1970

Tháng 1:

– Ngày 2: tuần báo Văn nghệ  s. 325:

Bút ký: Lưu Quý Kỳ (Ngẩng chào năm 70 của thế kỷ), Hồ Huy (Em bé Sơn Mỹ);

‘Bác Hồ của chúng ta’: thơ: Xuân Thủy (Đinh ninh lời thề), Cảnh Trà (Trăm ngày);

Tiểu luận: Hoài Thanh (Một quyển sách lời sâu ý đẹp: quyển ‘Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ’ của đồng chí Phạm Văn Đồng); Đoàn Đình Ca (Cuba, 11 năm cách mạng, 11 năm văn học);

Truyện ngắn: Trần Kim Thành (Hạt giống);

Phóng sự: Văn Ngọc (Hoàn thành kế hoạch);

Thơ: Lê Hường (Trồng cây xuân; Tiếng ve vui; Đường than; Từ buổi lòng tha thiết yêu em), Quang Huy (Mười hai cô gái truông Bồn; Cha từ khu vườn ấy; Cầu Cấm), Hồ Anh Tuấn (Giai thoại về một hòn đảo; Một tối phim ngoài khơi), Chế Lan Viên (Chùm thơ tứ tuyệt);

Sổ tay người yêu thơ: Vũ Tú Nam (Chiều sâu trong ca dao cổ);

Phỏng vấn về lực lượng sáng tác trẻ: Xuân Cang (Sống và viết ở một vùng công nghiệp), Xuân Sách (Vài ý nghĩ về sáng tác);

‘Người tốt-việc tốt’: Nhật Tuấn (Đường đỏ);

Tin văn nghệ: Mạc Phi (Không ngừng đẩy mạnh hoạt động văn nghệ ở các địa phương);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Phú Xuân (Lấy địch đánh địch), Minh Hải (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Một cuộc ‘đại hội điện ảnh’ ở Mỹ);

Nghệ thuật: Nguyễn Trân (Một triển lãm tranh tượng mang nhiều ý nghĩa lớn); Xuân Bình (Đội văn nghệ xã Tây Mỗ với vở kịch ‘Bánh xe răng’);

– Ngày 9: tuần báo Văn nghệ  s. 326:

Tôn Đức Thắng (Thư chúc mừng năm mới);

‘Bác Hồ của chúng ta’: hồi ức: Thanh Hải (Được Bác chăm sóc, được Bác phê bình); thơ: Vũ Quần Phương (Những phút giây viếng Bác);

Nghị luận: Xuân Trường (Bàn thêm về tính dân tộc trong nghệ thuật);

Bút ký: Triều Dương (Vào mùa đay);

Khái Vinh, Thiếu Mai (Phỏng vấn Ủy viên thường vụ BCH HNV về lực lượng sáng tác văn học trẻ hiện nay);

Thơ: Trần Mạnh Hảo (Lò gạch; Câu chuyện một hố bom; Ngõ nhỏ), Lê Điệp (Vác gạo qua dốc Khỉ), Hồ Xuân Sơn (Nhớ đu quay), Đỗ Vinh (Mưa xuân ở nông trường cam);

Sổ tay người yêu thơ: Lưu Trọnng Lư (Những vần thơ trẻ);

‘Người tốt-việc tốt’: Minh Tú (Người xã viên làm chủ);

Truyện: Bùi Hiển (Hạt vàng);

Phê bình: Trịnh Xuân An (‘Xi-măng’, một bước tiến của Huy Phương);

Tin VN: H. Nh. (Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tú Xương, tại Nam Định, tường thuật);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Phan Xuân Hạt (Tiếng trống và quan tài), Minh Hải (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: ‘Chủ nghĩa bành trướng đồ hộp);

Nghệ thuật: Lê Quốc Lộc (Nghệ thuật đất nung dân gian Đào Thị Sửu); Thanh An (Làm phim ‘Ngọn đèn của biển’);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Văn Kha (Lá đề chạm rồng nổi);

– Ngày 16: tuần báo Văn nghệ  s. 327:

Tường thuật: P.V. (Hội nghị thường kỳ BCH Hội LHVHNTVN);

Nghị luận: Nguyễn Đình Thi (Toàn thể anh chị em văn nghệ sĩ chúng ta xiết chặt hàng ngũ chung quanh Đảng thân yêu, vững bước mạnh mẽ tiến lên,- báo cáo đọc tại Hội nghị BCH Hội LHVHNT VN, 29 – 30/12/1970);

‘Bác Hồ của chúng ta’: thơ Phạm Tiến Duật (Bác ra đi…);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Thơ Tú Xương,- trích bài nói tối 29/12/1970 ở Nam Định tại lễ kỷ niệm 100 năm sinh Tú Xương);

Nghị luận: Xuân Trường (Bàn thêm về tính dân tộc trong nghệ thuật, tiếp);

Truyện ngắn: Nguyễn Văn Chuông (Luồng đạn hình loa kèn);

Truyện: Bùi Hiển (Hạt vàng, tiếp);

Thơ: Xuân Hoài (Tặng La Thị Tám), Trần Nhật Lam (Trong đêm ngọn lửa nói điều chi?; Về một chiếc gương; Năm cả nước hành quân), Nguyễn Phan Hách (Người quen của em), Trường Giang (Con tôi; Giã cốm);

Sổ tay người yêu thơ: Huy Cận (Trong đầm gì đẹp bằng sen);

Trang thiếu nhi: thơ: Khương Hữu Dụng (Thơ ông cháu); văn: Vũ Thị Hương Giang, 12 tuổi (Nhiệm vụ đầu tiên), truyện: Võ Huy Tâm (Đôi vịt đàn);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Tú Mỡ (Đại sứ ‘nhất ỳ nhì xéo’);

Thơ vui: Hồng (Bia hè);

Giới thiệu: Hoàng Thị Đậu (‘Đại phong cầm tre’ /Orge de bambou/ phóng sự về Việt Nam của Pop Simion, Rumania);

Nghệ thuật: Phạm Thị Thành (Diễn xuất và hóa trang các vai thiếu nhi); Phạm Ngọc Trương (Bộ phim truyện ‘Rừng xà-nu’);

– Ngày 23: tuần báo Văn nghệ  s. 328:

‘Bác Hồ của chúng ta’: bút ký: Nguyễn Tạo (Rừng cây đón Bác), thơ: Mai Ngọc Thanh (Người cửa sông);

‘40 năm dưới cờ Đảng’ (cảm nghĩ): Lê Anh Trà (Cảm ơn mặt trời, cảm ơn ánh sáng);

Hồi ký: Trần Bảo (Bước đầu hoạt động, Xuân Cang ghi);

Nghị luận: Nguyễn Đình Thi (Toàn thể anh chị em văn nghệ sĩ chúng ta xiết chặt hàng ngũ chung quanh Đảng thân yêu, vững bước mạnh mẽ tiến lên, tiếp, hết);

Truyện: Bùi Hiển (Hạt vàng, tiếp, hết);

Thơ: Thạch Quỳ (Đá trên đỉnh núi Quỳ; Đám rước tuổi thơ), Đào Nguyễn (Chiều qua đường số 9; Sốt rừng), Vân Long (Chiếc cầu treo; Thành phố trong tranh), Hoài Anh (Việc trăm năm);

Sổ tay người yêu thơ: Văn Thiên (Một bài thơ hay của dân tộc Hơ-rê);

Tin VN: Lữ Huy Nguyên (Nhà xuất bản Văn học tổ chức trao đổi về tiểu thuyết ‘Bão biển’);

‘Người tốt-việc tốt’ (ký): Vũ Tuyến (Người đưa thư);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Phú Sơn (Cơn khốn);

Nghệ thuật: P.V. (Hoạt động sân khấu mừng ngày thành lập Đảng); Thụy Vân (Khi tôi bước lên màn ảnh); Phan Huy (Nhân trường CĐ mỹ thuật mở hội nghị và triển lãm về đề tài công nhân: Đưa lên tranh, tượng những hình ảnh đẹp về người công nhân);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Văn Kha (Liễn gốm men ngọc);

– Ngày 30: tuần báo Văn nghệ  s. 329:

‘40 năm dưới cờ Đảng’: Đỗ Nhuận (Quyết tâm thực hiện đường lối văn nghệ của Đảng), Thế Lữ (Nhớ lại);

Hồi ký: Trần Bảo (Bước đầu hoạt động, Xuân Cang ghi, tiếp);

Thơ: Minh Huệ (Trận địa ngã ba Bến Thủy), Hoàng Trung Thông (Ngọn bút này), Tế Hanh (Di chúc Bác Hồ), Bùi Công Bính (Người cộng sản), Bá Dũng (Thành phố Đỏ), Phạm Tiến Duật (Lửa đèn; Nghĩ về trẻ con trước trận đánh);

Sổ tay người yêu thơ: Vĩnh Mai (Những bài ca bươm bướm);

Truyện: Bế Dôn (Có đi thì đến);

‘Người tốt-việc tốt’ (ký): Thanh Long (Dũng sĩ lái phà);

Tùy bút: Lưu Quý Kỳ (Như người nghệ sĩ tài ba độc đáo …);

Nghị luận: Hà Huy Giáp (Không ngừng nâng cao tính đảng, phát huy cá tính sáng tạo tự do của văn nghệ sĩ);

Nghệ thuật: Lưu Trọng Lư (Tiến tới hội diễn nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp chống Mỹ cứu nước 1970); Nguyễn Trung (Xem lại bộ phim ‘Những chặng đường lịch sử’);

 

– Trong tháng 1: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 1/70 (s. 157):

Văn: Xuân Lộc (Con vẫn hát để Bác nghe); Trần Công Tấn (Bác đến cửa Nhật Lệ); Nguyễn Thi (Sen trong đồng);

Thơ: Nguyễn Thành Vân (Ngàn năm ánh sáng vẫn soi đất này), Liên Nam (Trên rừng núi A Bia), Minh Huệ (Hố bom; Cái xẻng), Nguyễn Quang Hà (Trong những chiếc ba-lô), Thủy Nguyên (Đầu nguồn than), Võ Văn Trực (Từ cửa đình làng), Huy Khoát (Bước tuần tra biên giới);

Ca dao: Sơn Lâm, Xuân Chiểu, Ninh Thanh, Hà Đình Cẩn, Trần Nguyên Dũng, Đặng Minh Sơn;

Nghiên cứu-trao đổi: Trịnh Xuân An (Tại sao ta chưa thể hiện tốt chủ nghĩa anh hùng cách mạng?); Nguyễn Khải (Một bản thu hoạch riêng);

Tháng 2:

– Đầu tháng 2: tạp chí Tác phẩm mới  s. 5 (tháng 1&2/1970):

Hội LHVHNTVN (Thư); Hội nhà văn VN (Thư);

