Dân (Bên ống kính);

bút ký: Lò Văn Sỹ (Người bạn trên rẻo cao); Đinh Văn Thông (Sao đổi ngôi);

thơ: Huyền Kiêu (Suy nghĩ trên sông kết nghĩa Tân Hưng), Nguyễn Kiến (Giữa quê mới), Hoài Anh (Đoàn công nhân kiến trúc), Anh Thơ (Hôn con);

ca dao: Nguyễn Huy Kính;

nghị luận: Tô Hoài (Nghị quyết 8, cơ sở đánh giá nhận thức của chúng ta);

Tìm hiểu VHNT: Phi Hoanh (Di tích hội họa ở Pompei);

Nguyên Nhung, nhạc sĩ (Phải viết cho được cái khỏe và cái tình của người chiến sĩ quân đội ta);

Ngô Huy Quỳnh (Mấy ý kiến về kiến trúc của ta hiện nay); (Nghệ thuật chèo đi vào cái mới);

PV. (Tại ĐHLH điện ảnh quốc tế Moskva lần 3: phim ‘Miền Nam anh dũng’ được tặng bằng danh dự);

Trần Đức Hinh (Ánh sáng điện ảnh trên miền núi).

‒ Ngày 16: tuần báo Văn nghệ  s. 16:

kỷ niệm 20 năm Đề cương văn hóa của Đảng (Đề cương văn hóa VN 1943, trích), Vũ Quốc Uy (Nhớ lại ngày đầu tiên chúng tôi nhận được bản Đề cương văn hóa VN), Học Phi (Vận động văn hóa cứu quốc thời kỳ bí mật);

bút ký: Hồng Hiền (Rừng chè Suối Giàng và cụ Vàng A Sổng);

truyện ngắn: Vũ Tú Nam (Bà Chăm và ông Tốn);

thơ: Nguyễn Đại (Tháng Tám), Thái Giang (Vào mỏ), Hằng Huân (Lá cờ vùng giới tuyến), Tú Mỡ (Thăm quê Bác), Nguyễn Vũ Tiềm (Cuối năm);

Tổ phê bình báo ‘Văn nghệ’ (Qua cuộc đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm trong cuốn tiểu thuyết ‘Vào đời’ của Hà Minh Tuân);

kịch: Triệu Bạch Linh, Triều Tiên (Người tuyên truyền đỏ);

PV. (Kỷ niệm 70 năm sinh Maiakovski);

Hải Phong (‘Trầm Thanh đỏ’, phim Triều Tiên: bài ca về người anh hùng mới);

Trần Văn Nhiễu (Tình hình điện ảnh Mỹ-Diệm ở miền Nam);

Lộng Chương (Cuộc sống và kịch bản);

Trần Kiết Tường (Vài suy nghĩ sau đêm biểu diễn một số tác phẩm trong tuyển tập của nhạc sĩ Đỗ Nhuận);

Trao đổi: Nguyễn Văn Tỵ (Trả lời bạn đọc);

Trúc Linh (Vài nét về vũ đạo Triều Tiên);

văn thơ đả kích: Huyền Thanh (‘Thiện chí’ tổng Ken), Học Giới (Cóc phải nhảy ra), Khánh Toàn (Nghẹn ngào), Xích Điểu (Mỹ-Ngô tự thán);

trào phúng nội bộ: Nguyễn Lâm Tòng (Tâm sự cái vạc), Mạnh Nghiễn (Nhất anh), Trịnh Văn Đề (Tiếng khóc trên Khe Hùm).

‒ Ngày 23: tuần báo Văn nghệ  s. 17:

Hội nghị BCH nhà văn Á-Phi tại Bali, Indonesia (Nghị quyết về ngày quốc tế đoàn kết của nhân dân các nước Á-Phi với nhân dân Việt Nam 20/7/1963; Nghị quyết về tình hình Lào);

ba bài thơ của hòa thượng Thích Quảng Đức (Kính dâng thập phương chư Phật; Cùng hàng đệ tử quy y thế đồ và xuất gia; Cùng toàn thể tín đồ Phật giáo);

Phê bình: Phan Nhân (Đọc ‘Phá vây’ của Phù Thăng);

Điểm sách: Trung Sơn (‘Đường về Nam’ của Nguyễn Văn Bổng, Nxb. Văn học), Đỗ Quang Tiến (‘Khởi nghĩa’, tiểu thuyết L. Rebreanu, bản dịch, Nxb. Văn hóa);

bút ký: Xuân Trình (Đồng chiêm);

truyện ngắn: Trần Tiến Đức (O Lược), Trọng Hứa (Lão Đục);

thơ: Duyên Hải (Quê chung), Xuân Sách (Nhật ký hành quân), Ngô Văn Phú (Sân chùa), Nắng Hồng (Trên tàu liên vận; Nhớ);

thơ: Eugène Gebeleanu, Rumania (Tiếng nói người công nhân, Nguyễn Viết Lãm dịch);

Tổ thơ VN (Nhìn lại thơ gửi về báo trong ba tháng qua);

Kinh nghiệm: Nguyễn Quang Sáng (Vì sao tôi viết ‘Đất lửa’);

văn thơ đả kích: Vạn Lý (Ấp chiến lược, con dao hai lưỡi), Tú Mỡ (Tiếng hát đánh bại tiếng chửi), Văn Giang (Mỹ-Ngô than thở), Búa Đanh (Trò bịp hòa bình);

thơ vui: Mai Ngọc Uyển (Tài ông bưu chính), Lê Ngọc Vượng (Vỉa hè).

Trần Thức (Vài nét về nghệ thuật hội họa và điêu khắc thời Lý – Trần – Lê); Trọng Anh (Sân khấu miền Nam trong các vùng giải phóng: Như sức mạnh của cây súng);

Công Vũ (Vài suy nghĩ về phim tài liệu),

Lê Phan (Hình ảnh những người con bất khuất trong phim “Đường phố vẫn còn ghi’ của Rumania);

Đào Trọng Từ (Một nhạc sĩ thiên tài cao quý của nhân dân Rumania: George Enescu, 1881-1955);

‒ Ngày 30: tuần báo Văn nghệ  s. 18:

Lưu Quý Kỳ (Một dòng thác lớn), Hoàng Trung Thông (Tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của nhân dân ta và của giới văn nghệ nước ta);

Thơ: Chế Lan Viên (Người thay đổi đời tôi người thay đổi thơ tôi), Tế Hanh (Thăm nhà một người đánh cá), Bảo Định Giang (Đã gặp em rồi), Hoàng Duy (Bức thư nhân ngày khai trường), Nguyễn Xuân Sanh (Anh nhớ tên con sông), Thu Bồn, miền Nam gửi ra (Em đắp mồ anh), thơ Tày (Bướm gặp hoa, Nông Quốc Chấn sưu tầm và dịch);

bút ký: Nguyễn Tuân (Vĩ tuyến 17, ngày 20 tháng bảy vừa rồi);

phóng sự-truyện: Đỗ Quang Tiến (Suất cơm tập thể);

truyên ngắn: Bùi Ngọc Tấn (Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương);

Phê bình: Xuân Tửu (‘Bài thơ cuộc đời’ và cuộc đời nên thơ);

Điểm sách: Lưu Quang Thuận (‘Đèn kéo quân’, nhiều tác giả, Nxb. Kim Đồng), Xuân Trình (‘Ánh lửa hàn’, nhiều tác giả, Nxb. Thanh niên);

Vũ Năng An (Phim truyện một năm qua); Hoàng Như Tiếp (Thiết kế và xây dựng thành phố);

Nguyễn Đức Thuyết (Nhìn lại bước tiến của các đoàn sân khấu chuyên nghiệp địa phương);

thơ vui: Tú Mỡ (Đặt đâu ngồi đấy), Vạn Xuân (Hỏi ông: ngâm đến bao giờ hỡi ông?)

 

 

‒ Trong tháng 8: Tạp chí văn học  s. 2 (tháng 8/63) (s. 44):

Nguyễn Phan Ngọc (“Vào đời”, một quyển truyện đầy rẫy tư tưởng tư sản phản động, một khuynh hướng nghệ thuật suy đồi);

Trung Ngôn (Sai lầm của Hà Minh Tuân trong quyển “Vào đời” là sai lầm về lập trường tư tưởng);

Nguyễn Kim Chi (Hai tập truyện của Hoàng Văn Bổn: “Mùa mưa” và “Trên mảnh đất này”);

Chế Lan Viên (Thơ trong các sách giáo khoa);

Duy Lập (Bàn thêm về vấn đề thế giới quan và sáng tác: Chung quanh cuộc thảo luận về cuốn “Các phương pháp nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ);

Nguyễn Bắc (Mấy nét về tình hình văn học trong lòng Hà Nội thời kỳ kháng chiến);

Vương Đình Quang (Huỳnh Thúc Kháng, nhà chí sĩ, nhà thơ, nhà văn);

Vũ Đình Liên (Bước đầu tìm hiểu “Dương Từ-Hà Mậu” qua những tài liệu chúng ta hiện có);

Vũ Ngọc Phan (Đọc “Dân ca miền nam Trung Bộ”);

Đỗ Đức Hiểu (Văn học thời đại Phục Hưng);

Đọc sách: Lê Sơn (“Trên lưng cọp”, tiểu thuyết Bhabani Bhatacharya, Ấn độ, bản dịch, Nxb. Văn hóa);

Sưu tầm: Cầm Trọng, Phan Đăng Nhật (“Khun Lù – Nàng Ủa”, truyện thơ dân tộc Thái);

Sách mới: Hữu Hồng (“Dòng nhật ký đầu tiên”, tập truyện, nhiều tác giả, Nxb. Thanh niên), Trúc Thủy (“Tình nguyện”, tập thơ Lưu Trùng Dương);

TCVH (Hoạt động của đoàn đại biểu Viện văn học VN tại LX. và TQ.).

‒ Trong tháng 8: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 8/63:

truyện ngắn: Nguyễn Minh Châu (Những hạt thóc lép), Tạ Kim Hùng (Bên dòng suối cũ), Nhiệm Bật Vũ, TQ. (Nhân vật lái thuyền buồm, Minh Hạnh dịch), Vũ Thị Thường (Chuyện người già);

bút ký: Trúc Hà (Đại đội của ta);

thơ: Bùi Hữu Thành (Chuyện ông già trên đảo Thanh Lâu), Thái Giang (Dốc Ui), Nguyễn Trọng Oánh (Sáng rừng), Lò Văn Sĩ (Nữ dân quân), Nguyễn Hời (Nhớ anh), Phạm Ngọc Cảnh (Cành hoa bí);

ca dao: Xuân Đào, Võ Quang Tịnh, Liễu Châu, Hoàng Minh Hồng, Nguyễn Văn Tâm;

thơ đả kích: Trịnh Thuần (Lốt thay Tinh);

kịch: Hoàng Long (Người em họ);

những đoạn văn ngắn: Thiếu Ngân (Một bài văn), Xuân Lộc (Hai hạt ngô), Mai Hồng Lương (Lá thư gửi người đã mất);

lý luận-phê bình: Hồ Phương (Phải đấu tranh không khoan nhượng chống nội dung tư tưởng nguy hại của quyển truyện “Vào đời”); Lê Bá Súy, Nguyễn Thanh Tùng, Xuân Ngọc (Ý kiến bạn đọc về cuốn “Vào đời”); Nguyễn Thụy Ứng (Furmanov);

 

 

 

‒ Trong tháng 8: tạp chí “Phụ nữ Việt Nam” s. 119, tr. 22-23: Lê Đoan (Quan điểm của cuốn “Vào đời” đối với phụ nữ như thế nào?);

Tháng 9:

‒ Ngày 6: tuần báo Văn nghệ  s. 19:

Về tình hình miền Nam VN (Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh; lời tuyên bố của Chủ tịch Mao Trạch Đông);

BCH nhà văn Á-Phi (Tiến tới Hội nghị nhà văn Á-Phi lần 3);

Thép Mới (Thắng lợi lớn ở Ba-li);

Lưu Trọng Lư (Gửi bạn thơ B.);

Phê bình: Trương Chính (Mấy cảm nghĩ về bộ “Hợp tuyển thơ văn VN” tập IV);

Điểm sách: Văn Ngọc (‘Truyện ngắn chọn lọc’, A. Daudet, bản dịch, Nxb. Văn học), Vân Hương (‘Chim rừng địa chất’, bút ký, nhiều tác giả, Nxb. Thanh niên);

bút ký: Bùi Hiển (Bám biển), Quang Dũng (Có cây có người);

truyện ngắn: Vũ Thị Thường (Một buổi sáng đẹp trời);

thơ: Nguyễn Bao (Xóm thuyền), Vũ Minh (Chiếc ảnh), Vân Đài (Cô hàng mậu dịch), Nguyễn Hải Trừng (Dì tôi);

ca dao: Văn Hoa, Nguyễn Văn Dinh, Trần Hùng Đạt;

thơ: N. Staikov, Bulgaria (Vui nhà nông, Nguyễn Xuân Sanh dịch), B. Bozilov, Bulgaria (Người bán sách cũ, Thúy Toàn dịch);

Tổ truyện VN (Nhìn lại tình hình sáng tác văn xuôi gửi về tuần báo ‘Văn nghệ’ 4 tháng qua);

Trao đổi ý kiến: Vũ Đức Phúc (Về đặc trưng và chức năng của văn học và âm nhạc);

Huyền Kiêu (Trả lời bạn đọc);

Lưu Quang Thuận (Xem vở kịch ‘Ánh sáng’ của đoàn Lúa Mới, Hà Đông);

Hà Tú Nhã (Vài nét về nghệ thuật Chàm);

Hải Phong (Xem phim Bulgaria ‘Bầy chim sa lưới’), Lê Thiều (Về kịch bản phim truyện hiện nay);

Phạm Phúc Minh (Xây dựng dàn nhạc dân tộc có màu sắc địa phương);

thơ đả kích: Nguyễn Đình (Dân phải khờ đâu?), Tuyết Ngọc (Tớ thầy lúng túng);

thơ vui: Tấn Anh (Phải chăng đã thừa rồi?) Trần Quang Chất (Nhắn ông chủ nhiệm).