Tiểu luận: Nguyễn Đình Thi (Những chân trời rộng lớn vô hạn); Xuân Diệu (Mùa xuân 40 năm); Xuân Trường (Con đường của văn học);

Nghị luận: Trường Chinh (Về phê bình văn nghệ);

Thơ: Tố Hữu (Theo chân Bác), Anh Thơ (Con đã về nơi Bác ở ngày xưa), Gia Ninh (Chùm thơ dâng Đảng), Nguyễn Xuân Sanh (Bài thơ dâng Đảng), Nông Quốc Chấn (Nặng duyên tơ), Thi Nhị (Hoa tóng tay), Đào Ngọc Phong (Phố Lò Đúc Hà Nội), Phạm Tiến Duật (Trường Sơn đông, Trường Sơn tây; Công việc hôm nay; Nhớ bà mẹ ở Nam Hoành; Qua một mảnh trời thành phố Vinh), Hoàng Trung Thông (Bên bờ Gianh; Chùm hồ tiêu; Cây; Đêm trăng Đồng Hới; Không để anh ngã xuống hai lần);

Hồi ức: Hoàng Ngọc Phách (Học sinh cách mạng), Minh Huệ (Ngọn cờ Bến Thủy), Trần Bảo (Đêm), Nguyên Hồng (Ngày 1/5/1938), Đỗ Quang Tiến (Một ngày mùa xuân), Hoài Thanh (Thêm một lý do để yêu Đảng);

Truyện ngắn: Nghiêm Đa Văn (Ngã ba đất đỏ), Lê Minh (Nắng);

Đời sống văn học: Thu Bồn, Nguyễn Trung Thành (Thư miền Trung), Trương Chính (Nguyễn Trãi, một anh hùng, một nhà thơ);

Phê bình-đọc sách: Phan Cự Đệ (‘Bão biển’, một tác phẩm giàu chất sống và tính chiến đấu); Tô Hoài (‘Cô Bê 20’, truyện, Văn Biển); Đỗ Quang Tiến (‘Từ một trận địa’); Minh Huệ (Sách văn học của chi hội văn nghệ Nghệ An);

– Đầu tháng 2: Tạp chí Văn học  s. 1 (th. 1&2) 1970 (s. 121):

Tôn Đức Thắng (Chúc mừng năm mới);

Nguyễn Khánh Toàn (Lãnh tụ);

Hoàng Xuân Nhị (Nội dung tính đảng cộng sản và tính nhân dân trong văn học cách mạng hiện đại);

’10 năm Tạp chí Văn học’: Đặng Thai Mai (“Tạp chí Văn học” cần cố gắng tiến lên hơn nữa để đáp ứng lại yêu cầu của tình hình mới), Phan Nhân (Mười năm ‘Tạp chí Văn học’), Vũ Đức Phúc (Nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu văn học);

Lê Thị Đức Hạnh (Ảnh hưởng của Đảng đối với sáng tác của Nguyễn Công Hoan trong thời kỳ Mặt trận dân chủ);

Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Cao Xuân Huy, Tú Mỡ, Ca Văn Thỉnh, Trần Văn Giàu, Hoàng Xuân Nhị, Chu Văn, Đặng Thanh Lê, Mịch Quang, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam, Đinh Gia Khánh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (Dưới ánh sáng đường lối văn nghệ của Đảng);

Tế Hanh, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Minh Tấn, Hoàng Xuân Nhị, Trần Văn Giàu, Nam Mộc, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Lộc, Lê Trí Viễn, Nguyễn Công Hoan, Hoàng Trinh, Ca Văn Thỉnh, Trần Văn Hối, Chế Lan Viên, Nguyễn Phường, Phạm Thiều, Hoàng Tiến Tựu, Hoàng Như Mai, Tô Hoài (Những ý kiến phát biểu trong hội nghị thảo luận về bản đề cương cuốn ‘Lịch sử văn học Việt Nam’);

Hoàng Trinh (‘Nước Mỹ bi thảm’ qua cái nhìn của William Faulkner);

Sinh hoạt văn học: Tiên Sơn (Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Trần Tế Xương); Trần Quang Nhật (‘Đẻ đất đẻ nước’, một áng thơ cổ mới được sưu tầm rất có giá trị);

– Ngày 6: tuần báo Văn nghệ  s. 330 (số tết Canh Tuất 1970):

‘Bác Hồ của chúng ta’: Nguyễn Trọng Đắc (Bác về Tảo Dương), Thập Sơn kể, Văn Ngọc ghi (Ấm trà đón giao thừa của Bác), Văn Phan (Một cuộc gặp gỡ bất ngờ với thiếu nhi);

Câu đối: Khương Hữu Dụng, Xích Điểu, Vĩnh Xương;

Truyện ngắn: Nguyễn Phan Hách (Tranh tết);

Thơ: Xuân Diệu (Cành hoa mận; Gửi về hoa mộc), Thanh Hải (Chiến thắng A Xo), Tố Hữu (Theo chân Bác);

Bút ký: Đinh Thành Lê, miền Nam gửi ra (Trong một trạm đường dây); Thanh Huyền (Cái tết Paris);

Giới thiệu: Huyền Kiêu (Ngày xuân Hà Nội, dạo cảnh Thăng Long,- đọc sách ‘Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội’ của Hoàng Đạo Thúy);  

Người Đọc Sách (Ngày tết điểm sách: ‘Trên những nẻo đường’, tập thơ Lê Đức Thọ; ‘Chào xuân mới’, Nxb. Kim Đồng; ‘Đảng cho ta mùa xuân’, tập thơ nhiều tác giả; ‘Thơ Xuân Thủy’; ‘Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc’, tập truyện Nguyễn Trung Thành; ‘Truyện và ký’ Nguyễn Thi);

Tạp văn: Người Vị Xuyên (Một cái tết của Tú Xương); Nguyễn Trân (Ngày tết xem tranh truyện);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Văn Kha (Tượng vũ nữ Chàm);

Trang thiếu nhi: truyện: Trần Hoài Dương (Cây dã hương), Tu-ma-ni-an (Một chuyện lừa vua, Mai Nhi dịch), (Những quả chừm rượu); thơ: Nguyễn Ngọc Ký (Bé Hoa ngồi học), Mỹ Dạ (Nắng), Ngô Viết Dinh (Chùm hoa đỏ), Định Hải (Chồng nụ chồng hoa); 

Khoa học và đời sống: Đinh Ngọc Lân (Bước sang năm thứ 13 của kỷ nguyên vũ trụ);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Nguyễn Đình (Tổng Ních nhại Kiều tự thán), Việt Lang (Ngày xuân đoán bệnh tướng A);

– Ngày 13: tuần báo Văn nghệ  s. 331:

‘40 năm dưới cờ Đảng’: Hội LHVHNTVN (Thư gửi BCHTƯĐLĐVN nhân 30 năm thành lập Đảng); thơ: Tú Mỡ (Nhớ công ơn Đảng), Lưu Trọng Lư (Con đường dẫn tôi đến …);

 ‘Bác Hồ của chúng ta’: Phạm Hổ (Là yêu thương và sức mạnh, là chân lý và niềm thơ,- cảm tưởng khi xem phòng chưng bày ‘Thế giới thương tiếc Hồ Chủ tịch’), thơ Giao Dũng, miền Nam gửi ra (Bác Hồ ơi);

Thơ: Huy Cận (Tổ quốc), Trường Giang (Đôi mắt bồ câu), Cẩm Lai (Hoa mộc), Vũ Châu Phối (Ruộng; Hương cỏ; Ngõ quê), Nguyễn Nguyên Bảy (Ánh sáng; Kỷ niệm về cây quầng quầng), Đinh Lệ Thư (Đêm sao; Tiếng hát xuống đồng);

Sổ tay người yêu thơ: Hà Minh Đức (Chỗ kết thúc của một bài thơ);

Truyện ngắn: Phạm Đức (Mẹ và con), Khương Minh Ngọc (Chiếc móng hổ);

‘Người tốt-việc tốt’: Nguyễn Thị Hạnh (Cô giáo Tứ);

Câu chuyện đăng trên báo chí Sài Gòn: X. (Tại nó);

Phê bình: Cao Nhị (‘Ở xã Trung Nghiã’ của Nguyễn Thi);

Điểm sách: Người Đọc Sách (‘Muôn vàn tình thân yêu’, Nxb. Thanh niên; ‘Giấc mơ của ông lão vườn chim’, truyện, Anh Đức, Nxb. Giải phóng; ‘Trong vành đai Mỹ’, ký sự, Hoàng Lại Giang, Nxb. Giải phóng; ‘Đường phố dậy lửa’, kịch Nguyễn Vũ, Nxb. Giải phóng; ‘Người anh hùng Đồng Tháp’, thơ Giang Nam, Nxb. Giải phóng; ‘Chị Tư Già’, hồi ký Nguyễn Thị Thuận, Lê Minh ghi, Nxb. Phụ nữ);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Vĩnh Xương (Một năm của Ních-xơn), Minh Hải (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Cuộc triển lãm tranh giả);

Nghệ thuật: Bùi Ngọc Trác (Mấy cảm nghĩ khi xem vở ca kịch ‘Lửa Diên Hồng’); Nguyễn Minh (Một vở kịch về Việt Nam ở Chi-lê); Nguyễn Văn Tỵ (Chúng tôi đi vẽ Pắc Bó); Hồng Nghi kể (Ngày tết đi quay phim ở đồi cây ‘Đón Bác’, Trung Sơn ghi); Phan Thanh Nam (Xem đoàn nghệ thuật Lào biểu diễn: Nghệ thuật dân tộc độc đáo, tinh thần cách mạng cao đẹp); Đạm Thủy (Bát Tràng);

– Ngày 20: tuần báo Văn nghệ  s. 332:

Nghị luận: Lê Duẩn (Về cuộc cách mạnh tư tưởng và văn hóa ở miền Bắc nước ta);

‘40 năm dưới cờ Đảng’: nhà điêu khắc Trần Văn Lắm (Con đường dẫn tôi đến với Đảng), nhà thơ Xuân Quỳnh (Những phẩm chất cao đẹp nhất bao giờ cũng thuộc về Đảng, gắn liền với Đảng); 

‘Bác Hồ của chúng ta’: Đoàn Minh Tuấn (Chúc tết Bác, ngâm thơ Bác);

Bút ký: Trần Phương Trà, miền Nam gửi ra (Giải phóng nhà lao Thừa Phủ);

Thơ: Nguyễn Bá Tụ (Ta đi, chào xuân mới), Thi Sảnh (Những ngọn đèn đất), Nguyễn Xuân Thâm (Ghi chép của người đi bể; Chiều nay em…), Trần Bình Minh (Nhớ rừng; Nơi ở chúng tôi), Trường Phước (Rét muộn ở khu B);

Sổ tay người yêu thơ: Xuân Diệu (‘Gabriel Péry’ của P. Éluard);

‘Người tốt-việc tốt’: Ngô Ngọc Bội (Bà Tiền);

Kịch: A. E-la-ghi-na, LX. (Ngôi sao dẫn đường, Vũ Việt dịch);

Phê bình: Lê Văn Long (‘Chuyện bản mường’, tập truyện ngắn Mạc Phi, Hoàng Thao);

Đọc sách: Trang Nghị (‘Nhớ Bác’, tập thơ, Ty VH Thanh hóa xb.), Khái Vinh (‘Lòng đất’, truyện và ký, Nxb. Lao động), Quang Dũng (‘Thắng ngay trận đầu’, Nxb. Phổ thông); 

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Minh Hải (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Nghệ thuật và việc giết người ở Mỹ), Vĩnh Xương (Lời thề Ních-xơn);

Thơ vui: Cân Tiểu Ly (Kiểm kê … con gà);

Nghệ thuật: Lê Huy (Kho tàng âm nhạc dân gian Việt Nam rất phong phú và độc đáo); N. (Một nhạc cụ của ta vào loại cổ nhất thế giới); Nguyễn Long (Gặp nghệ sĩ nhiếp ảnh Thomas Billhard, CHDC Đức); Lê Nguyên (Chiều sâu của một chiến công qua phim ‘Một ngày trực chiến’); Nguyễn Thụ (Trao đổi kinh nghiệm: Đi và vẽ ngay tại chỗ);

– Ngày 27: tuần báo Văn nghệ  s. 333:

‘40 năm dưới cờ Đảng’: Nông Quốc Chấn (Đường sáng);

‘Bác Hồ của chúng ta’: Ngọc Châu (Bác Hồ đi thăm tết);

Ký sự: Huy Bảo (Đường trên sông);

Truyện ngắn: Nguyễn Ngọc Liên (Dọc đường);

Thơ: Vũ Duy Thông (Bè xuôi sông La; Ngọn đèn lò; Bếp lửa anh nuôi), Hồng Nhu (Qua đền Cuông; Khai hoang ở đồng chiêm trũng), Lữ Huy Nguyên (Cây bạch đàn; Lớp học trên thuyền), Xuân Hoàng (Mặt trận đường rừng; Đi học; Làng biển);

‘Người tốt-việc tốt’: Đỗ Văn Phác (Cô gái dũng cảm);

VN phỏng vấn: Khái Vinh, Trang Nghị: (phỏng vấn tổng thư ký Hội NVVN Nguyễn Đình Thi về lực lượng sáng tác văn học trẻ hiện nay);

Về truyện ngắn ’Chuyện một đêm đợi tàu’: BBT Văn nghệ (Cùng bạn đọc); Nguyễn Văn Quang, cán bộ thanh niên Thái Bình (Một cách nhìn méo mó về nông thôn ta); Nguyễn Văn Sự, bộ đội (Chúng tôi rất khó chịu về nhân vật ‘anh bộ đội’ của Đỗ Phú); Nguyễn Thị Vân Anh, giáo viên, Nghệ An (’Chuyện một đêm đợi tàu’ không phản ánh trung thực tấm lòng của nhữnng người mẹ có con đi chiến đấu); 

P.V. (Nhà xuất bản Giải phóng vừa tròn bảy tuổi: 1/1963 – 1/1970);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Hoa Kỳ), Chính Nghĩa (Sòng bạc, lầu xanh); 

Thông tin: Thanh Lê (Những trang sách mới về Việt Nam có tiếng vang mạnh mẽ ở Ba Lan);

Nghệ thuật: Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Các loại hình mỹ thuật: Đồ họa); Nguyễn Huy Hoàng (Nhiếp ảnh thể hiện ‘người tốt-việc tốt’ như thế nào?); Huỳnh Chinh, Tường Sơn, Nguyễn Đắc Nhã, Ngọc Phương, Phùng Huy Bính, Thu Song, Thanh Nghệ, Đắc Nhẫn, Thúy Lan, Công Thành (Sân khấu với năm 1970);

Điện ảnh: Nguyễn Trung (‘Súng đã nổ rồi, Sài Gòn ơi!’);

– Trong tháng 2: tạp chí Văn nghệ quân đội, s. 2/70 (s. 158):

Văn: T. Lan (Những hoạt động chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam của đồng chí Nguyễn Ái Quốc), Hữu Mai (Lịch sử), Hồ Phương (Kỷ niệm mùa xuân), Nguyễn Khải (Người 40 tuổi), Vân Long (Cây đờn của Bác), Vũ Sơn (Những ngôi sao tháng năm), Thao Trường (Chim cắt số 2), Huy Quang (Như cánh hoa rừng), Nguyễn Thành Vân (Câu chuyện một bài thơ), Trương Nguyên Tuệ (Tiếng gọi bắn);  

Thơ: Việt Phương (Người như sự sống mãi sinh sôi), Thanh Tịnh (Giữa một đêm xuân), Nguyễn Trí Việt (Mía), Khương Hữu Dụng (Thơ gởi con trong nớ; Thắc mắc), Nghiêm Đa Văn (Người xích vệ già và thằng cháu đích tôn), Ngô Văn Phú (Cán bộ Đảng), Trần Nguyên Đào (Hàng cây), Minh Thi (Niềm vui sông Gianh), Xuân Miễn (Tiếng hát người cộng sản), Phạm Gia Đạt (Cành tre và mìn vướng), Ngô Linh Ngọc (Voi Ních sầu xuân);

Câu đối tết: Huyền Thanh, Phan Văn Đam, Duy Thảo;

Tháng 3:

– Ngày 6: tuần báo Văn nghệ  s. 334: 

‘Bác Hồ của chúng ta’: Đinh Chương (Chị Chiên lại được gặp Bác), Hồ Thu Ba (Bác Hồ với khách Cuba);

Truyện ngắn: Lê Văn Long (6 giờ kém 15), Huy Hùng (Chim họa mi và người vợ trẻ);

‘Người tốt-việc tốt’: Văn Nhân (Mẹ Lài), Phương Văn (Người y tá ngành địa chất);

Thơ các tác giả nữ: Minh Khanh (Gửi anh), Thúy Bắc (Tiếng hát và người dũng sĩ dưới chân núi Chư Pông), Lý Thị Trung (Bắt sâu), Kiều Ái (Trông con rửa tay), Phương Thúy (Hoa suối đá);

Thơ: Tống Khắc Hài (Trước đình Trà Cổ; Cô giáo đảo Cái Chiên), Lưu Quang Vũ (Mùa xuân lên núi; Lời chào mùa hạ);

Phê bình: Trần Kỳ (Thơ ba đảm đang); Thiếu Mai (‘Từ một trận địa’, tập truyện của Vũ Cao);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Trò chuyện quanh một bài thơ);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Thúy Hồng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Văn chương trần tục), Trần An (936 – chiến thuật mới);

Thơ vui: Hữu Thung (Làm ăn đủng đỉnh), Tạ Xuân Ký (Hỏi cô);

Thơ: Blaga Dimitrova (Lấp hố bom, - bài thơ làm ở Vĩnh Linh; Xuân Diệu dịch);

Thông tin: Dương Tất Từ (Thơ văn Việt Nam ở Tiệp Khắc);

Nghệ thuật: Mịch Quang (Thử bàn về phong cách kịch nói dân tộc); Văn Kha (Vốn nghệ thuật dân tộc: Pho tượng Phật Bồ Tát, một tác phẩm điêu khắc của hơn 900 năm trước); Phan Thanh Nam (Đêm biểu diễn âm nhạc chào mừng ngày thành lập Đảng); Nguyễn Văn Mười (Con đường xán lạn của nghệ thuật tạo hình);

BBT báo ‘Văn nghệ’ (Về cuộc trưng cầu ý kiến bạn đọc);

– Ngày 13: tuần báo Văn nghệ  s. 335:  

‘Bác Hồ của chúng ta’: mẩu chuyện: Nguyễn Phan Hách (Giếng của Bác Hồ…), Bút Ngữ (Bác Hồ đọc báo ‘Thái Bình tiến lên’), Văn Phan (Phải tôn trọng kỷ luật); thơ: Lisandro Otero, Cuba (Bác Hồ, Lê Xuân Quỳnh dịch);

Truyện ngắn: Võ Huy Tâm (Cánh buồm);

Kịch nói: Vĩnh Hà, miền Nam gửi ra (Một trận công đồn);

Thơ: Nguyễn Bao (Một góc hậu phương; Nghe từ tiền tuyến), Trúc Cương (Đêm Trường Sơn; Bản tình ca), Hoàng Thanh Nam (Im lặng);

Trang thơ Quảng Bình-Vĩnh Linh: Xuân Quỳnh (Tuổi thơ của con; Làng biển; Làng; Biển; Gió lào cát trắng);

Phê bình, tiểu luận: Hà Minh Đức (‘Bão biển’, một thành công mới của Chu Văn); Đào Xuân Quý (Những nhà thơ Mỹ và cuộc chiến tranh ở Việt Nam);

Văn thơ đả kích: Bút Tiến Công (Vạch mặt chúng nó: Quảng cáo Huê Kỳ, câu chữ lơ mơ), Thúy Hồng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Văn hóa đô-la), Tú Mỡ (Thay tượng);

Nghệ thuật: Hồng Phi (Mạnh Linh và loại nhân vật của anh); Khắc Tuế (Múa sắc bùa); Lê Toàn (Xem phim ‘Những cô gái Ngư Thủy’); Ngô Huy Quỳnh (Quá trình phát triển của nền kiến trúc dân tộc Việt Nam thực chất là lịch sử của nền kiến trúc dân gian phong phú); Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Các thể loại đồ họa, II); Mai Hồ (Tấn thảm kịch của nước Mỹ);

– Kết quả cuộc thi thơ báo ‘Văn nghệ’  năm 1969: có khoảng 2500 người tham dự  với 13.000 bài thơ gửi về; ban chung khảo gồm Xuân Diệu, Tế Hanh, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Anh Thơ, Chế Lan Viên, Phạm Hổ; kết quả: Giải Nhất: Phạm Tiến Duật (Lửa đèn; Bài thơ về tiểu đội xe không kính; Gửi em, cô thanh niên xung phong; Nhớ); Giải Nhì: Vương Anh (Hoa trong mường; Tình còn tình chiêng; Theo những dấu chân; Một đoạn đường ta qua); Bế Kiến Quốc (Những dòng sông; Mẹ trồng cây trên đường ra tiền tuyến; Theo em); Phan Thị Thanh Nhàn (Xóm đê; Bản mới; Hương thầm); Giải Ba: Vương Trọng (Nằm võng; Hội vật quê tôi; Hoa trẩu); Mã Giang Lân (Trụ cầu Hàm Rồng; Bình minh trên sông); Vũ Châu Phối (Hương cỏ; Ngõ quê); Trần Nhật Thu (Bức tường vỡ đôi; Em sẽ gọi tên ai đầu tiên); Vũ Duy Thông (Bè xuôi sông La; Ngọn đèn lò); Nguyễn Hữu Phách (Cánh đồng 5 tấn Nguyễn Văn Bé; Huy hiệu Bác Hồ); Giải Khuyến khích: Hoàng Trung Thủy (Sau ngày các anh đi); Văn Đắc (Làng sơ tán); Yên Đức (Thung lũng than); Xuân Hoài (Những ngôi sao); Nguyễn Phan Hách (Người quen của em); Nguyễn Đức Mậu (Hòm thư ở trạm bưu điện giao liên); Văn Biển (Sạch làng thơm ngõ; Đôi cánh gà mẹ); Trần Thị Mỹ Hạnh (Tổ làm đường dưới chân núi Ngọc Mỹ Nhân); Ý Nhi (May áo cho con; Sao); Nguyễn Trọng Tuất (Ngõ vàng Cẩm Vân). [1]  