‒ Ngày 13: tuần báo Văn nghệ  s. 20:

Tiểu luận: Xuân Diệu (Vài nét về ca dao miền Nam Trung Bộ);

Văn thơ đả kích: Vạn Lý (Một ung nhọt đang tấy mủ), Trần Kích (Khốn nạn thân Ngô), Minh Hợi (Gửi Ca-bốt Lốt);

Phê bình: Trọng Đức (Đọc “Hội chợ phù hoa” của Thackeray, bản dịch, Nxb. Văn hóa);

Điểm sách: Văn Ngọc (‘Lửa cháy Cát Bi’, tập hồi ký về lực lượng vũ trang CM, Nxb. QĐND), Thành Thế Vỹ (‘Thánh Tông di thảo’, Nxb. Văn hóa);

bút ký: Huy Phương (Lên cao), Bùi Hiển (Bám biển, tiếp);

thơ: Nguyễn Anh Tài (Đêm vũ kịch ở quê hương), Kim Ngọc Diệu (Nhớ Việt Bắc), Vương Linh (Tiếng chày giã gạo), Cẩm Lai (Cô điện thoại viên máy C 6), Nguyễn Nhã (Nắng Đồng Giao);

Khắc Lương (Thơ ca dân gian vùng mỏ, sưu tầm);

truyện ngắn: B. Polevoi (Liu-bốp, Đ. Hạnh dịch);

Trao đổi ý kiến: Nguyễn Liệu (Âm nhạc phản ánh hiện thực như thế nào);

Lê Thanh Đức (Đưa cái đẹp vào đời sống);

Thế Lữ (Đôi điều suy nghĩ về sáng tác);

Nguyễn Hồng Nghi (Vài ý nghĩ về sự phát triển của nghệ thuật nhiếp ảnh VN),

Phạm Ngọc Thanh (Qua cuộc thi ảnh hoa – tĩnh vật năm 1963);

thơ vui: Lã Vọng (Vẽ được mấy tá?), Đinh Văn Phê (Bốn thương).

‒ Ngày 20: tuần báo Văn nghệ  s. 21:

hai bài thơ Tây Nguyên: bài hát của người Chăm hơ-roai (Tội ác đắp nhà mồ chôn Diệm, Ngọc Anh phỏng dịch), một em bé mù (Đứng lên, Thiếu Khanh dịch);

Tô Hoài (Vang tiếng vọng cả hai miền);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Vài nét về ca dao miền Nam Trung Bộ, tiếp);

Đọc sách: Khương Minh Ngọc (Nhân đọc “Từ tuyến đầu tổ quốc”, Tôi đã gặp lại…), Đức Kiên (Qua mấy dòng thơ trong vùng Mỹ-Diệm);

bút ký: Nguyễn Thành Long (Những người trẻ tuổi trên công trường gang thép), Nguyễn Thế Phương (Nhớ Từ Châu), Học Phi ghi (Không rời nhân dân, hồi ký của chị Sáu Ngài);

truyện ngắn: Vân An (Nói về một người con trai);

thơ: Trang Nghị (Ở một vùng quê), Trần Sĩ Thành (Bài ca trỗi dậy), Hằng Phương (Hiền Lương, chiều tháng bảy), Thi Nguyễn (Cô giáo vùng cao);

tư liệu: Hải Đường (Nuôi chồng ốm, sưu tầm hò khoan Quảng Nam);

thơ đả kích: Trần Kích (Lẳng lặng mà nghe);

thơ: Ashar Munir Samuel, Indonesia (Gửi Bác Hồ Chí Minh, T.H. dịch); Hà Tương Cảo, Triều Tiên (Mùa thu hỡi, đâu rồi?, Trần Hữu Thung dịch từ Trung văn);

Lộng Chương (Vài ý kiến về hoạt động sân khấu hiện nay của công nhân);

Thế Hùng (Phim đèn chiếu);

Vương Như Chiêm (Những vấn đề cần thảo luận trong phong trào vẽ tranh nghiệp dư).  

‒ Ngày 23 và 24: Hội nghị lần 2 BCH Hội nhà văn VN (khóa 2); ngoài các ủy viên BCH còn có các đại diện của Phòng văn nghệ quân đội, tuần báo Văn nghệ, Tạp chí Văn học, Nxb. Văn học. Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi báo cáo công tác của Hội trong 6 tháng qua: việc gặp gỡ trao đổi với mỗi nhà văn về phương hướng đi và viết; kiểm lại việc phê phán cuốn Vào đời; việc tổ chức trường bồi dưỡng viết văn cho 40 cây bút trẻ; việc hợp nhất hai Nxb. Văn học (cũ) và Nxb. Văn hóa; việc cải tiến báo chí văn nghệ; việc phối hợp với ngành giáo dục để sửa  sách cũ và soạn sách mới về văn học cho các trường phổ thông, v.v… Về chương trình công tác sắp tới, phương hướng chính là nâng cao ý chí cách mạng của đội ngũ văn học, đẩy mạnh việc đi sâu vào các mặt của đời sống, tạo điều kiện để các nhà văn sáng tác tốt hơn. Trong năm 1964 sẽ mở hội nghị những người viết văn trẻ toàn miền Bắc lần thứ 2; mở các cuộc vận động sáng tác về các đề tài cách mạng XHCN, đấu tranh thống nhất; thành lập tiểu ban lý luận phê bình do Thường vụ Hội nhà văn và Viện văn học trực tiếp chỉ đạo, nhằm tập hợp và bồi dưỡng đội ngũ viết lý luận phê bình; sẽ lập tiểu ban về dịch văn để giúp đỡ những người dịch và các Nxb. lập kế hoạch dịch dài hạn hơn. Hoài Thanh bổ sung ý kiến về phê bình; Nguyễn Công Hoan và Chế Lan Viên báo cáo việc giúp ngành giáo dục sửa và soạn sách dạy văn phổ thông; Nguyễn Xuân Sanh báo cáo công việc tiểu ban đối ngoại, ban liên lạc với các nhà văn Á-Phi, việc chuẩn bị ĐH nhà văn Á-Phi năm tới; Thép Mới báo cáo kết quả hội nghị BCH nhà văn Á-Phi tháng 7/63 tại Indonesia. Hội nghị thảo luận các vấn đề; Huy Cận nói về dịch thuật, về giúp đỡ các cây bút nghiệp dư, và việc sáng tác kịch bản; Vũ Tú Nam và Nguyễn Khải đề nghị BCH hết sức chú trọng công tác tư tưởng trong đội ngũ văn học; Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Như Phong nêu các mặt khác nhau cho thấy sự cần thiết của phê bình; hội nghị đã góp nhiều ý kiến cho tuần báo Văn nghệ, Tạp chí Văn học, Nxb. Văn học. Hội nghị cũng đã thông qua một bức thư gửi văn nghệ sĩ miền Nam.[20]

‒ Ngày 27: tuần báo Văn nghệ  s. 22:

bút ký: Chế Lan Viên (Về Thiều Sơn quê Mao Chủ tịch);

thơ chữ Hán Nguyễn Du (Ngựa bỏ bên thành, Lê Thước, Phạm Khắc Khoan, Trương Chính dịch; Xin ăn, Nam Trân dịch; Biệt Nguyễn đại lang, Trần Hữu Thung dịch; Ngẫu nhiên được bài này, Lê Thước, Phạm Khắc Khoan, Trương Chính dịch; Chim công múa, Trần Hữu Thung dịch; Bài hành về việc quân lính làm nghẽn đường, Ngô Văn Phú dịch);

bút ký: Đào Vũ (Từ bắc sang đông), Thép Mới (Lạc tới Bao San);

thơ: Hoàng Trung Thông (Thăm mộ Nguyễn Du), Từ Quốc Hoài (Một em bé miền Nam), Trần Nguyên Đào (Theo bố theo mẹ), Bằng Việt (Thư gửi người bạn xa đất nước);

ca dao: Lê Trần Thi, Lâm Xuyên, Nguyễn Văn Chiều, Nguyễn Thị Lữ, Ph. H.N.M, Nguyễn Tiến Dũng;

truyện ngắn: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Chuyện nhỏ), Khương Minh Ngọc (Duyên con);

 Đọc sách: Phạm Hổ (Cuộc sống trong ‘Đất lửa’, tiểu thuyết Nguyễn Quang Sáng);

văn thơ đả kích: Bút Chiến (Từ ý nghĩ của nhà danh ca Rô-bơ-xơn đến hành động của người Mỹ da đen), Búa Đanh (Chúa quỷ buồn xo);

thơ vui: Dương Văn Thám (Hỏi tham ô; Hỏi lãng phí; Hỏi quan liêu).

Trao đổi ý kiến: Đỗ Nhuận (Bàn về khả năng phản ánh hiện thực của âm nhạc);

 Mai Hồng (Những bộ phim nhiều màu nhiều vẻ, về các phim TQ. đang chiếu ở VN);

‒ Trong tháng 9: Tạp chí văn học  s. 3 (tháng 9/63) (s. 45):

ĐCS Đông Dương (Đề cương văn hóa VN 1943);

Vũ Đức Phúc (Mấy suy nghĩ về ‘Đề cương văn hóa 1943’);

Nguyên Hồng (Giữa những gọng kìm 1942-1945, hồi ký về Văn hóa cứu quốc); Hồng Chương (Một chiến sĩ xuất sắc của Đảng trên mặt trận văn hóa: Hải Triều);

Phong Lê (Những đóng góp của Ngô Tất Tố trong ‘Tắt đèn’);

Học Phi (Đốm lửa ban đầu, trích hồi ký Vận động văn hóa cứu quốc);

Nam Mộc (Đọc lại ‘Bước đường cùng’ của Nguyễn Công Hoan);

Thiếu Mai (Tìm hiểu sự chuyển biến tình cảm của Anh Thơ, Vân Đài, Hằng Phương qua 3 tập thơ ‘Theo cánh chim câu’, ‘Về quê mẹ’, ‘Mùa gặt’);

Như Thiết (Góp thêm với ông Nguyễn Đức Bính một số vấn đề về Hồ Xuân Hương);

Dương Tất Từ (Vitezslaw Nezval, nhà thơ lớn của nhân dân Tiệp Khắc);

Hoàng Thị Đậu (Một số tư liệu để tiến tới so sánh truyện ‘Tấm Cám’ của VN và của Rumania);

Đọc sách: Nguyễn Năm (‘Sa đọa’ của Mao Thuẫn);

Sưu tầm: Nguyễn Đức Vân (Bài phú ‘Nguyễn Thị di cung’ của Phạm Nguyễn Du), Chu Thiên (Thêm một số thơ văn của Nguyễn Thượng Hiền và sư Viên Giác);

Hồng Phương (Công tác lý luận phê bình tháng 6 và 7/1963);

Điểm sách: Minh Hương (‘Ngày xuân’, tập truyện của Vũ Tú Nam), Dương Hòa (‘Từ tuyến đầu tổ quốc’, thư từ miền Nam gửi ra);

P.V. (Hội nghị tổng kết công tác giảng dạy văn học năm 1962-63 của giáo viên cấp 3 toàn miền Bắc).