– Ngày 20: tuần báo Văn nghệ  s. 336:  

BCH TƯ ĐLĐVN (Nghị quyết về việc Đoàn Thanh niên Lao Động và Đội thiếu niên tiền phong, Đội nhi đồng được mang tên Bác Hồ); P.V. (Niềm vui và nguồn cổ vũ lớn của thanh thiếu niên, nhi đồng Việt Nam);

Thơ: Nguyễn Tri Tâm (Em ươm cây), Nguyễn Đình Hồng (Những người lột áo quấn chân; Trận đánh áo chưa khô), Hữu Thỉnh (Tắm mưa; Lứa gà con), Cảnh Trà (Mùa dỡ sắn), Trúc Thông (Lời từ biệt bên khung cửa trong đêm);

Sổ tay người yêu thơ: Phạm Hổ (Bình bài ‘Học đánh cờ’ trong tập ‘Nhật ký trong tù’ của Hồ Chí Minh);

Truyện ngắn: Nhật Tuấn (Nhịp triều);

Phóng sự: Ngô Cẩn (Con số có hồn);

‘Người tốt-việc tốt’: Nhật Tuấn (Vượt thác), Thiều Kim Chung (Cô giáo quê lụa);

Đọc sách: Phan Hồng Giang (Một vài hình ảnh về những người đang chiến đấu, - đọc ‘Vòm trời quen thuộc’ của Đỗ Chu), Khái Vinh (Tạp chí ‘Văn nghệ quân đội’ tháng 1-2/1970), Xuân Tửu (‘Hoa nào đẹp nhất’, tập sách tốt viết cho thiếu nhi);

Nghị luận: Nguyễn Kiên (Nguồn cảm hứng của những người làm văn học nghệ thuật, - đọc tập ‘Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ’);

VN (Kết quả cuộc thi thơ báo ‘Văn nghệ’ năm 1969);

Phê bình: Bùi Công Hùng (Những vần thơ hiện thực và tiến bộ ở vùng tạm chiếm miền Nam);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Thúy Hằng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Cải lương xuống dốc, bế tắc trầm trọng), Chính Nghĩa (Ních dọa những gì?);

Thơ vui: Phạm Văn Hy (Trách ai);

Nghệ thuật: Hoàng Văn Bổn (Ghi chép về làm phim ‘Bác Hồ sống mãi’); Xuân Bình (Đội văn nghệ Năm Dân với nghệ thuật chèo); Ngô Huy Quỳnh (Kiến trúc cổ điển Việt Nam trước hết là một nền kiến trúc hiện thực); Hoàng Đan (Suy nghĩ về tính dân tộc trong tác phẩm âm nhạc); Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Các thể loại đồ họa, III);

Khoa học-đời sống: Bs. Khánh Dư (Trái tim với người bác sĩ mổ xẻ);

– Ngày 27: tuần báo Văn nghệ  s. 337:  

‘Bác Hồ của chúng ta’: Hoàng Hải ghi (Hướng về Avóc Hồ, lược ghi hồi ức AHQGP Vai, dân tộc Pakoh), Ngọc Châu (Chúng tôi đón Bác từ Ấn, Miến về);

Truyện ngắn: Tô Nhuận Vỹ, miền Nam gửi ra (Quả trứng vịt);

Tiểu luận: Nguyễn Văn Hạnh (Tình thương ơn nghĩa bao la, - đọc bài thơ ‘Theo chân Bác’ của Tố Hữu);

Đọc sách: Xuân Tùng (‘Núi thề - Hương vườn mẹ’, thơ Quế Anh, Mai Ngọc Thanh, Ty VH Thanh Hóa xb.); Quan San (‘Nhật ký vùng cao’, Tô Hoài, Nxb. Thanh niên); Khái Vinh (Một số tập ‘Người Hà Nội’ gần đây);

Bút ký: Đỗ Đức Thuật (Nhớ nguồn);

‘Người tốt-việc tốt’ (ký): Minh Hải (Niềm vui);

Trang thơ Tế Hanh (Bạn ơi hãy nhớ; Hoa báo mưa; Mùa thu tiễn em; Giếng nước mắt; Con đường; Tơ trắng tơ vàng);

Thơ: Tú Mỡ (Lên lão bảy mươi cảm tác);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Thúy Hằng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Đáng được giải thưởng văn chương), Chính Nghĩa (Giấu vòi, thò đuôi);

Thơ vui: Xuân Long (Những điều …), Tạ Xuân Ký (Nghệ thuật báo cáo);

100 năm sinh V.I. Lenin: B. Polevoi (Sự quan tâm đến mọi người, Phan Hồng Giang dịch);

Rút trong tập thơ ‘Những tiếng hát vì Việt Nam’  xuất bản ở Paris, Pháp (Nguyễn Xuân Sanh dịch): C. A. Leon, Venezuela (Một em bé Việt Nam); Guillevich, Pháp (Đi càn ở Việt Nam); G. Marceli, Algérie (Khúc hát); O. F. Toperac, Thổ-nhĩ-kỳ (Sau một giờ đêm); G. Kin-nen, Mỹ (Cây lúa nghìn năm của thế giới); H. M. Đi-ác-mit, Anh (Việc ấy không động gì đến anh hay sao?);

Nghệ thuật: Tú Ngọc (Góp bàn về tính dân tộc trong âm nhạc); Công Vũ (Bộ phim truyện ‘Cô giáo vùng cao’); Thái Hanh (Nghệ thuật tạo hình phấn đấu phản ánh thật sâu sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam); Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Các thể loại đồ  họa, IV);

– Trong tháng 2: tạp chí Văn nghệ quân đội, s. 3/70 (s. 159):

Văn: Phạm Đức (Tấm huy hiệu Bác Hồ), Nguyễn Trí Huân (Trên một tuyến đường), Lâm Quang Ngọc (Chuyện bên lề những chiến công), Nguyễn Khắc Phục (Ngã ba Vô Tình), Tô Hoàng (Nhìn ra dòng sông), Lê Lựu (Người bến sông), Triệu Bôn (Mầm sống), Đỗ Chu (Trong tầm súng);

Thơ: Bùi Công Bính (Bác Hồ), Tạ Hữu Yên (Trăng Quảng Trị), Thu Bồn (Quê hương), Thân Như Thơ (Bài ca dũng sĩ diệt xe tăng), Gia Dũng (Ga chim), Ngô Văn Phú (Bếp lửa rừng), Phạm Tiến Duật (Ngãng thân yêu), Nguyễn Đức Mậu (), Quang Chuyền (Tấm gương soi), Vương Trọng (Tiếng trẻ học bài), Hoàng Thị Minh Khanh (Anh bay), Xuân Nguyên (Đêm hải cảng), Duy Khán (Những lời kêu gọi);

Ca dao: Năng Hóa, Huy Thập, Xuân Long, N.K., Minh Hiệu;

Nghiên cứu-trao đổi: VNQĐ (Tiến tới tổng kết đợt I cuộc vận động ‘Ghi chép về đề tài chiến đấu chống Mỹ cứu nước’); Vương Trí Nhàn (Cảm nghĩ người mới cầm bút); Hữu Mai (Tâm sự về nghề); Xuân Trình (Kịch nói những năm chống Mỹ); Nguyễn Trân (Những người trẻ tuổi nặn tượng đầu tiên của bộ đội); P.V. (Tin văn nghệ quân đội);

Tháng 4:

– Ngày 3: tuần báo Văn nghệ  s. 338:   

‘Bác Hồ của chúng ta’: AHQĐ Trương Thị Khuê kể (Bác ơi cháu nhớ suốt đời, Phạm Tường Hạnh ghi);

Truyện ngắn: Kim Sơn (Một thử thách);

Thơ được giải báo ‘Văn nghệ’ 1969: Phạm Tiến Duật (Lửa đèn; Bài thơ về tiểu đội xe không kính; Gửi em, cô thanh niên xung phong; Nhớ), Vương Anh (Hoa trong mường; Tình còn tình chiêng), Bế Kiến Quốc (Những dòng sông; Mẹ trồng cây trên đường ra tiền tuyến), Phan Thị Thanh Nhàn (Xóm đê; Hương thầm);   

Phê bình: Khái Vinh (Tác phẩm của Nguyễn Thi, bước tiến lên của nền văn học cách mạng miền Nam);

Tin: P.V. (Sinh hoạt phê bình: Cuộc họp trao đổi về thơ ca ngợi Bác Hồ, về trường ca ‘Theo chân Bác’ của Tố Hữu);

Đọc sách: Mai Hiền (‘Trận đầu thắng Mỹ’, ký, Cửu Long, Nxb. Giải phóng), Hồ Hoa (‘Trận địa quê hương’, Nxb. QĐND);  

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Búa Tạ (Cưỡi hổ);

100 năm sinh V.I. Lenin: L. Radishchev (Một chữ ký trang nghiêm, Vũ Ngọc Bình dịch từ tiếng Pháp);

Truyện: Xay-va-na, Lào (Đàn trâu của Xiềng Phom, Bùi Bình Thi dịch);

Nhân quốc khánh Hungary, 4/4: truyện Giéc-gay San-đô (Gặp gỡ, Lê Xuân Giang dịch), thơ Mi-ha-ly Va-xi (Sức mới, Tế Hanh dịch), Phạm Hổ (Gặp Petofi);

Nghệ thuật: Đỗ Nhuận (Kế thừa và phát triển âm nhạc dân tộc); Đinh Đăng Định (Phấn đấu có nhiều bức ảnh tốt hơn nữa trong năm 1970); Tất Đạt (Sân khấu và con người cùng thời đại); Thanh Nhàn (Đi xông xáo, vẽ say sưa, - về phòng tranh của họa sĩ Văn Giáo);

– Khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4, Ban bí thư trung ương Đoàn TNLĐ HCM tổ chức cuộc gặp mặt những người làm công tác văn nghệ; các bí thư TƯ Đoàn Hồ Trúc, Nguyễn Văn Đệ nói niềm vui của thế hệ trẻ trước việc Đoàn, Đội được mang tên Bác Hồ, đáng giá cao vai trò của văn học nghệ thuật trong việc giáo dục thế hệ trẻ, và nhân đây thông báo việc TƯ Đoàn TNLĐ HCM quyết định đặt một giải thưởng hàng năm, gọi là ‘Giải thưởng văn học nghệ thuật của Đoàn TNLĐ HCM’, mong giới văn nghệ sĩ hưởng ứng. Phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Hội LHVHNTVN Nguyễn Đình Thi cho rằng sự kiện Đoàn TNLĐ, Đội THTP và Đội nhi đồng được mang tên Hồ Chí Minh là vinh dự của mọi lứa tuổi VN, văn nghệ sĩ có trách nhiệm đem kinh nghiệm sống của thế hệ trước truyền cho lớp trẻ, giới văn nghệ đã có những tác phẩm có tác động tốt tới thanh thiếu niên, và tin rằng sẽ có nhiều tác phẩm tốt, xứng đáng với thế hệ HCM. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, nhà văn Bùi Hiển, nhà thơ Xuân Diệu phát biểu, bộc lộ niềm vui nhân sự kiện này. Một đoàn viên thanh niên đang làm thơ là Bằng Việt, một thanh niên bị liệt đôi tay từ nhỏ đã tập viết bằng chân và đang học khoa Văn Đại học tổng hợp là Nguyễn Ngọc Ký, đã nói lên niềm xúc động lớn lao khi nghe tin Đoàn được mang tên Hồ Chí Minh. Bí thư TƯ Đoàn Hồ Trúc kết thúc buổi họp mặt, khẳng định quyết tâm hợp tác giữa Đoàn và giới văn nghệ với mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ thế hệ trẻ. [2]  

– Đầu tháng 4: tạp chí Tác phẩm mới  s. 6 (th. 3&4/1970): 100 năm sing V. I. Lenin:

Nghị luận: Hồ Chí Minh (Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lenin); Lê Duẩn (Về cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa ở miền Bắc nước ta); V. I. Lenin (Lenin nói về văn học, trích dịch);

Ký: Tô Hoài (Tên Người, tên trái đất này);

Truyện ngắn: Bùi Hiển (Chiếc lá);

Thơ: Tế Hanh (Túp lều cỏ); Phạm Hổ (Bức ảnh Lenin); Xuân Hoàng (Lửa Siberie), Nguyễn Văn Toại (Tờ giấy ra vào cửa); Việt Phương (Ta đánh Mỹ vậy thì ta tồn tại; Âm vang); Xuân Quỳnh (Đồi đá ong và cây bạch đàn; Em đến những nơi anh qua; Thời gian đi trong lòng đất); Nguyễn Xuân Sanh (Ngồi trước biển đêm; Con mắt Ba Lan);

Tiểu luận: Đào Xuân Quý (Hình ảnh Lenin trong lòng các nhà thơ Việt Nam); Lê Đình Kỵ (Ánh sáng Lenin và văn học nghệ thuật); Xuân Diệu (Nhà thơ Tú Xương); Kinh nghiệm sáng tác: Nguyễn Công Hoan (Hỏi chuyện Bùi Hiển);

Kịch: N. Pogodin (Khúc cuối cùng bi tráng, Thế Lữ dịch);

Thơ: Zabolotski (Những người thỉnh cầu, Bằng Việt dịch), B. Brecht (Những người thợ dệt Ku-an Bu-lat kỷ niệm Lenin, Tế Hanh dịch), Han Yân Hô (Ba lần gặp gỡ, Thúy Toàn dịch), P. Neruda (Lenin), Michael Gold, Mỹ (120 triệu, Thúy Toàn dịch từ tiếng Nga);

Đọc sách: Phương Lựu (Giang Nam viết có tình, đọc ‘Người anh hùng Đồng Tháp’, Nxb. Giải phóng); Nhị Ca (‘Ở xã Trung Nghĩa’, một tài năng lần nữa tự khẳng định); Vương Trí Nhàn (‘Đường vào thơ’, tập sách phê bình, Lê Đình Kỵ); Đỗ Quang Tiến (‘Xa Phủ’, truyện, Ma Văn Kháng), Xuân Diệu (Cái giá của việc có hòa bình, về tập thơ ‘Le Prix d’ avoir la Paix’, thơ Armand Monjo);

Nghiên cứu: Đào Duy Anh (Về cách phiên âm và phiên dịch ‘Quốc âm thi tập’ và ‘Ức Trai thi tập’);

Văn hóa-nghệ thuật: Tô Sanh (Sân khấu dưới nước của Việt Nam), Lê Tư Lành (Cây đàn đá Việt Nam cổ nhất thế giới);

– Đầu tháng 4: Tạp chí Văn học  s. 2 (th. 3&4) 1970 (s. 122): 100 năm sinh V. I. Lenin:

Hồ Chí Minh (Về chủ nghĩa Lenin và cách mạng Việt Nam, trích);

Vũ Đức Phúc (Lenin và vấn đề văn học dân tộc);

Nguyễn Văn Hoàn (Chủ nghĩa Lenin và việc kế thừa di sản văn học cổ ở nước ta);

M. Kozmin, LX. (Quan niệm về con người và hình tượng Lenin của Gorki, bản dịch);

Hồ Sĩ Vịnh (Ảnh hưởng quyết định của V. I. Lenin đối với thế giới quan marxit của Gorki);

Phạm Ngọc Trương (Hình tượng Lenin trong một số kịch bản phim truyện Liên Xô);

Hoàng Lân (Hình tượng Lenin trong các bài giảng văn ở trường phổ thông và việc vận dụng ý kiến của Người trong công tác giảng dạy văn học);

Sưu tầm: (Thơ ca về Lenin và chủ nghĩa Lenin từ 1926 ở Việt Nam, của các tác giả: Trần Lê Hương, Ngô Đức Mậu, Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Hoan, Đào Duy Kỳ);

Trần Nghĩa (Góp phần tìm hiểu quan niệm ‘văn dĩ tải đạo’ trong văn học cổ Việt Nam);

Phong Lê (Con đường sáng tác của Nguyên Ngọc);

Thạch Phương (Một bộ mặt phản động nấp sau tấm một màn ‘nghệ thuật’);

Trao đổi ý kiến về cuốn ‘Lịch sử văn học Việt Nam’: Huỳnh Lý (Mấy ý kiến về văn học Việt Nam từ 1930 đến nay), Nguyễn Văn Hạnh (Mấy ý kiến về việc viết cuốn ‘Lịch sử văn học Việt Nam’);

Đọc sách: Mai Hà (‘Nguyễn Trãi toàn tập’);

Sinh hoạt văn học: P.V. (Cuộc họp thứ 16 của Ban biên soạn cuốn ‘Lịch sử văn học Việt Nam’); L. B. (Mấy tin quan trọng về sáng tác văn học);

 

– Ngày 10: tuần báo Văn nghệ  s. 339:

P.V. (Văn nghệ phục vụ thế hệ trẻ, tường thuật buổi họp mặt của TƯ Đoàn TNLĐVN với những người làm văn nghệ); Vũ Ngọc Bình (Mười ba năm làm theo lời Bác dạy); Nguyễn Quỳnh (Sách của Nhà xuất bản Thanh niên phục vụ tuổi trẻ);

Bút ký: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Ở xưởng nhỏ một nhà ga), Trần Hoài Dương (Gặp những học sinh Hà Nội);

Truyện ngắn: Trần Quốc Khải (Cô lái máy cày);

Thơ: Nguyên Hồng (Khi sự thật cấy trên trái đất), Nguyễn Vũ Tiềm (Tàu qua làng; Lò Rèn), Sỹ Hồng (Hoa; Qua khung cửa sổ), Phạm Vĩnh (Bài ca Ngọc Mỹ Nhân);

Thơ được giải báo ‘Văn nghệ’ 1969: Vương Trọng (Bài thơ nằm võng), Mã Giang Lân (Trụ cầu Hàm Rồng), Vũ Châu Phối (Hương cỏ); Trần Nhật Thu (Bức tường vỡ đôi); Vũ Duy Thông (Bè xuôi sông La); Nguyễn Hữu Phách (Suy nghĩ trong buổi đón huy hiệu Bác Hồ), Văn Đắc (Làng sơ tán), Yên Đức (Thung lũng than), Văn Biển (Sạch làng thơm ngõ), Ý Nhi (May áo cho con);

Ban Chung khảo (Cuộc thi thơ báo ‘Văn nghệ’ 1969 thành công tốt đẹp);   

100 năm sinh Lenin: Vũ Quang, bí thư thứ nhất TƯ Đoàn TNLĐHCM (‘Tuổi trẻ Lê-nin’, sách của N. Nesvolodova và L. Reznichenko), A. Kollontai (Những ngôi sao, Mai Nhi dịch);

Nghệ thuật: Nguyễn Trân (Lứa tuổi đôi mươi trong nghệ thuật tạo hình); Xuân Phượng (Đi quay những thước phim mừng Đoàn và Đội được mang tên Bác Hồ); Nguyễn Thị Lợi (Câu chuyện điện ảnh: Những ngày tàn của Holywood); Mịch Quang (Kim Cúc và Đàm Liên, diễn viên trẻ ngành tuồng); Thiên Nga-Mai Lan (Tốp ca nữ chúng tôi); Phan Thanh Nam (Đoàn ca múa dân gian Hugary đến thăm nước ta);

– Ngày 12: Hà Nội, buổi tối, tại CLB Đoàn Kết, diễn ra lễ trao giải thưởng cuộc thi thơ và đêm thơ do báo ‘Văn nghệ’  tổ chức; khoảng 300 bạn yêu thơ đến dự; Hoàng Trung Thông thay mặt Ban chung khảo báo cáo kết quả cuộc thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Tế Hanh phát biểu ý kiến; Vương Trọng, Vương Anh, Phan Thị Thanh Nhàn, thay mặt những người trúnng giải phát biểu cảm nghĩ của mình.

Chiều 13/4, Hội nhà văn tiếp các anh chị trúng giải cuộc thi thơ báo ‘Văn nghệ’, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên trò chuyện với anh chị em.

Trước đó, sáng chủ nhật 12/4, tại trụ sở TƯ Đoàn TNLĐHCM, Lưu Minh Châu thay mặt Ban bí thư TƯ Đoàn đã tiếp anh chị em được giải cuộc thi thơ báo ‘Văn nghệ’ 1969. [3]

– Ngày 17: báo Văn nghệ  s. 340 (số kỷ niệm 100 năm sinh V. I. Lenin):

Thơ: Hoàng Trung Thông (Túp lều cỏ của Lenin), B. Brecht (Bài ca nhân ngày kỷ niệm Lenin, Bằng Việt dịch); văn: B. Polevoi (Một con người lạc quan cách mạng, P.H.G. dịch);

‘Bác Hồ của chúng ta’: Nguyễn Niềm (Bác thăm văn công);

Thơ: Hằng Phương (Biết ơn Lenin), Xuân Diệu (Lenin, vầng trán tôi yêu), Hoàng Bình Trọng (Hứa với Lenin), Đỗ Vinh (Tác phẩm Lenin ở một thư viện nhỏ);

Sổ tay người yêu thơ: Tế Hanh (‘Với Lenin’ của Tố Hữu);

Truyện ngắn: Trần Đình Hiệu (Một câu chuyện ngành y);

Bút ký: Hoài An (Say đất);

‘Người tốt-việc tốt’: Hoàng Trúc Long (Bác Lộc);

Tiểu luận: Hoàng Ngọc Hiến (Lenin đánh giá những tác phẩm văn học); Hoài Thanh (Một vài cảm tưởng nhân cuộc thi thơ của tuần báo ‘Văn nghệ’); Anh Thơ (Vài suy nghĩ về những bài thơ dự thi của chị em trẻ); Phan Hồng Giang (Một ít điều ghi chép về Lenin và di sản văn học);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Vĩnh Xương (Ngụy quyền và cái gọi là ‘mục tiểu’ của đến quốc Mỹ);

Nghệ thuật: Yên Thế (Nền điện ảnh cách mạng hình thành và phát triển dưới ngọn cờ của V. Lenin); Phan Huy (Đẹp thay hình ảnh Lenin vĩ đại); Hồng Phi (Tìm hiểu kịch bản sân khấu Xô-viết về Lenin);

Thông tin: Lê Tân (Văn nghệ sĩ Mỹ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam);

– Ngày 21: tọa đàm chuyên đề ‘Lenin về văn học nghệ thuật’ do Hội nhà văn VN, khoa Văn 2 trường ĐH tổng hợp và ĐH sư phạm Hà Nội tổ chức; sau lời khai mạc của Viện trưởng Viện văn học Đặng Thai Mai là các tham luận đề cập đến các vấn đề: Lenin và tính đảng, Lenin và quan hệ giữa văn học và đời sống, Lenin và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, Lenin và vấn đề kế thừa di sản văn hóa quá khứ, Lenin và vấn đề văn học dân tộc, lời dạy của Lenin và việc nghiên cứu văn học phương Tây, quan hệ giưa Lenin và Gorki, Lenin và điện ảnh,…Những ý kiến được chú ý tại tọa đàm là của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, các nhà nghiên cứu phê bình Xuân Trường, Hoàng Xuân Nhị, Vũ Đức Phúc, Trần Đức Hinh. [4]

– Ngày 24: tuần báo Văn nghệ  s. 341:

Tiểu luận: Vũ Khiêu (Nghệ thuật và hiện thực dưới ánh sáng của Lenin); Chế Lan Viên (Giọng suối và chất thép, phát biểu trong lễ trao giải thưởng cuộc thi thơ 1969 của báo ‘Văn nghệ’); Hoàng Trung Thông (Mười năm thơ Quảng Ninh);

Phê bình: Trần Cao (Anh Đức và ‘Giấc mơ của ông lão vườn chim’);

P.V. (Cuộc thi thơ 1969 của báo ‘Văn nghệ’ kết thúc tốt đẹp. Bốn cuộc gặp mặt thú vị);

Thơ: Nguyễn Công Ký (Trận địa; Gặp anh), Trần Lưu (Chung một gian nhà), Hoàng Gia Điền (Những dấu chân đi vào nhà máy), Triều Ân (Giữa mùa cốm), Nguyễn Xuân Khoa (Có một chiều như thế), Trần Thị Mỹ Hạnh (Mái tóc bạch kim), Quốc Tấn (Trưa mùa gặt), Trúc Chi (Kỷ niệm một con tàu);

Sổ tay người yêu thơ: Hoàng Xuân Nhị (‘Không ngủ được’, một trong những bài thơ rất hay của Hồ Chủ tịch);

Ký: Bút Ngữ (Giống lúa mới); Xuân Diệu (Gửi các bạn sinh viên Sài Gòn tranh đấu);

Truyện ngắn: Thụy Vinh (Đàn vịt vàng);

Văn thơ đả kích: Vĩnh Xương (Tướng ‘vận đen’ tống tiễn thằng ‘cả đỏ’), Chính Nghĩa (Lâm nguy cả tớ lẫn thầy);

Truyện ngắn: S. Antonov, LX. (Nguồn nghị lực không cạn, Mộng Quỳnh dịch);

Nghệ thuật: Trần Cao Thụy (Lenin trên màn ảnh); Gondelstein (Lenin với âm nhạc, bản dịch); R. Arolina (Hình tượng Lenin trong nghệ thuật, Phương Thảo dịch); Từ Lương (Xem chương trình kịch ngắn của văn công Quảng Bình); P.V. (Hội diễn nghệ thuật sân khấu chống Mỹ cứu nước năm 1970); Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Các loại hình mỹ thuật. Kiến trúc I); VN. (Những hoạt động văn hóa văn nghệ nhân kỷ niệm 100 năm sinh Lenin);

– Trong tháng 4: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 4/70 (s. 160):

Văn: Lê Quang Hòa (Cờ và hoa của Bác là trách nhiệm là niềm tin); Nguyễn Văn Sáng (Đón Bác về thăm đơn vị); Thanh Giang (Qua cầu Công Lý); Lê Khánh (Cháu ông Hỷ); Nguyễn Minh Châu (Dấu chân người lính);

Thơ: Trương Đức Chính (Bên hồ Razlip), Nguyễn Văn Toại (Bữa ăn ở Pu-chi-lốp), Hoài Anh (Tôi gặp Lenin), Phạm Hổ (Lenin và các cháu), Tế Hanh (Tình chiến đấu), Nguyễn Đình Ảnh (Chiều khu Tư), Bằng Việt (Đêm gió Trường Sơn), Nguyễn Thiều Nam (Kỷ niệm pháo thủ), Bế Kiến Quốc (Trừng phạt), Trang Nghị (Tiếng tâm tình sông Lam), Xuân Hoàng (Người chiến thắng), Lê Điệp (Nhà máy xi-măng trong núi);

Ca dao: Đức Nhi, Nguyễn Công Ký, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Anh;

Nghiên cứu-trao đổi: Nguyễn Hải Hà (Lenin và nền văn nghệ cách mạng của giai cấp vô sản); Thanh Nguyên (Đọc ‘Gia đình má Bảy’ của Phan Tứ); Phạm Sĩ Lộc (Nhìn lại chặng đường qua); P.V. (Tin văn nghệ quân đội); 

 Tháng 5:

– Ngày 1: tuần báo Văn nghệ  s. 342:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Hoàng Như Tiếp (Giới kiến trúc sư VN học tập và làm theo di chúc của Hồ Chủ tịch), Vũ Thơ kể (Được làm việc với Bác về một bài báo, Nắng Mai Hồng ghi), thơ Trần Ninh Hồ (Thơ dâng Bác: Nguyên vẹn; Đá; Thăm nơi Bác nấu cơm năm 1941; Thời gian của Bác);

Truyện ngắn: Nguyễn Hồng Quang (Bác thợ và cô gái); Tô Nhuận Vỹ, VNGP (Chuyến tuần tra đầu tiên);

Bút ký: Ngô Ngọc Bội (Chị Duyên);

Thơ: Hoàng Gia Điền (Lá thư gửi về trường cũ), Châu La Việt (Tuổi trẻ Trường Sơn), Đoàn Tri Kế (Quê em), Liên Nam, VNGP (Muối), Lê Quang Thịnh (Quả bom nổ chậm USA), Lương Hồng (Vết nghệ), Nguyễn Tri Tâm (Con mắt núi Hoàng Liên);

Sổ tay người yêu thơ: Vĩnh Mai (Một hình ảnh mới của tuổi trẻ,- về bài ‘Gửi em cô thanh niên xung phong’ của Phạm Tiến Duật);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Tiến lên một chặng mới của sáng tác thơ); Tế Hanh (Thơ bốn năm chống Mỹ của Nam Hà);

Đọc sách: Võ Hữu (‘Dòng than mới’ và những bạn viết vùng mỏ), Minh Hải (‘Cuộc tấn công chiến lũy thép’, Lê Liêm, Nxb. Kim Đồng tái bản), Khái Vinh (Qua các tạp chí: ‘Tác phẩm mới’ s. 5)

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Vĩnh Mai (‘Tri ân’);

Nghệ thuật: Hồ Bắc (‘Sách hát Việt Nam’, một cuốn sách từ Mỹ gửi sang); Huy Thu (Lenin với nghệ thuật nhiếp ảnh); Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Kiến trúc II: Thẩm mỹ trong kiến trúc); Lê Trọng Sâm (Việc làm có ý nghĩa nhất,- về việc Nhà hát kịch nói VN dựng vở ‘Đồng hồ chuông điện Kremli’ của N. Pogodin); Phan Thanh Nam (Đoàn nghệ thuật Liên Xô sang thăm Việt Nam);

Khoa học-đời sống: Nguyễn Duy (Vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam);

– Ngày 8: tuần báo Văn nghệ  s. 343:

Chính luận: Tô Hoài (Tình đoàn kết chiến đấu chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia muôn năm!);

‘Bác Hồ của chúng ta’: Huỳnh Huy Phượng (Bác vẫn sống trong trái tim văn nghệ sĩ thế giới);

Tin: Ban VHNN Viện văn học (Tọa đàm về Lenin và văn học nghệ thuật);

Thơ: Anh Chi (Lê-nin), Gia Ninh (Cánh tay), Quang Hoài (Anh lái xe người Mèo hoa), Nguyễn Chương Hữu (Vào mẩy), Lê Đình Cánh (Xe thồ tỉnh Thanh), Trương Công Tường (Giấc mơ địa chất), Trần Dân (Gửi Việt Trì);

Truyện ngắn: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Những năm sau), Nguyễn Thế Phương (Người vợ);

‘Người tốt-việc tốt’ (ký): Văn Ngọc (Cải tiến lò gạch);

Tiểu luận: Huỳnh Lý (‘Ngục trung nhật ký’, bức tranh thu nhỏ một chế độ, nhật ký của một tâm hồn tuyệt đẹp);

Ý kiến một số bạn được giải thưởng cuộc thi thơ 1969 báo ‘Văn nghệ’: Vương Trọng, Phan Thị Thanh Nhàn, Vương Anh;

Đọc sách báo: (‘Bông cẩm thạch’, Nguyễn Sáng, Nxb. Giải phóng); Khái Vinh (Qua các tạp chí: ‘Tạp chí Văn học’ s. 1/1970);

Văn thơ đả kích: Công Kích (Chuyện Huê Kỳ), Phú Sơn (Số phận béc-giê), C.S. (Mồm không cướp nhưng tay cướp), Thu Hằng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Thật là quá loạn);