‒ Trong tháng 9: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 9/63:

truyện ngắn: Vũ Hồng Quang (Ánh lửa), Lê Văn Sửu (Hai người khách), Phan Văn Tại (Ngày đầu trên vùng núi Mường Dương), Lâm Phương (Giữ cờ), Lê Bầu (Ga xép), Nguyễn Khải (Tầm nhìn xa);

thơ: Trần Cẩn (Tiếng hát), Đại Thủy (Trở lại Cấm Sơn), Xuân Sách (Đến Trà Cổ), Phạm Công Cam (Trở về đội ngũ), Nguyễn Văn Tám (Xem ‘phim giải phóng’);

ca dao: Lương Sơn, Lê Khánh, Thùy Dương;

Nguyễn Văn Dinh (Mấy câu hò đấu tranh thống nhất);

những đoạn văn ngắn: Trần Công Tấn (Một đêm của người lính hậu bị), Thanh Tịnh (Quê hương);

lý luận-phê bình: Quang Thọ (Tìm hiểu mỹ thuật: Cần phân biệt tranh với ảnh); Huy Du (Tìm hiểu âm nhạc: Các hình thức và thể tài trong thanh nhạc); Vũ Hải Phương (Đọc ‘Phá vây’ của Phù Thăng); Doãn Trung (Tình hình sáng tác văn nghệ gần đây của Giải phóng quân Trung Quốc);

Tháng 10:

‒ Ngày 4: tuần báo Văn nghệ  s. 23:

hồi ký: Gs. Nguyễn Văn Hiếu (Bạn bè ta ở khắp năm châu);

Hội nghị BCH Hội nhà văn VN (Thư gửi ah chị em văn nghẹ sĩ miền Nam);

 Đọc sách: Nguyễn Thành Long (‘Trần trụi giữa bầy sói’, của Bruno Apitz, bản dịch, Nxb. Văn hóa);

Điểm sách: Hoàng Trung Nho (‘Một lòng với Đảng’, Nxb. Phụ nữ), Trung Sơn (‘Câu chuyện mới của người lính già’, dịch của Lý Chuẩn, TQ., Nxb. Văn hóa-nghệ thuật),

P.V. (Nhà thơ Huy Cận với bạn đọc ‘Bài thơ cuộc đời’);

truyện ngắn: Chu Văn (Phương hướng), Phạm Hổ (Một bức tranh trung thu);

bút ký: Kim Ngọc Diệu (Chiến dịch ‘đấu thủy’);

thơ: Đào Xuân Quý (Kéo lưới), Xuân Quỳnh (Chuyện cũ xóm chài), Vũ Nhi (Anh và tôi), Xuân Diệu (Đánh lên đàu Mỹ);

ca dao: Thanh Hao, Mỹ Dung;

thơ đả kích: Phú Sơn (Há tiếc gì nhau), Nguyễn Đình (Lại một trò hề);

thơ vui: Nguyễn Khoa (Gửi ông kế toán);

thơ: B. Brecht (1940, Tế Hanh dịch);

Đào Trọng Từ (Han-xơ Ai-xle, một nhạc sĩ lớn của giai cấp công nhân Đức);

Phi Hoanh (Tề Bạch Thạch, 1863-1957);

Trao đổi ý kiến: Đỗ Nhuận (Bàn về khả năng phản ánh hiện thực của âm nhạc, tiếp);

Trần Văn Nghĩa (Ngành múa rối VN đã trưởng thành);

Trương Qua (Quá trình sáng tạo của họa sĩ trong phim hoạt họa);

Học Phi (Bổ sung và đính chính bài ‘Không rời nhân dân’, VN s. 21);

‒ Ngày 11: tuần báo Văn nghệ  s. 24:

‘Ý kiến chúng tôi’: Văn nghệ (Phải đẩy mạnh công tác lý luận, phê bình);

M.H. (Hội nghị BCH Hội Nghệ sĩ sân khấu);

nghị luận: Nguyễn Minh Vỹ (Kennedy vẫn tiếp tục rúc đầu vào hầm tối);

Đinh Gia Trinh (Denis Diderot, 1713-84, nhà tư tưởng và nhà văn tiến bộ Pháp thế kỷ XVIII);

Phê bình: Vương Như Chiêm (Diệp Minh Châu và tác phẩm của anh);

Điểm sách: Khương Minh Ngọc (‘Gió bấc’, tập truyện Dũng Hà, Nxb. QĐND), Lê Huy Anh (‘Một tổ quý tộc’, tiểu thuyêt I. Turgenev, bản dịch, Nxb. Văn hóa);

truyện vừa: Nguyễn Khải (Người trở về);

văn: Đỗ Thanh Lộc (Con trâu tương trợ), Quách Vinh (Những giọt nước nhỏ), Đặng Bình (Đồng Văn phá xiềng hai cân bắp giống), Nguyễn Quang Thân (Bình yên, nhật ký một TNXP);

thơ: Băng Sơn (Cô bưu điện Yên Bái), Lữ Huy Nguyên (Đợi chờ), Phạm Ngọc Cảnh (Nhớ đảo);

ca dao: Phạm Đình Huệ, Thành Duy, Dương Huy;

hồi ký: Gs. Nguyễn Văn Hiếu (Những ngày ở Bắc Kinh);

Nguyễn Niết (Gốm Việt Nam);

Nguyễn Văn Tỵ (Nụ cười Ba Lan);

Nguyễn Đức Chính (Cảm tưởng sau khi xem triển lãm nhiếp ảnh Trung Quốc);

‒ Ngày 18: tuần báo Văn nghệ  s. 25:

Văn nghệ (Sung sướng và tự hào), Khương Minh Ngọc (Cùng cất một lời ca);

Đọc sách: Đào Xuân Quý (Đọc sách ‘Tiếng hát miền Nam’ tập II);

Điểm sách: Đức Kiên (‘Những nhà thơ da đen’, Nxb. Văn học), Hoàng Trung Nho (‘Bec-ti-li-on 166’ của Puige, Cuba), Đào Bích Nguyên (‘Đám cháy’ của Mohamed Dib), Vân Hương (‘Ê-dốp’ /Con cáo và chùm nho/, Nguyễn Đình Nghi và Vũ Hùng dịch, Nxb. Văn hóa-nghệ thuật);

Thơ: Tế Hanh (Thăm quê hương kết nghĩa), Võ Quảng (Thằng máy chém), M.H. miền Nam gửi ra (Ta đi);

truyện vừa: Nguyễn Khải (Người trở về, tiếp);

kịch nói: Ngô Y Linh (Những viên đạn đầu tiên);

thơ: B. Timofeev, LX. (Người du kích nguy hiểm, Lê Kim dịch), Trì Bắc Ngẫu (Ken tát miệng Ken, Lã Vọng dịch), Ray Otora, Guinée (Hướng về tự do, Nguyễn Đình dịch), Abu Al Kasim Saagala, Algérie (Algérie thét: Không, Thúy Toàn dịch), F.E.W. Harper, Mỹ da đen (Hãy chôn tôi trên mảnh đất tự do, Văn Thịnh dịch), A. Sofronov, LX. (Phút im lặng, Trần Hữu Thung-Minh Hải dịch);

truyện ngắn: Leif Armold Holma, Norway (Hai ông cháu, Hoàng Thị Đậu dịch);

bút ký: Hằng Phương (Câu chuyện người lính vượt tuyến);

Hoàng Linh (Giới kiến trúc VN tham gia thiết kế đài kỷ niệm chiến thắng Gi-rông, Cuba);

Trương Đình Quang (Âm nhạc trong vùng giải phóng miền Nam);

Bảo Định Giang (Xem phim tài liệu ‘Phật tử miền Nam bất khuất’).

 

‒ Ngày 25: tuần báo Văn nghệ  s. 26:

Giang Nam (Anh có thấy không anh, thơ tặng Gs. Nguyễn Văn Hiếu và đoàn MTDTGPMN thăm miền Bắc, 19/10/1962);

Hội LHVHNTVN (Tuyên bố phản đối LHQ cử đoàn quan sát đến miền Nam VN);

Đặng Thai Mai (Ủng hộ phong trào đấu tranh của người Mỹ da đen);

Hoàng Trung Nho (Mấy cảm tưởng nhân đọc tập ‘Bạn bè ta ở khắp năm châu’ của Gs. Nguyễn Văn Hiếu);

Xuân Oanh (Giuseppe Verdi, 1813-1901, nhạc sĩ thiên tài của nhân dân Ý);

truyện ngắn: Trần Kim Thành (Vợ chồng người tổ trưởng máy kéo);

truyện vừa: Nguyễn Khải (Người trở về, tiếp);

thơ: Thủy Nguyên (Dưới đèn), Bế Dôn (Vững bước), Khương Hữu Dụng (Đêm rừng; Làng trưa), Tạ Vũ (Đặt đường phía Nam);

ca dao: Thành Duy; thư T.H. (Từ miền Nam gửi ra);

V. V. Hạnh, miền Nam gửi ra (Một mình đánh lui một tiểu đoàn địch);

ghi nhanh: Ngô Văn Phú-Xuân Trình (Những ngày tháng 10);

thơ: Chen Dung Gi, Triều Tiên (Kennedy, không được động đến Cuba, Lê Kim dịch), David Diop, Senegal (Sẽ phá tan xiềng xích, Lê Huy Tiêu dịch qua Trung văn), L. Hughes, Mỹ (Bình minh ở Alabama, Đào Xuân Quý dịch);

Giang Hội (Mùa đầu quả chín,- lớp diễn viên khóa I nghệ thuật sân khấu tốt nghiệp ra trường);

Đọc sách: Đông Hoài (‘Đống rác cũ’ tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Nxb. Văn học);   

‒ Trong tháng 10: Tạp chí văn học  s. 4 (tháng 10/63) (s. 46):

Vũ Ngọc Phan (Đọc ‘Vỡ tỉnh’ của Tô Hoài);

Nhị Ca (Thử đánh giá mức chân thực của tiểu thuyết ‘Phá vây’);

Hoàng Xuân Nhị (Chung quanh cuộc tranh luận về quyển ‘Các phương pháp nghệ thuật’ của Lê Đình Kỵ);

Trần Văn Minh (Nhân đọc ‘Ngô Tất Tố’, góp ý kiến phân tích quyển ‘Lều chõng’);

Đặng Thai Mai (Chung quanh ‘Truyện Kiều’, một tài liệu mới, bản dịch tiếng Mãn Châu);

Triêu Dương (Đi tìm ảnh hưởng ‘Truyện Kiều’ trong văn học dân gian);

Nguyễn Văn Hoàn (Đọc ‘Hợp tuyển thơ văn Việt Nam’ tập III);

Hoàng Trinh (Denis Diderot qua một số tiểu thuyết của ông);

Lương Duy Thứ (Con đường văn học của Mao Thuẫn);

Tư liệu tham khảo: Diêu Văn Nguyên, TQ. (Về sự tăng cường tính chiến đấu của phê bình văn nghệ, Pham Tú Châu-Trọng Khiêm dịch);

Lê Sơn (Đọc ‘Một tổ quý tộc’ và ‘Cha và con’ của I. Turgenev);

Sưu tầm: Nguyễn Tuấn Liên (Một số tục ngữ dân tộc Tày);

Thương Nguyễn (Sưu tầm: ‘Cô gái đẹp và hạt gạo’, truyện dân tộc Ê-đê);

Điểm sách: Thành Duy (‘Xóm mới’, tập truyện Hồ Phương), Vân Thanh (‘Con gái người bán chim’ của Nguyễn Kiên, Nxb. Kim Đồng);

Sinh hoạt văn học: (Liên Xô: Hội nghị hội đồng khoa học; Trung Quốc: BCH Hội LHVHNT TQ. thảo luận nhiệm vụ chiến đấu trước mắt của văn học nghệ thuật).

‒ Trong tháng 10: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 10/63:

thiếu tướng Lê Quang Đạo (Bài nói chuyện với văn nghệ sĩ trong quân đội);

nhật ký: Vũ Hải Nam (Về quê hương);

truyện ký: Văn Đạt (Trọn vẹn);

truyện ngắn: Mao Anh, TQ. (Đồng chí phó tư lệnh, Doãn Trung dịch);

truyện: Nguyễn Khải (Tầm nhìn xa, tiếp);

thơ: Phạm Thành (Khẩu đội ta), Thái Giang (Tuổi nhỏ và hôm nay), Trần Nguyên Đào (Bố em), Xuân Diệu (Trên bến phà Thia), Kim Anh (Nghĩ ra), Vũ Ngọc Bình (Thi nhìn);

ca dao: Nguyễn Đồng Lộ, Phạm Đình Huệ, Vũ Ngọc Đích, Thao Trường, Phan Sĩ Đản, Nguyễn Tiềm;

những đoạn văn ngắn: Cầm Giang (Những người về), Trần Công Tấn (Họp tổ đảng), Vi Thị Kim Bình (Đặt tên);

Lý luận-phê bình: Đinh Khắc Thư (Một vài ghi nhận nhân đọc cuốn ‘Đồng đội’ của Hữu Mai); Hữu Chí (Đọc ‘Xóm mới’, tập truyện ngắn Hồ Phương); Huy Du (Nói chuyện âm nhạc: Các hình thức và thể tài khí nhạc); Quang Thọ (Giới thiệu về chất liệu tranh); Hồ Nhị Quang-Vũ Cao (Trao đổi ý kiến);

 

Tháng 11:

‒ Ngày 1: tuần báo Văn nghệ  s. 27:

P.V. (Luôn luôn đứng trên miếng đất cách mạng… tường thuật Hội nghị Ban thường vụ HLHVHNTVN 12/10/63);

Khương Minh Ngọc (Giữa mùa Ấp Bắc);

Phê bình: Lê Đình Kỵ (Đọc ‘Bài thơ cuộc đời’);

Điểm sách: Nguyễn Đình (‘Quê ta mở hội làm giàu’, Sở văn hóa Hà Nội xb.);

truyện ngắn: Bùi Ngọc Tấn (Thư);

truyện vừa: Nguyễn Khải (Người trở về, tiếp);

bút ký: Vũ Tú Nam (Ngày hội yêu người);

thơ: Giang Nam (Hoa mùa xuân Nam Bộ), Lâm Thao (Ước mơ), Quang Dũng (Giữa đồi nắng đổ lửa), Xuân Thiều (Buổi sáng Lai Châu);

ca dao: Lam Giang, Cảnh Dương;

thư miền Nam gửi ra: H.D. (Từ Quảng Nam);

Tú Mỡ (Hát xẩm, một thể loại văn nghệ dân gian cổ truyền);

văn đả kích: (Rắn không bịp được người);

thơ vui: Đ.Huân (Đanh ‘ôi’);

Tìm hiểu VHNT: Phi Hoanh (Một nền nghệ thuật đặc biệt trung cổ: nghệ thuật Bi-zăng-tanh);

Bùi Quang Nam (Triển lãm tranh tượng của sinh viên học sinh mỹ thuật);

Tuần phim Liên Xô: Nguyễn Trinh (Phim ‘Đại biểu Ban-tich’, con đường của người trí thức cách mạng), Hải Phong (‘Hiệp ba’);

‒ Ngày 8: tuần báo Văn nghệ  s. 28:

Ký: Đặng Thai Mai (Mấy cảm tưởng trong khi đi thăm ngôi nhà cũ của Gorki ở Moskva);

Tiểu luận: M. Gorki (Văn học Xô-viết, Hoài Thanh dịch); 

Ý kiến chúng tôi: Văn nghệ (Trong công tác phê bình và thảo luận, phải có thái độ chân thành và tinh thần xây dựng);

Đọc sách: Đinh Gia Trinh (Ý nghĩa lớn của ‘Con đường đau khổ’, tiểu thuyết bộ ba của A. Tolstoi);

điểm sách: Đào Bích Nguyên (‘Nhụy Kiều tướng quân’ của Yên Hồng, Hoài Ban, ‘Nghĩa quân sông Đà’ của Mai Hanh, - hai cuốn truyện lịch sử của Nxb. Kim Đồng);

truyện vừa: Nguyễn Khải (Người trở về, tiếp), Ngọc Vân (Trở lại Than Thùng), Văn Đăng (Đôi tay con mắt);

ca dao: Lê Nghĩa, Nguyễn Huy Kính, Huyền Tâm, Hồ Minh Hà;

thơ: Thanh Hải (Người mù vót chông), Huyền Kiêu (Những lứa gạch hợp tác), Nguyễn Minh Đức (Lời hẹn hò của những người xây tháp điện), Nguyễn Đình Ảnh (Chuyện một nông trường trồng bông), Phạm Hổ (Giữa lúc kẻ thù đổi ngựa thay cương);

từ miền Nam gửi ra: Một học sinh (Nhật ký);

bút ký: Hoàng Trinh (Leningrad – Hắc Hải);

thơ: Igor Kovzev (Sau buổi chiếu phim, Tế Hanh dịch), Leonidze (Tổ quốc; Pa-ta-zơn, Thúy Toàn dịch), Maiakovski (Câu chuyện của Khronov về nhừng công trường và những con người ở Kuznetz, Hoàng Trung Thông dịch);

thơ đả kích: Nguyễn Đình (Cái vòng thắt cổ), Vĩnh Mai (Thay ngựa giữa dòng);

Đào Trọng Từ (S. Prokofiev, 1891-1953, nhạc sĩ tiêu biểu cho âm nhạc Xô-viết);

Ngô Huy Quỳnh (Từ nhà Bảo tàng Việt Bắc đến Hội trường Ba Đình);

Công Vũ (Xem phim tài liệu ‘Thăm Bắc Lý’), Trịnh Mai Diêm (Điện ảnh Mỹ hiện nay);

Văn Đức (Cảm tưởng sau khi xem vở kịch ‘Nhật ký địa chất’);

Tìm hiểu VHNT: Phi Hoanh (Những đền Mô-skê của Hồi giáo).

‒ Ngày 15: tuần báo Văn nghệ  s. 29:

‘Ý kiến chúng tôi’: Văn nghệ (Nâng cao hơn nữa chất lượng sách dịch);

Từ miền Nam gửi ra: Út Thanh (Thư Bến Cát, Thủ Dầu Một);

Phê bình: Hoàng Trung Nho (‘Đồng tháng Năm’, một bước tiến mới của Nguyễn Kiên);

điểm sách: Xuân Trình (‘Đường vào nghệ thuật’, nhiều tác giả, Nxb. Thanh niên), Thanh Lê (‘Kỷ niệm về nhà máy xen-luy-lô’, Neverly, Nxb. Văn học);

truyện vừa: Nguyễn Khải (Người trở về, tiếp);

truyện ngắn: Mạnh Trử (Lão Hậu);

thơ: Xuân Diệu (Cô Tô mười bảy đảo xanh), Tân Trà (Đêm thuyền Hồ Tây), Kim Anh (Thư con), Bùi Thị Nguyệt Ánh (Tiếng chào đời), Xuân Hoàng (Quà Cô Tô);

văn thơ đả kích: Xích Điểu (Gọn?), Xuân Diệu (Thằng Diệm chết), Phú Sơn (Kên ngoác mồm sấu);

Thơ: Nham Giác Chính Nham, Nhật Bản (Phản đối căn cứ quân sự Mỹ, Trần Hữu Thung dịch qua Trung văn).

Lê Thường (Mấy suy nghĩ về đơn ca);

Lê Cường (Vài ý kiến về giọng hát và làn điệu trong nghệ thuật tuồng);

Tìm hiểu VHNT: Phi Hoanh (Nhà thờ Gô-tích);

‒ Ngày 22: tuần báo Văn nghệ  s. 30:

tùy bút: Lưu Trọng Lư (Bi kịch của bọn bán nước);

Từ miền Nam gửi ra: Võ Hồng (Thư Bến Tre);

Ý kiến bạn đọc: Đỗ Thị Ngọc Oanh, trường BTCN (Về cuốn ‘Đống rác cũ’ của Nguyễn Công Hoan);

Đọc sách: Thiếu Mai (Đọc tập thơ ‘Tơ tằm – Chồi biếc’ của Cẩm Lai, Xuân Quỳnh);

truyện ngắn: Mạc Phi (Con đường của mẹ con A Sử);

truyện vừa: Nguyễn Khải (Người trở về, tiếp);

bút ký: Nguyễn Tiến Thuyết (Ngày cuối cùng trên công trường điện thủy nông), Cẩm Thạnh (Đảm đương);

thơ: Giang Nam (Hội những người thắng trận), Nguyễn Quang Nguyên (Câu chuyện trong gia đình), Dương Chí Chính (Bè xuôi), Phạm Vũ Hải (Tây Bắc-Tây Nguyên);

Võ Huy Tâm (Sưu tầm vốn cũ: Thuyền đăng);

thơ đả kích: Học Giới (‘Vồ mồi’ hóa làm mồi), Nguyễn Đình (Một pha hài kịch mới);

thơ vui: Hoài Nam (Ông tham ô tập Kiều);

hý kịch: Bản Bổn Thắng, Nhật Bản (Một màn kịch ‘Tư bản luận’, Thế Lữ phỏng dịch);

E. Vostokov, LX. (Những nhân vật hùng dũng, đẹp, hứng khởi, - về điện ảnh LX.);

Nguyễn Văn Thương (Đoàn hát múa Oa-ra-bi-da, Nhật Bản, chinh phục lòng người);

Hoàng Nguyễn (Cảm nghĩ sau khi xem đoàn nghệ sĩ độc tấu LX. biểu diễn);

Trần Văn Nghĩa (Vài điều cần chú ý khi sáng tác kịch bản múa rối);

Nguyễn Nghệ (Một việc làm nghiêm túc và cần cù: sách ‘Nhật ký trong tù’ của Hồ Chí Minh, Nxb. Segher xb. bằng tiếng Pháp, bản dịch Phan Nhuận);

Tìm hiểu VHNT: Nguyễn Văn Khỏa (Demosten, nhà hùng biện yêu nước sáng suốt và dũng cảm);

‒ Ngày 29: tuần báo Văn nghệ  s. 31:

truyện ngắn: Ma Văn Kháng (Người coi miếu Thổ Tỵ);

thơ Albania: Andre Midea (Cảm nghĩ về trường học Albania bị Thổ-nhĩ-kỳ đóng cửa, 1902, Hoàng Trung Thông dịch), A. Silichi (Món quà tặng Đảng);

Phê bình: Hoàng Xuân Nhị (‘Đống rác cũ’, cuốn tiểu thuyết mang nhiều yếu tố tự nhiên chủ nghĩa);

Điểm sách: Vân Hương (‘Hạt ấm hạt no’, nhiều tác giả, Nxb. Văn học), Đỗ Quang Tiến (‘Gô-đan’ của Premchand, bản dịch, Nxb. Văn học), Nguyễn Gia Nùng (‘Dũng cảm’, truyện, V. Ketlinskaya, bản dịch, Nxb. Lao động);

bút ký: Quang Dũng (Chạy bè thác cát), Bút Ngữ (Trên mảnh đất Đông Bắc);

thơ: Tạ Kim Hùng (Tên em anh sẽ biết), Văn Tuế (Bài ca chị chăn nuôi), Ngô Hoàng Anh (Máy cày trên đất quê hương), Ngô Văn Phú (Trong mùa thu), Sỹ Hồng (Thăm phố Hòa Bình);

Vốn cũ: Phạm Lan Anh (Vịnh Khuất Nguyên, Hoa Bằng sưu tầm, Đào Bích Nguyên dịch);

thơ đả kích: Búa Đanh, Nguyễn Đình (Đề bia Kennedy);

thơ vui: Mạnh Nghiễn (Công tác như ông nghĩ cũng nhàn), Nguyễn Nhiều (Rằng nên)   

truyện ngắn: Ai-pô-tơ Mác-xi, Mỹ (Con chó của người nông dân, Xuân Du dịch từ Trung văn);

Nguyễn Văn Mười (Bàn về cá tính trong hội họa và điêu khắc);

Trao đổi: họa sĩ Nguyễn Bích (Trả lời bạn đọc);

Nguyễn Dương (Làm phim ‘Kim Đồng’: Quay cảnh trong hang Mỏ Gà);

Xuân Trình (Vài suy nghĩ về sân khấu nghiệp dư qua Hội diễn văn nghệ ngành đường sắt);

Tìm hiểu VHNT: Phi Hoanh (Điêu khắc Y-phê và Bê-nanh ở Tây Phi);

‒ Trong tháng 11: Tạp chí văn học  s. 5 (tháng 11/63) (s. 47):

Nam Mộc (Nhìn lại cuộc trao đổi ý kiến về cuốn ‘Các phương pháp nghệ thuật’ của Lê Đình Kỵ);

Nguyễn Đình (‘Hai nửa yêu thương’, một tập thơ mới trong giai đoạn mới của Tế Hanh);

Thiếu Mai (Về tập thơ ‘Hai nửa yêu thương’ của Tế Hanh);

Hà Minh Đức (Những yếu tố tích cực trong văn học hiện thực thời kỳ 1939-1945);

Tầm Dương (Một hiện tượng văn học phức tạp: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu);

Tảo Trang (Góp thêm tài liệu về năm sinh và chỗ ở của Cao Bá Quát);

Nguyễn Đức Nam (Cách mạng tháng Mười và văn học các nước phương Tây);

Lê Sơn (‘Taras Bulba’, tiểu thuyết lịch sử của Gogol);

Nguyễn Văn Thạc (Mấy nhận xét về cách mượn từ tiếng Hán);

Đọc sách: Đỗ Đức Dục (‘Truyện Andersen’);

Sưu tầm: Chương Thâu (Bài thơ ‘Viễn hải quy hồng’);

Hồng Phương (Công tác lý luận, phê bình và nghiên cứu trong tháng 8 và 9/1963);

Điểm sách (‘Bạn bè ta ở khắp năm châu’ của Nguyễn Văn Hiếu).

‒ Trong tháng 11: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 11/63:

bút ký: Hồ Phương (Dòng thác mới của trung đoàn);

truyện ngắn: Minh Phương (Lan ơi!), Mai Thế Chính (Niềm vui), Trần Công Tấn (Câu chuyện một quả cam), Trúc Hà (Những đêm không ngủ);

thơ: Xuân Thiều (Trên sàn lạnh nhà tù Lai Châu), Thanh Tịnh (Sao lính, sao trời), Xuân Quỳnh (Bài ca của người giao thông thuyền), Võ Văn Trực (Về phép trước vụ gặt);

ca dao: Quốc Hoa, Duy Thảo, Mai Thế Chính, Vũ Đình Minh, Sơn Nham;

hồi ký: D. Dravkina, LX. (Những mẩu bánh mì đen, Doãn Trung dịch), Ermolovich (Krupskaya nói về Lenin, M.V. dịch);

những đoạn văn ngắn: Hồng Minh (Qua suối), Nguyễn Thọ Sơn (Ông ‘Gia Cát’ làng tôi), Nguyễn Kế Nghiệp (Trong vườn hoa);

độc tấu: Trần Minh Thái (Lưới thép dân quân);

Lý luận-phê bình: Nguyễn Văn Ca (Tính tư tưởng trong cuốn ‘Trên mảnh đất này’); Tiêu Hoa, TQ. (Tăng cường công tác văn hóa nghệ thuật của bộ đội); ‘Tạp chí Văn học’ Triều Tiên (Giáo dục giai cấp và sứ mệnh của văn học, Doãn Trung dịch); Hồ Phương, Minh Viên (Trao đổi ý kiến); Quang Thọ (Nói chuyện về thể loại tranh);

Tháng 12:

‒ Ngày 1: Tạp chí Văn nghệ quân đội quyết định trao tặng phẩm cho những tác phẩm dự cuộc thi viết về lực lượng vũ trang cách mạng: Trong rừng chiến khu Đ (hồi ký, Lâm Phương); Dằn vặt (truyện, Trần Uyển); Hương cỏ mật (truyện, Đỗ Chu); Họp tổ đảng (truyện, Trần Công Tấn); Tiến quân về biển (thơ, Xuân Hồng); Nhớ anh (thơ, Phạm Thành); Một trang ca dao (Nguyễn Ái Mộ); Chuyện cắt tóc (độc tấu, Ngọc Điều). [21]

 

‒ Ngày 6: tuần báo Văn nghệ  s. 32:

Ý kiến chúng tôi: Văn nghệ (Hãy mang những tiếng hát cao quý nồng nhiệt nhất đến với nhân dân);

Lưu Hữu Phước (Tiếng hát cuả chúng ta phải là ngọn lửa nung nấu nhiệt tình cách mạng của nhân dân, - lời khai mạc Hội nghị đơn ca);

thơ văn đả kích: Búa Đanh (Mỹ vẫn chết chìm), Nguyễn Đình (Ai mặc niệm ai?);

truyện ngắn: Nguyễn Quang Thân (Tái sinh), Mai Liêm (Cô gái kẻ chài);

bút ký: Hồ Mậu Đường (Ánh sáng kỳ diệu của đôi mắt mù);

thơ: Duy Phi (Mẹ), Lê Bảo (Giảng ‘Tắt đèn’), Nguyễn Thành Giang (Được mùa), Quang Huy (Gió lạnh), Hoàng Thuận (Những trai làng), Phạm Công Cam (Bến nước song Đà);

Trao đổi: Đồ Phồn (Trả lời bạn đọc);

Đọc sách: Đào Bích Nguyên (‘Mây gió Ha-kô-nê’ tiểu thuyết Takakura Tê-rư, Nhật, bản dịch Nxb. Văn học).

Nghệ thuật: Trọng Anh (Đoàn văn hóa hội ‘Lê-cơ-ra’ Indonesia tại VN: Rất gần gũi và đáng ca ngợi xiết bao); Phạm Văn Chừng (Những bông hoa nghệ thuật tươi đẹp của đất nước Ba Lan anh em); Văn Sắc (Làm dâu trăm họ);

Tìm hiểu VHNT: Phi Hoanh (Hội họa hiện thực đời Đường);

Hoàng Như Tiếp (Nâng cao mỹ quan cho thành phố);

Đức Chính (Nghệ thuật nhiếp ảnh và con đường phát triển);

‒ Ngày 13: tuần báo Văn nghệ  s. 33:

Văn nghệ (Giữ vững truyền thống cách mạng vĩ đại của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, tiến lên xây dựng những tác phẩm tốt, miêu tả sâu sắc thời đại anh hùng của chúng ta);

thơ đả kích: Phú Sơn (Úm ba la);

hồi ký: Ngọc Chân (Theo Bác đi chiến dịch Biên giới), Thế Lữ (Đường ra kháng chiến), Xuân Vũ (Cầu Mống), Hồng Chương (‘Tôi đã giết anh em đồng đội…’);

truyện ngắn: Hữu Mai (Người thợ chữa đồng hồ tại đường hầm số 1 Điện Biên Phủ);

bút ký: Hoàng Tuấn Nhã (Người bạn nhỏ), Nguyễn Thành Long (Nhớ khu Năm);

thơ: Hoàng Trung Thông (Mảnh đất này), Định Hải (Ông lão trong vườn ươm cây), Xuân Quỳnh (Đảo quê hương), Anh Thơ (Hoa ngâu), Nguyễn Hải Trừng (Tạm biệt Hải Ninh), L.N. từ miền Nam gửi ra (Tôi là người chiến sĩ giải phóng quân), Trinh Đường (Vác vào Núi Canh), một tác giả người Thái (Con đường Điên Biên, Lương Quy Nhân, Nguyễn Đình dịch);

Phạm Văn Đôn (Chúng tôi đã sống và lớn lên trong kháng chiến);     

 

‒ Ngày 20: tuần báo Văn nghệ  s. 34:

tường thuật: Trang Nghị (Tuần lễ vì miền Nam ruột thịt của giới văn học nghệ thuật Việt Nam);

‘Từ miền Nam gửi ra’: Hai (Thư Sài Gòn), Nguyên Nam (Sau hỏa tuyến, trích báo ‘Quyết thắng’, Nam Trung Bộ);

Thơ: Tế Hanh (Gửi bạn đang kháng chiến lần thứ hai ở quê hương), Trần Nguyên Đào (Hò miền Trung), Giang Nam (Gởi Cuba), Hoàng Tố Nguyên (Ngay trong giờ ngã xuống), Vân Long (Đọc ‘Từ tuyến đầu Tổ quốc’), Trương Đức Chính (Em bé và người lính), Hoàng Trung Thông (Trên biển), Nguyễn Xuân Sanh (Nghe tin sông cũ miền Nam), Nguyễn Trúc (Tóc chị);

bút ký: Tô Hoài (Nhìn quê), Hoài An (Lá thư trên đồi A1);

truyện ngắn: Lê Khánh (Anh Đen);

hồi ký: Ngọc Chân (Theo Bác đi chiến dịch Biên giới, tiếp);

Đọc sách: Giang Đảm, TQ. (Những đóa hoa đỏ rực, đọc tập ‘Ánh sáng và phù sa’ của nhà thơ VN Chế Lan Viên, ‘Nhân dân nhật báo’  22/5/63);

điểm sách: Bàng Sĩ Nguyên (‘Những ánh sao mai’, tập thơ, Nxb. Thanh niên), Văn Hồng (‘Lôi Phong’, của Trần Quảng Sinh, Ngụy Nguy, Quách Mạt Nhược, bản dịch, Nxb. Thanh niên);

Tạ Mỹ Duật (Một giai đoạn kiến trúc đã qua);

Trương Đình Quang (‘Khúc quân hành’ tập bài hát về miền Nam anh hùng);

thơ đả kích: Lê Ngọc Vượng (Mánh khóe ba que), Nguyễn Đình (Càng thay ngựa càng nghẽn đường).

‒ Ngày 27: tuần báo Văn nghệ  s. 35:

Bảo Định Giang (Diễn văn khai mạc ‘Ngày đi thăm miền Nam ruột thịt’ ở vườn Bách Thảo);

phóng sự: Ngô Văn Phú (Trong tuần lễ ‘Vì miền Nam ruột thịt’: Ngày đầu);

Ý kiến chúng tôi: Văn nghệ (Hãy đến với các em nhiều hơn nữa);

Giới thiệu: Phạm Hổ (Chuyện cổ tích của anh em Grim);

Đọc sách: Đông Hoài (‘Người bạn đọc ấy’ của Tô Hoài);

Thơ: Hristo Smirnenski (Những đứa em của Gavros; Những đỉnh cao, Đào Xuân Quý dịch và giới thiệu);

bút ký: Nguyễn Thành Long (Gang ra);

Xuân Vũ (Ngọn cờ trên biển, một trang nhật ký của hoa tiêu);

ca dao: Phan Văn Khuyến, Ái Mộ;

Trao đổi: Diệp Minh Châu (Trả lời bạn đọc);

Trang thiếu nhi: văn Tô Hoài (Con chim gáy; Mai hỏi ai?), Nguyễn Văn Đức (Chim làm tổ), (Qua đường), An Cương (Vua Quang Trung và người lính già);

Thơ: Vũ Ngọc Bình (Chỉ đường), Ngô Viết Dinh (Cái vỏ chuối), Nguyên Đào (Hoa xoan);

Thơ: Xuân Diệu (Anh lính trẻ mới vào quân giải phóng), Chế Lan Viên (Ở đâu ở đâu?  Ở đất anh hùng), Ca Lê Hiến (Gửi Bến Tre);

truyện ngắn: Lưu Bạch Vũ, TQ. (Thư phương xa, Hồng Võ dịch);

Bảo Định Giang (Vị trí của sân khấu tuồng trong đời sống dân tộc ta);

Điện ảnh: (Quay cảnh bắn máy bay tại mặt trận Điện Biên Phủ), Nguyễn Phan (Những hình ảnh đầy tình đoàn kết quốc tế qua phim ‘Lao động năm châu với miền Nam anh dũng);

Ngô Đình Chương (Tranh trổ giấy);

thơ vui: Tạ Kim Hùng (Còn lại ba ông), Quý Yến (Nứa…đội mũ).     

‒ Trong tháng 12: Tạp chí văn học  s. 6 (tháng 12/63) (s. 48):

Phan Nhân (‘Từ tuyến đầu Tổ quốc’, một tập thơ có sức rung động hàng triệu trái tim);

Như Thiết (Vài suy nghĩ về vấn đề phản ánh cái xấu trong văn học);

Nguyễn Bắc (Xã hội cũ trong tiểu thuyết ‘Đống rác cũ’ của Nguyễn Công Hoan);

Thành Duy (Đọc ‘Đất nước’ của Mai Ngữ);

Triêu Dương (Phê bình cuốn ‘Phê bình văn học’ của Chế Lan Viên);

Vân Thanh (Truyện viết cho thiếu nhi gần đây);

Song Nguyện (Tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Đình Lạp);

Trương Chính (Nguyễn Du viết ‘Truyện Kiều’ vào lúc nào?);

Cao Huy Đỉnh (Đề tài ‘dũng sĩ diệt đại bàng’ trong một số truyện Đông Nam Á);

Phùng Văn Tửu (Văn học thời đại Ánh sáng);

Tư liệu tham khảo: (Về cuộc tranh luận xung quanh vấn đề ‘từ cái cũ rút ra cái mới’ trong hý khúc Trung Quốc, Vân Hồ dịch);

Nguyễn Đức Vân (Quan niệm văn học của một số nhà nho Việt Nam).

‒ Trong tháng 12: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 12/63:

Ký: Nguyễn Minh Châu (Ghi chép ở đại đội);

truyện: Hữu Mai (Pha-đin);

truyện ký: Thanh Giang, Lưu Ngọ, miền Nam gửi ra (Một tên sem đầm Hoa Kỳ mới được mở mắt);

thơ: Vũ Cao (Nhân một ngày kỷ niệm), Xuân Sách (Tiểu đội chúng tôi), Lê Ngọc Diệp (Thư về), Lương Sĩ Cầm (Lũ; Suối; Cầu), Hoàng Minh Chính (Qua sông Công), Trần Nguyên Đào (Thư bố), Huyền Kiêu (Gieo lúa trên quê mới);

Lăng Phong, Lâm Thiên,TQ. (Những mẩu chuyện về Mao Chủ tịch);

truyện ngắn: Nguyễn Trọng Oánh (Thuyền), Đỗ Chu (Mùa cá bột), Mai Vui (Vạn);

những đoạn văn ngắn: Thiếu Ngân (Đi khai hoang), Thạch Đăng (Quả trứng gà);

ca dao Hữu Thỉnh, Nguyễn Đình Quảng, Trần Nghệ, Đức Tình;

lý luận-phê bình: Hồ Nhị Quang (Quân khu Tả ngạn đã tiến hành cuộc vận động viết hồi ký như thế nào?); Nguyễn Quyết (Viết lại chuyện chiến đấu trước đây là trả dần món nợ lịch sử); Lê Lựu, Hải An (Bước đầu tập viết); Nguyễn Đức Toàn (Nói chuyện âm nhạc: Đệm đàn trong khi hát); Quang Thọ (Tìm hiểu hội họa: Ký họa và phác thảo); Nhị Ca (‘Đống rác cũ’, một cuốn tiểu thuyết có hại); Kobayashi Takiji (Chiến tranh và văn học, Doãn Trung dịch);       

Trong năm 1963 đã xuất bản:

TIỂU THUYẾT, TRUYỆN

Ánh lửa hàn (tập truyện) Xuân Cang, Nguyễn Thế Hội, Phùng Văn Ong (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Chị cả Phây (tập truyện ngắn) Ngô Ngọc Bội (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Dòng nhật ký đầu tiên (tập truyện ngắn) Hoàng Hiền, Tạ Vũ, Huy Hoàng, Vũ Hóa, Nguyễn Văn Chuông (H. : Nxb. Thanh niên, 1963)

Đất lửa (tiểu thuyết) Nguyễn Quang Sáng (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Đất nước (tập truyện ngắn) Mai Ngữ (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Đồng tháng năm (tập truyện ngắn) Nguyễn Kiên (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Đống rác cũ (tiểu thuyết) Nguyễn Công Hoan (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Gạch men màu trắng (tập truyện) Nhật Tuấn, Cầm Giang, Trần Công Nghị,...  (H.: Nxb. Lao động, 1963)

Gánh vác (tập truyện ngắn) Vũ Thị Thường (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Ngày xuân (tập truyện ngắn) Vũ Tú Nam (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Nhãn đầu mùa (tiểu thuyết) Xuân Tùng, Trần Thanh (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Phá vây (tiểu thuyết) Phù Thăng (H. : Nxb. QĐND, 1963)

Rừng sâu (tập truyện) Nguyễn Xuân Khánh (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Sương tan (tập truyện ngắn) Hoàng Tiến (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Tầm sáng (tập truyện ngắn) Huy Phương (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Thuyền trưởng (tập truyện ngắn) Nguyễn Trinh, Thảo Đường (H.: Nxb. Lao động, 1963)

Tiếng gọi (tập truyện về gia đình và tình yêu) Nguyễn Kiên, Nguyễn Hà Sơn (H. : Nxb. Phổ thông, 1963)

Trong gió bão (truyện ngắn) Nguyễn Thành Long (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Vào đời (tiểu thuyết) Hà Minh Tuân (H.: Nxb. Văn học, 1963)

− Xóm mới (tập truyện ngắn) Hồ Phương (H. : Nxb. Văn học, 1963)

TÁC PHẨM THỂ KÝ

Bạn bè ta ở khắp năm châu (bút ký) Nguyễn Văn Hiếu (H. : Nxb. Văn học, 1963)  

Bất khuất, T. 1 (truyện truyền thống) Lê Phương (H.: Nxb. Lao động, 1963)

Chim rừng địa chất (tập bút ký) Lý Biên Cương, Châu Diên, Chính Yên, Trần Tri Cảnh, Đinh Phong Nhã (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Chuyện làng (tập truyện và bút ký) Hoài An (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Đất vàng đất bạc (tập bút ký) Huyền Kiêu, Bút Ngữ, Hữu Thọ, Phan Quang (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Đã thấy hướng đi (truyện chiến sĩ thi đua ngành thương nghiệp Hải Phòng Nguyễn Thị Kính) Giang Tấn (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Đường nước qua (truyện ký) Phùng Nhân (H.: Nxb. Lao động, 1963)

Hạt ấm hạt no (tập bút ký) Tô Hoài, Xuân Trình, Hồng Vũ, Thanh Hương, Trần Minh Tân (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Loạt vũ khí đầu tiên (hồi ký về lực lượng vũ trang cách mạng) về Ngô Gia Khảm, Nguyễn Phú… (H.: Nxb. QĐND, 1963)

Lửa cháy Cát Bi (hồi ký về lực lượng vũ trang cách mạng) Nguyệt Minh, Lâm Phương, Văn Đạt, Chu Phác, Mai Vui (H. : Nxb. QĐND, 1963)

Một lòng với Đảng (hồi ký cách mạng) Hoàng Thị Ái kể, Ngọc Tự ghi (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Thăm Trung Quốc (tập bút ký) Chế Lan Viên (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Trên những nông trường (tập bút ký) Bùi Hiển, Bùi Minh Quốc, Ngô Quân Miện... (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Trước chiến luỹ mới (bút ký, chuyện thanh niên tiến quân vào khoa học kỹ thuật) Đinh Chương, Hồ Dzếnh, Lê Minh Châu, Nguyễn Trung Hà,... (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Từ tuyến đầu tổ quốc (những bức thư từ miền Nam gửi ra) nhiều tác giả (H. : Nxb. Văn học, 1963) 

− Vỡ tỉnh (tập truyện và bút ký) Tô Hoài (H. : Nxb. Văn học, 1963)

− Vừa đi đường vừa kể chuyện (chuyện kể) T. Lan (H. : Nxb. Sự thật, 1963)

KỊCH BẢN

A Nàng (kịch thơ) Lộng Chương (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Bông mẫu đơn (tập kịch ngắn) Hoài Anh, Nguyễn Thuần, Nguyễn Trung Nhi (H. : Nxb. Thanh niên, 1963)

Con lợn giống  (kịch vui một màn) Hoàng Thọ (Nghệ An: Ty Văn hoá Thông tin Nghệ An xb., 1963)

Đường về Nam (truyện phim) Nguyễn Văn Bổng (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Mẹ người thuỷ thủ  (kịch ba hồi) Nguyễn Hoàng (H. : Vụ nghệ thuật sân khấu xb. , 1963)

Lúa đọt trai (kịch nói một màn) Hoàng Thọ (Nghệ An: Ty Văn hoá Thông tin Nghệ An xb., 1963)

Nguyễn Hữu Cầu (kịch thơ, giải nhì cuộc thi kịch bản của Hội nghệ sĩ sân khấu năm 1962) Lê Hải (H.: Vụ nghệ thuật sân khấu xb. , 1963)

Thay trời làm mưa  (kịch dân ca một màn) Nguyễn Hùng (H.: Vụ nghệ thuật sân khấu xb., 1963)

Thói cũ (kịch nói 5 màn) Trần Vượng (H.: Nxb. Văn học, 1963)

THƠ, TRUYỆN THƠ

Anh hùng Vũ Thị Mùi (diễn ca) Vân Đài (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Bài thơ cuộc đời (tập thơ) Huy Cận (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Chị Minh Khai  (truyện thơ) Trần Hữu Thung (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Có thể nào yên? (tập thơ đấu tranh thống nhất) Huy Cận, Ngọc Diệp, Xuân Diệu, Trinh Đường, ... (H. : Nxb. Phổ thông, 1963)

Du kích sông Loan (trường ca) Xuân Hoàng (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Hai nửa yêu thương (tập thơ) Tế Hanh (H. : Nxb. Văn học, 1963)

− Một đôi vần (tập thơ) Hoàng Văn Hoan (H. : Nxb. Phổ thông, 1963)

Mở cửa bảo nhau  (thơ ca vui về công nhân) Lã Vọng, Thái Dương, Nguyễn Bảo,.... (H. : Nxb. Phổ thông, 1963)

− Ngọn lửa nhỏ (tập thơ) Phác Văn (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Người mẹ năm tốt  (diễn ca) Vân Đài (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Những ánh sao mai (tập thơ về các anh hùng liệt sỹ thanh niên) Tế Hanh, Phạm Hổ, Minh Huệ...  (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Những tiếng thân yêu (tập thơ) Khương Hữu Dụng (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Rừng chông (thơ đả kích Mỹ-Diệm) Xích Điểu, Nguyễn Đình, Nghĩa Giang, Nam Hương, Đoàn Hân (H. : Nxb. Phổ thông, 1963)

Tập thơ tình yêu  (sưu tập) Tố Hữu, Bạc Văn Ùi, Cầm Vinh Ui,...  (H. : Nxb. Thanh niên, 1963)

Tiếng hát miền Nam, t. 2 (tập thơ từ miền Nam gửi ra) tác giả: Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn, Thanh Kỳ, Liên Nam… (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Tình nguyện (tập thơ) Lưu Trùng Dương (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Tôi yêu tiếng mẹ (tập thơ) Nguyễn Hải Trừng (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Tơ tằm, chồi biếc (tập thơ) Cẩm Lai, Xuân Quỳnh (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Trong đêm khuya miền Nam (truyện thơ) Phạm Hổ (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Trong nhà tù lớn (truyện thơ) Lưu Trùng Dương (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Tung còn và  Suối đàn (tập thơ) Nông Minh Châu và Triều Ân (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Rừng chông (thơ đả kích Mỹ-Diệm) Xích Điểu, Nguyễn Đình, Nghĩa Giang,...  (H. : Nxb. Phổ thông, 1963)

VĂN HỌC CHO THIẾU NHI

Anh em anh chàng Lược (truyện) Vũ Cao (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Ánh đèn biển trên hải đảo (truyện) Hà Ân (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Bê và sáo (truyện) Phạm Hổ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Cái hầm bí mật (truyện) Xuân Sách (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Câu chuyện trên đầm Đông (tiếp theo "Bí mật ở miếu ba cô") Văn Trọng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Cậu bé mồ côi (truyện) Phạm Hữu Tùng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chiếc mũ kỳ lạ (truyện) Trần Thạch Anh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chuyện chú mèo trồng cây (truyện) Hoàng Sĩ Tiếp (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Con bò mộng của tôi (truyện) Bùi Bình Thi (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Con gái người bán chim (truyện) Nguyễn Kiên (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Cô bé mê truyện (truyện ngắn) Thy Ngọc (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Đèn kéo quân (thơ) Nguyễn Bao, Định Hải, Thanh Hào.... (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Đứa con (truyện) Xuân Tửu (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Em bé và bông hồng (truyện ngắn) Trần Hoài Dương (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Gánh xiếc lớp tôi  (truyện ngắn) Viết Linh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Giữ lấy bầu mật (truyện) Vũ Hùng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Hải đảo xa xôi (truyện ngắn) Hải Hồ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Kim Đồng  (kịch bản phim) Tô Hoài (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Món quà gửi chị (kịch ngắn một hồi) Trúc Lâm (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Mùa bóng bưởi (truyện) Văn Linh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Nắm lá cơi (truyện) Vũ Dương Qũy (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Nghĩa quân sông Đà (truyện lịch sử) Mai Hanh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Ngựa bay (chuyện cổ tích miền núi Việt Nam) Hồng Hải, Ân An, Phan Bắc (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Người lão bộc của Vua Quang Trung (truyện) An Cương (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Nhụy Kiều tướng quân (truyện) Yên Hồng, Hoài Ban (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Núi Ngọc (kịch) Lê Anh Tâm (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Pháo đài trên đồng nước (kể chuyện cuộc khởi nghĩa Ba Đình) Mộng Lục (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Vừ A Dính (truyện) Tô Hoài (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

* **

Chiếc máy điện thoại (truyện, N. Nosov, 1908-76, Ukraina, LX.) Trần Khuyến dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chiếc máy lặn diệu kỳ  (truyện ngắn, G. Ku-lê-vích, Ghê-ooc-ghi) Lê Vũ Bình lược dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chiếc nhẫn bằng thép (truyện, K. Paustovsky, Nga, LX.) Nguyễn Thụy Ứng dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chim gõ kiến đỏ (chuyện công nhân nhi đồng Mỹ, Gơ-li-ep Cô-ma-rốp-ski, Ni-cô-lai Cô-ma-rốp-ski) Ngô Đức Thọ dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chú bé An-đơ-rây (truyện, N. Ghep-pi-u-xơ) dịch: Trần Thị Nhâm (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chú bé sao băng (truyện đồng thoại, Oscar Wilde, 1854-1900, Ireland) Nắng Mai Hồng phỏng dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Chú người gỗ (1880, truyện, Carlo Collodi, 1826-1890, Italia) Hoàng Hiệp Anh dịch (H.: Nxb. Kim đồng, 1963)

Con cá có mỏ (truyện cổ tích Căm-pu-chia) Văn Hải kể (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Cuộc gặp gỡ kỳ lạ của chú chó Pu-khơ  (truyện dài, Tiêu Kiến Đình, Kim Vĩ, TQ.) Lê Vũ Bình dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Cuộc mạo hiểm khác thường của nhà du lịch trứ danh Pê-chia và hai con chó Mích và Múc (tập truyện tranh, V. Bê-lô-sec-cốp-xki, I.-U. Na-xtơ-nhi-cốp, I. Xê-mô-lốp...) Nguyễn Quốc Chính dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Dàn nhạc lớn (truyện ngắn, A. Bích-chen-tai-ép) Hồ Nhật Hồng dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Khúc ca buổi sáng (truyện, I-van A-ra-mi-lep) Nắng Mai Hồng dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Mao Chủ tịch thời niên thiếu (biên dịch) Phan Mai (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Một ngày không bình thường (truyện, Cảo Hướng Chân, Mạnh Tả Cung, TQ.) Phan Văn Các dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Nàng công chúa (tập truyện, Y .Ku-ra-nốp, L. Lê-man, S. Ku-lia-bin,...) Hồ Nhật Quang dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Người chỉ huy (truyện ngắn, Vô-rôn-cô-va) Trường Giang dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Quả dưa chuột (truyện ngắn, N. Nosov, LX.) Trần Khuyến dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Quả thông kỳ diệu (truyện cổ tích, K. Pô-lia-cô-va) Hoàng Anh trích dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

Trường học dũng cảm (truyện, Arkady Gaidar, 1904-1941, Nga, LX.) Thái Hoàng Linh dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1963)

PHÊ BÌNH, LÝ LUẬN, NGHIÊN CỨU

Bàn về văn hóa và văn nghệ (tập hợp các bài nói bài viết) Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh (H. : Nxb. Văn hóa-nghệ thuật, 1963)

Bàn thêm về viết hồi ký (sách hướng dẫn sáng tác) Xuân Thiêm, Trần Đĩnh, Doãn Trung, Nhị Ca, Hồ Nhị Quang (H.: Nxb. QĐND, 1963)

Dao có mài mới sắc (bút ký, tiểu luận, phê bình) Xuân Diệu (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Đẹp (tiểu luận mỹ học) Vũ Khiêu (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Đường vào nghệ thuật (tiểu luận) Tố Hữu, Lưu Hữu Phước, Hồng Chí... (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Lịch sử văn học phương Tây, t. 1 (giáo trình giảng tại các trường đại học Tổng hợp và Sư phạm) Đỗ Đức Hiển (chủ biên), Trần Duy Châu, Nguyễn Trung Hiếu...biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1963, Tủ sách Đại học tổng hợp và sư phạm)

Lịch sử văn học phương Tây, t. 2 (giáo trình giảng tại các trường Đại học Tổng hợp và Sư phạm)  Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Ngọc Ban, Hoàng Nhân biên soạn  (H. : Nxb. Giáo dục, 1963, Tủ sách Đại học Tổng hợp và Đại học sư phạm)

Lịch sử văn học Việt Nam: Sơ giản (biên soạn) Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong (H.: Nxb. Khoa học, In lần thứ 2 có bổ sung và sửa chữa, 1963)

Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, t. 1: Văn học dân gian (giáo trình) Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn ... biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1963, Tủ sách Đại học sư phạm Hà Nội)

Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi  (tập hợp các bài viết nhân kỷ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất) Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, ....  (H. : Nxb. Khoa học, 1963)

Người bạn đọc ấy (tiểu luận, hồi ký) Tô Hoài (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Những nhiệm vụ mới của văn học (một số báo cáo và tham luận tại Đại hội lần thứ hai Hội nhà văn VN) Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thế Phương, Xuân Cang, … (H. : Nxb. Văn học, 1963) 

Sức sống của ngòi bút (bút ký, tiểu luận) Nguyên Hồng (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Tìm hiểu nghệ thuật tuồng (tiểu luận) Mịch Quang (H. : Nxb. Văn hóa-nghệ thuật, 1963)

Tìm hiểu tính cách dân tộc (chuyên luận) Nguyễn Hồng Phong (H. : Nxb. Khoa học, 1963)

Vươn lên cho kịp đời sống (một số báo cáo và tham luận tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ ba) của Hoàng Minh Giám, Vũ Quốc Uy, Bảo Định Giang, Nguyễn Đình Thi, Nông Quốc Chấn (H. : Nxb. Văn hóa-nghệ thuật, 1963)

SÁCH TẬP HỢP NHIỀU THỂ TÀI

Ở biển (tập thơ văn) của Tế Hanh, Nguyễn Xuân Thâm, Dương Đình Hy, Bùi Hiển, Xuân Hoàng (H. : Nxb. Văn học, 1963)

TUYỂN TẬP, SƯU TẬP

Ca dao sưu tầm ở Thanh Hoá (sưu tập) Hoàng Tuấn Phổ, Đỗ Ngọc Trân, Ngô Xuân Thanh... b.s; Ngọc Khánh chỉnh lý, giới thiệu (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Ca dao Việt Nam trước cách mạng (mới sưu tầm trong những năm 1961-62) (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Chùa Hương (sưu tập thơ) Trịnh Sâm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, v.v…  (Hà Đông: Ty VH-TT Hà Đông xb., 1963)

Dân ca miền nam Trung Bộ, t. 1 2 (sưu tầm, biên khảo) Trần Việt Ngữ, Trương Đình Quang, Hoàng Chương sưu tầm, giới thiệu; lời bạt: Xuân Diệu (H.: Nxb. Văn hóa, 1963)

Hát giặm Nghệ Tĩnh, t. 1. Hạ (sưu tầm biên khảo) Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao (H.: Nxb. Khoa học, 1963)

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập 3: Văn học thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX) Huỳnh Lý (chủ biên), Lê Phước, Nguyễn Sĩ Lâm biên soạn (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập 4: Văn học Việt Nam 1858 – 1930) Vũ Đình Liên, Huỳnh Lý, Lê Thước, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đình Chú biên soạn (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập 5: Văn học Việt Nam 1930-1945) Nguyễn Trác, Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ biên soạn (H.: Nxb. Văn hóa, 1963)

Kịch Nguyễn Huy Tưởng (gồm 4 vở: Vũ Như Tô; Cột đồng Mã Viện; Bắc Sơn; Những người ở lại) (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Một đám cưới (sưu tập truyện ngắn) Nam Cao (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Thánh Tông di thảo (tác phẩm chữ Hán, tương truyền của vua Lê Thánh Tông, 1460-97) Nguyễn Bích Ngô dịch, Nguyễn Văn Tú hiệu đính, Lê Sỹ Thắng giới thiệu (H.: Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

Thơ Tố Hữu (tuyển thơ) lời nói đầu: Chế Lan Viên (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (sưu tập thơ văn) Bảo Định Giang giới thiệu (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện cổ dân gian Việt Nam, t. 1 – 2 (sưu tập) tổ Văn học dân gian Viện văn học biên soạn (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện cổ dân tộc Mèo (sưu tập) Cháng Seo Phử, Cháng A Páo kể; Doãn Thanh, Thương Nguyễn, Hoàng Thao biên soạn (H. : Nxb. Văn hóa-nghệ thuật, 1963)

Truyện cổ Việt Bắc [t. 1] (sưu tầm biên soạn) Hoàng Quyết, Hoàng Thao, Mai Sơn, An Lý, Đỗ Thiện (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

Truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa (truyện Nôm khuyết danh) Nguyễn Thạch Giang giới thiệu, chú thích (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện thơ Mường (gồm các truyện: Út Lót – Hồ Liêu; Nàng Nga – Hai Mối; Nàng Ởm – Chàng Bồng Hương; Nàng Con Côi) Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân sưu tầm, giới thiệu (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện Từ Thức (sưu tầm, biên khảo) Vũ Ngọc Khánh khảo đính, giới thiệu (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Trường ca Tây Nguyên (sưu tập, biên dịch, gồm 6 bản: Xing Nhã, Đăm Di, Khinh Dú, Đăm Đơ-roan, Y Ban, Y Prao) Y Ngông Niêkđăm giới thiệu, Y Điêng, Y Yung, Kso Blêu, Ngọc Anh dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Tuyển tập ký sự (các tác phẩm thể ký) Nguyễn Huy Tưởng (H. : Nxb. Văn học, 1963)

DỊCH THUẬT VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Anna Karenia, t. 1 (1873-77, tiểu thuyết L.N. Tolstoi, Nga) Nhị Ca, Dương Tường dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Bài ca sư phạm, tập 3 (1933-36, A. S. Makarenko, Nga, LX.) Hướng Minh dịch qua tiếng Pháp (H.: Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

Bản nhạc tăng-gô (tập truyện ngắn, G. Karaslavov, 1904-80, Bulgaria) Dương Quý Ngọc dịch (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Bến sáng (1949, truyện, Vera Fedorovna Panova, LX.) Lê Hà dịch từ tiếng Pháp (H. : Nxb. Văn học, 1963)

− Cạm bẫy (1937, tiểu thuyết, Leon Kruczkowski, 1900-62, Ba Lan) Đỗ Nguyễn, Công Vũ dịch, Tô Chương hiệu đính (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Căn cứ nguyên tử (1948, tiểu thuyết châm biểm, Halldor Laxness, Iceland) Trọng Kha dịch từ bản dịch tiếng Pháp (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Chiến sĩ Mácxim (1952, truyện, Ivan Stadnjuk, Nga, LX.) Nguyễn Ngọc Lư, Lê Anh dịch (H. : Nxb. Quân đội nhân dân, 1963)

Chuông nguyện hồn ai, t. 1 – 2 (1940, tiểu thuyết của Ernest Hemingway, Mỹ) Nguyễn Vĩnh, Hồ Thể Tần dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Con đường đau khổ, t. 1: Hai chị em (1922, tiểu thuyết, Aleksey Nikolaievich Tolstoi, Nga, LX.) Minh Châu, Hồ Thể Tần, Nguyễn Xuân Thảo dịch, Phạm Thành Vinh hiệu đính (H.: Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

Con đường đau khổ, t. 2: Năm Mười tám (1927-28, tiểu thuyết, Aleksey Nikolaievich Tolstoi, Nga, LX.) Hồ Thể Tần, Nguyễn Xuân Thảo dịch, Phạm Thành Vinh hiệu đính (H. : Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

Con đường đau khổ, t. 3: Buổi sáng ảm đạm (1940-41, tiểu thuyết, Aleksey Nikolaievich Tolstoi, Nga, LX.) Nguyễn Thị Ngọc Anh dịch, Phạm Thành Vinh hiệu đính (H. : Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

Cô bạn đường (tập truyện ngắn Triều Tiên, Kim Bỉnh Huân, Quyền Chính Hùng) Doãn Trung dịch từ tiếng Trung (H.: Nxb. Phụ nữ, 1963)

Cô gái Hiroshima (tiểu thuyết, Roman Kim, LX.) Nguyễn Minh Hoan dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Danh nhân số 702 (kịch 6 hồi, A. Mi-rô-đăng) Thảo Nguyên dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Dũng cảm, t. 1 – 2 (1938, tiểu thuyết, Vera Ketlinskaya, LX.) Phạm Mạnh Hùng, Võ Minh Phú dịch (H.: Nxb. Lao động, 1963)

Emil Zatopek (truyện nhà thể thao Czech của Fr. Kosik) Bùi Tử Liêm dịch từ tiếng Pháp (H.: Nxb. Thể dục thể thao, 1963)

Ê-zốp (Con cáo và chùm nho) (kịch 3 hồi của G. Fi-ghêi-rê-đô, Brasil) Nguyễn Đình Nghi, Vũ Hưng dịch (H. : Nxb. Văn hoá-Nghệ thuật, 1963)

Gia đình (tiểu thuyết, Ba Kim, TQ.) Lê Sơn Hinh, Bùi Hạnh Cẩn dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Gia đình Zhurbin (1952, tiểu thuyết, Vsevolod Anisimovich Kochetov, Nga, LX.) Phạm Mạnh Hùng, Võ Minh Phú dịch (H.: Nxb. Lao động, 1963)

Gô-đan (tiểu thuyết, Premchand, Ấn Độ) Bùi Phụng, Bùi Ý dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Hải âu (1945, tiểu thuyết của Nikolai Zotovich Biriukov, LX.) Hiền Khang, Nguyễn Nhất Thẩm dịch (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

− Hội chợ phù hoa, t. 2, t. 3 (1848, tiểu thuyết, W. Thackeray, Anh) Trần Kiêm dịch (H. : Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

− Hồng lâu mộng, tập 3 – 6 (thế kỷ XVIII, tiểu thuyết, Tào Tuyết Cần, Cao Ngạc, TQ.) bản dịch Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Thọ, Nguyễn Doãn Địch (H. : Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

− Khởi nghĩa, t. 1 – 2 (1932, tiểu thuyết, Liviu Rebreanu, Rumania) Nguyễn Văn Nhàn dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

− Kịch Shakespeare (gồm 5 vở: Romeo và Juliet; Hamlet; Othello; Macbeth; Coriolanus) nhiều người dịch, Nhữ Thành dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

− Kỷ niệm về nhà máy Xen-luy-lô, t. 2 (1952, tiểu thuyết của Igor Newerly, Ba Lan) Hoàng Tuệ dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1963)

− Làm gì? tập 2 (1863, tiểu thuyết, Chernyshevski, Nga) Trương Chính, Vũ Lộc dịch (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Lôi Phong (các bài báo, Trần Quảng Sinh, Quách Mạt Nhược, Ngụy Nguy, TQ.) Thành Châu, Văn Hồng dịch (H.: Nxb. Thanh niên, 1963)

Mật đắng gươm thiêng (1962, kịch nói 5 màn, Tào Ngu, Mai Thiên, Vu Thi Chi, TQ.), Hồ Lãng dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1963)

Mây gió Ha-kô-nê (1951, tiểu thuyết lịch sử, Takakura Teru, Nhật Bản) Hồng Bích Vân, Trương Chính dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Một chỗ đứng dưới mặt trời (1928, truyện, Vera Inber) Giang Tấn dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Một tổ quý tộc (1859, tiểu thuyết, I. S. Turgenev, Nga) Trương Thị Tỉnh dịch từ tiếng Pháp (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Ngày và đêm (1943-44, truyện, K. Simonov) Phạm Hồng Sơn dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Người Bắc Kinh (kịch nói, Tào Ngu, TQ.) Nguyễn Kim Thản dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Người tù ở Ankara (1960, tiểu thuyết, Suad Dervis, 1903-72, Thổ Nhĩ Kỳ) Hoàng Vĩnh Quý dịch qua tiếng Pháp (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

Nhà trên quảng trường (1956, tiểu thuyết, E. G. Kazakevich, 1913-62, Nga, LX.) Nguyên Bình, Hoàng Thao, Trọng Phan dịch (Moskva : Nxb. Ngoại ngữ, 1963, Loại sách các tác phẩm văn học Xô viết)

Nhân dân bất diệt (1942, truyện, V. S. Grossman, 1905-64, Nga, LX.)  (H. : Nxb. Quân đội nhân dân, 1963)

Những cuộc chiến đấu trên đường Volokolamsk (tiểu thuyết, Aleksandr Bek, LX.) Trần Cư dịch (H. : Nxb. QĐND, 1963)

Những ngôi sao ban ngày (1959, bút ký, Olga Bergholtz, LX.) Phan Quang dịch (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Những người chết còn trẻ mãi, t. 1 - 2 (1949, tiểu thuyết, A. Seghers, CHDC Đức) Bùi Hiển, Nguyễn Văn Sỹ, Quang Dũng dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Những người công dân, tập 1- 2 (1954, tiểu thuyết, Kazimir Brandys, Ba Lan) Xuân Bích, Hải Bình, Ngư Phong dịch (H.: Nxb. Lao động, 1963)

Những niềm vui đầu tiên, t. 1 - 2 (1945, tiểu thuyết, K. Fedin, Nga, LX.) Mai Thúc Luân, Trương Xuân Thâm dịch từ nguyên bản tiếng Nga (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

Quan thanh tra (1836, hài kịch năm hồi, Nikolay Vasilyevich Gogol, 1809-1852, Ukraina-Nga) Vũ Đức Phúc dịch từ tiếng Pháp (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Sa đọa (tiểu thuyết, Mao Thuẫn, TQ.) Lê Xuân Vũ dịch (H.: Nxb. Văn hóa, 1963)

Sóng Hạ Môn  (tiểu thuyết, Cao Vân Lâm, TQ.) Chu Thành Châu, Lê Minh Hà dịch (H. : Nxb. Thanh niên, 1963)

Sử ký, t. 1 – 2 (tác phẩm, Tư Mã Thiên, 145/135 – 86 tr. CN) Nhữ Thành dịch (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Tạp văn tuyển tập, t. 1 – 3 (các tác phẩm tạp văn của Lỗ Tấn, 1881-1936, TQ.) Trương Chính dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

Tàu nhà máy cua hộp (tập truyện vừa, Kobayasi Takiji, Nhật Bản) Mai Hồng dịch (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Thơ Attila Jozsef (sáng tác thơ, Attila Jozsef, 1905-37, Hungary) Tế Hanh dịch và giới thiệu (H.: Nxb. Văn hóa, 1963)

Thơ Đường, tập 2 (tuyển, dịch) Nam Trân tuyển thơ, Hoa Bằng, Hoàng Tạo, Tảo Trang dịch nghĩa, chú thích (H.: Nxb. Văn hóa, 1963)

Thơ Langston Hughes (sáng tác thơ, Langston Hughes, 1902-67, Mỹ) Đào Xuân Quý dịch (H.: Nxb. Văn học, 1963)

Trên lưng cọp (tiểu thuyết, Bhatacharya, Ấn Độ) Từ Chi, Đỗ Văn Nhung, Nguyễn Đỗ Hải dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

Truyện Andersen, tập 1 - 2 (sáng tác, Hans Christian Andersen, 1805-75, Đan-mạch) Nguyễn Văn Hải, Vũ Minh Toán dịch, Văn Giang hiệu đính (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện cổ Grim, t. 1 (truyện cổ tích Đức, Jakob Grimm, 1785-1863, Wilhelm Grimm, 1786-1859, biên soạn) Hữu Ngọc dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện ngắn chọn lọc (sáng tác, A. Daudet, 1840-97, Pháp) Trọng Đức, Hoàng Hải, Quý Vỹ, Phạm Gia Liễn dịch (H. : Nxb. Văn hóa, Viện văn học, 1963)

Truyện ngắn Tiệp Khắc (Czech và Slovakia) Dương Tất Từ, Thái Bá Vân dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện dân gian Bulgaria (dịch) Bùi Văn Hiếu, Hoài Dương dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

Truyện dân gian Miến Điện (Myanmar) Minh Trí dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Truyện dân gian Trung Quốc  (chọn, dịch) Thái Hoàng, Bùi Văn Nguyên tuyển chọn và biên dịch (H. : Nxb. Văn hóa, 1963)

Trường học dũng cảm (1930, truyện của A. Gaidar, LX.) Thái Hoàng Linh dịch (H. : Nxb. Kim Đồng, 1963)

Tuyển tập truyện Voltaire (tác phẩm của Voltair, 1694-1778, Pháp) Vũ Đức Phúc, Lê Tư Lành dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Tường ‘Lạc Đà’ (tiểu thuyết của Lão Xá, TQ.) Trương Chính, Phương Văn dịch (H. : Nxb. Văn học, 1963)

Xuân về trên sông Áp Lục, t. 1 - 3 (tiểu thuyết của Lôi Gia, TQ.) Lê Xuân Vũ, Xuân Thương dịch (H. : Nxb. Lao động, 1963)

 

* **

 

Bàn về sự phát triển của quan niệm nhất nguyên về lịch sử (1895, luận văn triết học, Georgiy Plekhanov, 1857-1918, Nga) bản dịch (H.: Nxb. Khoa học, 1963)

Nguyên lý mỹ học Mác-Lênin, Phần 3: Hình tượng nghệ thuật. Nội dung và hình thức trong nghệ thuật. Cái đẹp. Cái bi kịch, cái hài kịch. Các loại hình và thể loại nghệ thuật (biên soạn: Viện lịch sử nghệ thuật, Viện triết học thuộc Viện HLKHLX.) bản dịch Hoàng Xuân Nhị (H.: Nxb. Sự thật, 1963)

Nguyên lý mỹ học Mác-Lênin, Phần 4: về phương pháp nghệ thuật; đặc điểm, tính chất của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (biên soạn: Viện lịch sử nghệ thuật, Viện triết học thuộc Viện HLKHLX.) bản dịch Hoàng Xuân Nhị (H.: Nxb. Sự thật, 1963)

Phê bình phim ‘Chapaev’ (của N.A. Lebedev, D. Poshalevski, LX.) Anh Phú, Hải Đình dịch (H. : Nxb. Văn hóa-nghệ thuật, 1963)

 


 

[1] Phạm Hổ (tường thuật): Đại hội các nhà văn lần thứ II đã khai mạc // Văn học, Hà Nội, s. 233 (11/1/1963), tr. 1, 15, 16

[2] Trong làng … ngoài nước // Văn học, Hà Nội, s. 238 (15/2/1963), tr. 14.

[3] Bài thơ này in lần đầu ở V.H. số 237 nhan đề là ‘Trời biếc’, sau đó V.H. s. 238 đính chính là ‘Chồi biếc’.

[4] Trong làng … ngoài nước // Văn học, Hà Nội, s. 238 (15/2/1963), tr. 14.

[5] Trong làng … ngoài nước // Văn học, Hà Nội, s. 238 (15/2/1963), tr. 14.

[6] Trong làng … ngoài nước // Văn học, Hà Nội, s. 238 (15/2/1963), tr. 14.

[7] Hội nghị Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam // Văn học, Hà Nội, s. 241 (8/3/1963), tr. 2

[8] Hoạt động của giới sân khấu // Văn học, Hà Nội, s. 240 (1/3/1963), tr. 14

[9] H.M.C.: Ngành thơ chúng ta… // Văn học, Hà Nội, s. 244 (29/3/1963), tr. 14, 15.

[10] P.V.: Ngày 15 tháng 3/1963 ở Hội nhà văn // Văn học, Hà Nội, s. 243 (22/3/1963), tr. 3.

[11] Tin: Ngày 16-3-1963 các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu…// Văn học, Hà Nội, s. 234 (22/3/1963), tr. 2.

[12] Hoạt động của nhóm thơ trào phúng // Văn học, Hà Nội, s. 244 (29/3/1963), tr. 15.

[13] P.V., Buổi họp mặt của những cây bút phụ nữ // Văn học, Hà Nội, s. 246 (12/4/1963), tr. 4

[14] Kêt quả cuộc họa thơ ‘Mùa xuân phá ấp chiến lược’ // Văn học, Hà Nội, s. 247 (19/3/1963), tr. 2.

[15] Thông báo của Tòa soạn // Văn học, Hà Nội, s. 247 (19/3/1963), tr. 8.

[16] Thông báo của Nhà xuất bản Văn học // Văn nghệ, Hà Nội, s. 8 (21/6/1963), tr. 3

[17] Văn nghệ khắp nơi // Văn nghệ, Hà Nội, s. 11 (12/7/1963), tr. 18.

[18a]  P.V.: Văn nghệ khắp nơi: Hội nghị của Ban thường vụ Hội nhà văn VN // Văn nghệ, s. 12 (19.7.1963), tr. 19.

[18] Văn nghệ khắp nơi: Sân khấu // Văn nghệ, Hà Nội, s. 14 (2/8/1963), tr. 18; Lộng Chương: Cuộc sống và kịch bản (trích báo cáo tổng kết cuộc thi kịch bản 1962 của Hội NSSKVN) // Văn nghệ, Hà Nội, s. 16 (16/8/1963), tr. 15, 16.

[20] P.V., Hội nghị Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam // Văn nghệ, Hà Nội, s. 23 (4/10/1963), tr. 3.

[21] Tạp chí Văn nghệ quân đội: Thông báo về cuộc thi viết về đề tài lực lượng vũ trang do tạp chí VNQĐ tổ chức từ tháng 10-1962 đến tháng 10-1963 // Văn nghệ quân đội, Hà Nội, s. 12/ 1963, tr. 71.