Thông tin: Từ Dương (Nhìn lại một số tác phẩm văn học Tiệp Khắc viết về cuộc đấu tranh chống phát-xít);

Thơ: V. Nezval (Mùa hái nho; Vladislav Vansura, Đào Xuân Quý dịch; Người thất nghiệp; Các anh đến như đoàn quân xung kích; Dù đồng chí là ai, Dương Tất Từ dịch);

Nghệ thuật: Nguyễn Văn Tỵ (Lê Thanh Đức và nghệ thuật đồ họa); Đức Kôn (‘Người Dao xuống núi’, một vở chèo thành công); Trần Đức Hinh (‘Tiền tuyến gọi’, từ kịch nói sang điện ảnh);

– Ngày 15: tuần báo Văn nghệ  s. 344:

Hội LHVHNTVN (Tuyên bố về việc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương); P.V. (Những tiếng nói căm phẫn và tin tưởng, về cuộc mit-tinh 7/5/1970 của giới văn nghệ phản đối Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương);

Truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc viết 47 năm trước (Vi hành, trích ‘Những bức thư gửi cho cô em họ của tôi’, Hồng Chương dịch);

Thơ Hồ Chí Minh (Ca đội tự vệ; Tặng thống chế Pétain; Đi thuyền trên sông Đáy; Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ; Không đề; thơ chữ Hán: Vọng Thiên san; Vô đề);

Phê bình: Nguyễn Xuân Nam (Đọc mấy bài thơ dâng Bác của Chế Lan Viên), Bàng Sĩ Nguyên (Qua tập thơ ‘Lá reo’, Nxb. Giải phóng);

Đọc sách: Hoàng Ngọc Hiến (‘Người anh hùng làng Dóng’ của Cao Huy Đỉnh);

Ký: Xuân Cang (Bút thép Bác Hồ);

Hồi ký: Nguyên Hồng (Cảnh kiếm sống ban đầu và cái hòm sách bản mệnh, tự truyện);

‘Người tốt-việc tốt’ (ký): Như Mạo (Người lái xe tận tụy);

Truyện ngắn: Lê Tam Anh (Câu chuyện một quả cam);

Thơ: Cẩm Lai (Bác đặt tên), Bế Kiến Quốc (Hoa bi-ooc-cà, biên giới mùa xuân 1941), Liên Nam, VNGP (Đi trên đường Hồ Chí Minh), Nguyễn Vũ Tiềm (Tượng Người ở bản xa), Hồng Chinh Hiền (Cây xà-nương), Hải Như (Pắc Bó);

Trang ca dao về Hồ Chí Minh;

Sổ tay người yêu thơ: Xuân Diệu (Hình ảnh Bác Hồ tăng gia sản xuất);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Chính Nghĩa (Học thuyết vừa ra đã bị tiêu), Thu Hằng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Siêu phẩm, siêu đẳng, hay hạ phẩm, hạ đẳng?);

Thơ vui: Hồ Tiêu (Buồn cho ông);

Nghệ thuật: Trung Sơn (“79 mùa xuân”, phim tài liệu do điện ảnh Cuba sản xuất); Tú Ngọc (Những bài hát ca ngợi Hồ Chủ tịch); Phan Huy (Một số tìm tòi trong sáng tác tranh tượng phục vụ các ngày lễ lớn);

– Ngày 15: hội nghị khoa học ‘Bác Hồ và văn học nghệ thuật’ do Viện văn học tổ chức; sau lời khai mạc của Viện trưởng Đặng Thai Mai là các tham luận của Nguyễn Khánh Toàn, Hồng Chương, Hoàng Xuân Nhị, Xích Điểu, Vũ Ngọc Phan, Hoàng Ngọc Phách, Lưu Trọng Lư, Phan Trọng Bình, Lê Thước, Phạm Ngọc Trân, Cao Xuân Huy, Cao Huy Đỉnh, Lưu Quý Kỳ,…Các tham luận tập trung vào các vấn đề: sự nghiệp vĩ đại của HCM về văn học nói chung, giá trị thơ văn HCM, phong cách thơ văn HCM, những lời dạy của HCM về văn nghệ, báo chí, ảnh hưởng HCM đối với văn học hiện đại, tình cảm các nhà thơ nhà văn với HCM. [5]   

– Ngày 22: tuần báo Văn nghệ  s. 345:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Phan Hiền (Hồ Chủ tịch với việc bồi dưỡng, nêu gương người tốt việc tốt);

Bùi Hiển (Cuộc thắng lợi chung của ngày mai,- bài phát biểu tại cuộc mit-tinh của giới văn nghệ, 7/5/1970);

Hồi ký: Vũ Ngọc Phan (Nhớ lại những ngày làm công tác văn hóa trong mấy năm đầu Cách mạng tháng Tám); Nguyên Hồng (Chung quanh một cuốn tiểu thuyết đầu tay [về cuốn ‘Bỉ vỏ’])

Truyện ngắn: Ma Văn Kháng (Ba người bạn ở trại thuốc);

Ký: Bút Ngữ (Cánh đồng mười tấn);

Thơ: Xuân Nguyên (Gửi anh thủy thủ), Nguyễn Thái Hà (Mặt trời xanh), Nguyễn Tùng Linh (Xưởng mộc trên bờ biển), Xuân Nguyên (Đi dọc Trường Sơn),[a] Nguyên Hồng (Bun-khơn-van – Bạch Mai), Biển Hồ (Qua nhà);

Phê bình: Thiếu Mai (Lê Anh Xuân, nhà thơ-chiến sĩ);

Đọc sách: Đào Xuân Quý (‘Sao và đất’, thơ Quang Huy, Thạch Quỳ, Chi hội VN Nghệ An xb.);

Giới thiệu: Cao Huy Đỉnh (Nhân kỷ niệm 109 năm sinh R. Tagore);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Vĩnh Xương (Phá sản trò ma Mỹ), Thuý Hồng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Hấp lại, lê thê, lố bịch, trơ trẽn);

Thơ: H. Parsons, Mỹ (Hồ Chí Minh, Văn Hương dịch);

Nghệ thuật: Phạm Ngọc Trương (Tình cảm chân thành của nhân dân Liên Xô đối với Bác Hồ qua bộ phim ‘Tên Người là Hồ Chí Minh’); Mịch Quang (Về phương hướng thí nghiệm của hai vở chèo ‘Nguyễn Viết Xuân’ và ‘Lấn biển’); Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Các loại hình nghệ thuật: Mỹ nghệ);

– Ngày 29: tuần báo Văn nghệ  s. 346:

Chính luận: Hoài Thanh (Nhất định chúng nó sẽ bị vùi sâu dưới muôn lớp bùn đen ô nhục,- phát biểu trong cuộc mit-tinh của giới văn nghệ, 7/5/1970), Thanh Vệ (Như nguồn Cửu Long vô tận), Nguyễn Duy Cẩn (Trên đất nước Campuchia), Sơn Phong (Chiếc áo ba thân, thơ);

Phóng sự: Trần Ninh Hồ (Phía sau đèo Váng);

Truyện ngắn: Trần Nhật Thu (Cô gái đường sông);

‘Người tốt-việc tốt’: Thanh Hương (Trâu ăn đá), Hồ Huy (Tiếng kẻng của em Tý);

Thơ: Hoàng Cao Khang (Người bạn đọc số 1);

Trang thiếu nhi: truyện: Xuân Sách (Chuyện ông Cột), Phong Thu (Bức tường có nhiều phép lạ), S. Alekseev (Con chim tuyết, Thúy Toàn dịch), Võ Huy Tâm (Con còng gió); thơ: Trinh Đường (Bận; Nơi sinh con), Quốc Tấn (Con vẽ), Trần Nguyên Đào (Cu Long), Ngô Viết Dinh (Núi), Định Hải (Mẹ), Võ Quảng (Mẹ về đến nhà; Học; Én hát), Trần Thanh Địch (Chào mào; Vẹt), Nguyễn Ngọc Ký (Bàn tay bát ngát); sáng tác của các em: thơ: Nguyễn Việt Hà, 12 tuổi (Chiến cặp da), văn: Lê Ngọc Mai, 7 tuổi (Người bạn tốt);

Đọc sách: Văn Hồng (‘Đời đời ơn Bác’, Nxb. Kim Đồng), Vũ Ngọc Bình (‘Điểm 10’, tập truyện ngắn, Phong Thu, Hội VN Hà Nội xb.);

Trao đổi ý kiến: Xuân Tửu (Xung quanh vấn đề trẻ em làm thơ);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Búa Đanh (Mẽo càng chóng chết);

Nghệ thuật: Ma Cường (Đi quay bộ phim ‘Bác Hồ của chúng em’), Quang Khang (Ba lần được chiếu phim để Bác xem); Trần Thức (Tranh tượng của Hải Phòng phục vụ các ngày lễ lớn); Hoàng Trinh (Hiện thực và hư cấu trong vở ca kịch ‘Trưng Vương’, kịch bản Việt Dung, đoàn Kim Phụng dựng diễn);

– Trong tháng 5: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 5/70 (s. 161):

Văn: Võ Nguyên Giáp (Những năm tháng không thể nào quên); Lương Sơn (Đón Bác lên thăm đảo); Trần Biên (Bác Hồ với Vĩnh Linh); Lâm Quang Ngọc (Giữa trận chiến đấu); Chu Cẩm Phong (Mặt biển mặt trận); Tô Ngọc Hiến (Ký ức về người cha); Lê Thị Minh Khuê (Trên đường chúng ta đi); Bùi Công Bính (Nơi xa mặt trận);

Thơ ca: Phan Đức Chính (Khóm dừa và ngôi nhà Bác ở), Hoàng Minh Châu (Bác gọi), Phạm Đình Ân (Khúc hát trồng cây), Văn Thảo Nguyên (Vào phiên gác), Quang Hân (Trái tim và ánh sáng Hồ Chí Minh), Tạ Vũ (Cảng ngày Bác mất), Anh Thơ (Người nữ quân y chiến khu), Nguyễn Quang Hà (Chiến sĩ), Nguyễn Duy Nhuệ (Chiều khẩu đội), Tạ Hữu Yên (Cầu Đa Phúc), Xuân Sách (Con tàu đi), Trần Ninh Hồ (Ở với niềm vui), Vũ Tú Nam (Hai năm);

Nghiên cứu-trao đổi: Dương Minh Đẩu (Chúng tôi đón Bác); Vũ Khiêu (Người nghệ sĩ trước công ơn vĩ đại của Bác Hồ); Phan Hồng Giang (Xuân Thiều với tập ‘Trời xanh’); Mai Ngữ (‘Từ một trận địa’ của Vũ Cao); P.V. (Tin văn nghệ);

Tháng 6:

– Ngày 5: tuần báo Văn nghệ  s. 347:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Nguyễn Văn Toại ghi (Lớp học giữa rừng, theo lời kể của Cao Hồng Lãnh, Bảo An, Nông Thị Trưng); thơ: Vũ Đình Liên (Ba Đình), Françoise Corrèze (Bác Hồ, Phạm Huy Thông dịch);

Ký: Trần Mai Hạnh, miền Nam gửi ra (Đất mùa xuân), Mai Văn Tạo (Campuchia, đất nước nghìn tháp nghìn chùa);    

Truyện ngắn: Tô Nhuận Vỹ (Bà mẹ Viễn Trình);

‘Người tốt-việc tốt’: Vũ Đình Bưởi (Người xã viên Dao đỏ làm chủ);

Thơ: Hải Lê, VNGP (Tiếng gà), Liên Nam, VNGP (Trên ngọn núi Chư Pa), Trần Vàng Sao, VNGP (Cháy thêm lửa căm thù), Lê Giang, VNGP (Bảo vệ chính quyền), Nguyễn Thành Vân, VNGP (Đêm Bến Hải; Đêm rừng), Thanh Hải, VNGP (Chào thành phố chúng ta), Hữu Thỉnh (Đứa con hay bị mắng), Anh Ngọc (Bên lở bên bồi; Hương sắc hoa xoan);

Đọc sách: Trang Nghị (‘Bức thư làng Mực’, tập truyện và ký, Nguyễn Chí Trung, Nxb. Giải phóng), Phương Thảo (‘Phượng hoàng con’, Trinh Đường, Nxb. Kim Đồng);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Tú Mỡ (Thằng liều làm thầy thằng hèn);

Nghệ thuật: Trung Phượng (Hội điện ảnh tổ chức cuộc họp mặt nhân kỷ niệm 80 năm sinh Hồ Chủ tịch); Nguyễn Long (Hình ảnh phụ nữ trong triển lãm ảnh chân dung ‘Người tốt việc tốt’); Hồng Phi (Hội diễn NTSK chống Mỹ cứu nước: Xem vở ‘Xuân Vỹ Dạ’, kịch Lưu Trọng Lư-Vũ Đình Phòng, đạo diễn Minh Quân, đoàn kịch Hải Phòng); Nguyễn Trân (Một cống hiến nghệ thuật đáng biểu dương, về triển lãm 25 năm QĐNDVN); Hữu Thu (Nghệ thuật và đời sống: Sáo diều); Hà Chân (Thường thức nghệ thuật: Mỹ nghệ, II);

– Trong tháng 6: tạp chí Tác phẩm mới  s. 7 (th. 5&6/1970):

Nghị luận: Phạm Văn Đồng (Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại);

Trích tài liệu (Hồ Chí Minh nói về văn hóa văn nghệ);

Truyện: Nguyễn Ái Quốc (Incognito);

Thơ: Hồ Chí Minh, những bài mới sưu tầm (Ca tự vệ đội; Tặng toàn quyền Đờ-cu; Đi thuyền trên sông Đáy; Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ; Tặng các cụ phụ lão; Ngắm Thiên san; Không đề; Khen 11 cháu dân quân gái ở Huế);

Ký: Huy Cận (Mấy đoạn hồi ký về Bác Hồ); Diệp Minh Châu (Đường về với Bác);

Thơ: Đào Anh Kha (Hồ Chí Minh, sự thật truyền kỳ), Trúc Thông (Nhớ Bác từ ngõ nhỏ), Thi Sảnh (Nét bút Bác Hồ), Lữ Huy Nguyên (Ghi ở Pắc Bó), Xuân Diệu (Xem triển lãm ‘Nhân dân thế giới thương tiếc Bác Hồ’; Đàn; Đôi đũa mun; Hoa xứ lạnh; Ca khúc), Xuân Sách (Lạc rừng; Một buổi trưa ở Quảng Bình), Nguyễn Khoa Điềm (Người con gái chằm nón bài thơ; Tiễn bạn cuối mùa đông);

Văn: O. Mandelstam, LX. (Thăm một đồng chí hoạt động trong Quốc tế cộng sản,- về Nguyễn Ái Quốc, M. Tkachev dịch), thơ: L. Kuprianov (Hoa cẩm chướng Việt Nam, Tế Hanh dịch), thơ: R. Depestre (Một anh hùng của thời đại chúng ta, Hoài Thương dịch);

Nghị luận: Hoài Thanh (Học tập Bác qua thơ Bác);

Truyện ngắn: Vũ Thị Thường (Vợ chồng ông lão chăn vịt), Lê Điệp (Mặt sông);

Đời sống văn học: Đào Xuân Quý (Cuộc sống mới và những người làm thơ trẻ,- nhân cuộc thi thơ của báo ‘Văn nghệ’); Nguyễn Công Hoan (Nói về truyện ngắn);

Phê bình-đọc sách: Hoàng Như Mai (Đọc ‘Hiện thực cách mạng và văn học nghệ thuật’, tập tiểu luận Hà Huy Giáp); Trang Nghị (Lê Anh Xuân với tập thơ ‘Hoa dừa’ và trường ca ‘Nguyễn Văn Trỗi’); Phong Vũ (‘Tháng giêng hai’, tập thơ Phan Thị Thanh Nhàn, Thúy Bắc, Hoàng Thị Minh Khanh); Phan Hồng Giang (Cảm nghĩ một người đọc ‘Đường trong mây’);  

– Trong tháng 6: Tạp chí Văn học  s. 3 (th. 5&6/1970) (s. 123):

Hà Huy Giáp (Hồ Chủ tịch và tính đảng trong văn học nghệ thuật);

Xích Điểu (Văn châm biếm, đả kích địch qua một số bài viết của Bác Hồ);

Đặng Thai Mai (Đọc lại tập thơ ‘Ngục trung nhật ký’);

Hoàng Xuân Nhị (Những bài thơ hay nhất của Hồ Chủ tịch);

Hà Châu (Bác Hồ với nguồn tục ngữ của dân tộc);

Lưu Trọng Lư (Những lời đẹp nhất);

Vân Thanh (Ai yêu các em bằng Bác Hồ Chí Minh);

Nam Mộc (Luyện thêm chất thép cho ngòi bút, thực hiện tốt lời dạy của Hồ Chủ tịch về công tác văn nghệ);

Hà Huy Giáp (Vai trò của văn học các dân tộc thiểu số trong lịch sử văn học Việt Nam);

Nguyễn Khánh Toàn (Về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam);

Nguyễn Xuân Sanh (Sức mạnh của tư tưởng Lenin);

Nguyễn Công Hoan (Về việc nghiên cứu thơ Tú Xương);

Hồ Tuấn Niêm (Văn nghệ ra trận và chiến thắng);

Hội đồng chỉ đạo và duyệt (Thông báo về việc biên soạn cuốn ‘Lịch sử văn học Việt Nam’);

Đặng Thai Mai (Trả lời phỏng vấn của một số bạn Nhật Bản về văn học VN);

Sinh hoạt văn học: P. (Tọa đàm về Lenin và văn học nghệ thuật), (Hội nghị khoa học về tư tưởng đạo đức Hồ Chủ tịch), (Hội nghị khoa học ‘Bác Hồ và văn học nghệ thuật’);

– Ngày 12: tuần báo Văn nghệ  s. 348:

Chính luận: Thanh Vệ (Một tuổi, nhưng vô địch,- về chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN);

‘Bác Hồ của chúng ta’: Triệu Việt Thắng kể (Những ngày theo Bác, Sơn Nữ ghi), thơ Trường Đà (Chiếc cầu vào bản);

Bút ký: Phạm Đình Tuấn (Hoa dẻ rừng), Vương Anh (Cổ Lũng);

‘Người tốt-việc tốt’: Xuân Tùng (Đai biển);

Thơ: Nguyễn Đức Mậu (Bếp lửa Hoàng Cầm đào theo hình hang chuột; Đơn vị ngủ rừng theo đội hình đánh giặc), Vũ Chấn Nam (Mùa xuân), Mã Giang Lân (Sáng hôm nay), Ngô Quân Miện (Gửi mẹ), Thanh Minh, VNGP (Người sông Bé Phú Văn), Việt Phương (4000 năm nhân đạo);

Ca dao: Quang Phùng (Lầm to);

Đọc sách: Nguyễn Khắc Xương (Tiếng thơ Vĩnh Phú, tình người Vĩnh Phú), Xuân Tùng (‘Ca dao vùng mỏ’, Ty VH Quảng Ninh xb.);

Tiểu luận: Phong Hiền (Văn học hiện sinh ở Sài Gòn);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Vĩnh Xương (Nhắn ông U (mê) Than, tổng thư ký cái gọi là Liên hợp quốc);

Chuyện miền Nam: Nguyễn Thị Vân ghi (Những diễn viên không chuyên nghiệp, theo lời kể của chị Hạnh, Quảng Đà);

Nghệ thuật: Bùi Ngọc Trác (Còn vang vọng mãi,- xem kịch ‘Đồng hồ chuông điện Kremli’, về vai Lenin); Đỗ Nhuận (Làm nhạc cho bộ phim ‘Bác Hồ sống mãi’); Bùi Quang Nam (Qua các phòng triển lãm kỷ niệm 80 năm sinh Hồ Chí Minh);

– Ngày 19: tuần báo Văn nghệ  s. 349:

Xã luận: Văn nghệ (Tình hình mới, sức mạnh mới,- về Tuyên bố của Quốc hội VNDCCH khóa III kỳ họp thứ 6)

‘Bác Hồ của chúng ta’: Felix Pita Rodriguez, Cuba (Hồ Chí Minh, trích nhật ký 1966, Nguyễn Duy Cương dịch);

Ký: Nghiêm Sĩ Thái, miền Nam gửi ra (Trận tuyến trên sông);

Truyện ngắn: Hữu Tâm (Xóm bên đường);

‘Người tốt-việc tốt’: Văn Ngọc (Bác Luận);

Trang thơ Vĩnh Linh: Lâm Úy (Bài thơ ra mặt trận), Cảnh Trà (Nhớ Cù Bai), Trần Đức Trực (Lên đèo), Nguyễn Hanh (Người dân quân đất tuyến; Vùng biển quê tôi), tấu: Vương Sổ, Văn Trường (Cái nhà của tôi);

Phê bình: Nguyễn Duy Bình (Theo dõi một con ‘đường vào thơ’,- về tập ‘Đường vào thơ’ của Lê Đình Kỵ, Nxb. Văn học);

Đọc sách: Trần Khuyến (‘Tuổi trẻ Karl Marx’, Nxb. Thanh niên), Hoàng Ngân (‘Bàn tay gieo hạt’, truyện AHLĐ Nguyễn Văn Huê của Định Hải, Nxb. Kim Đồng; ‘Trên đồng muối’, truyện AHLĐ Hồ Thị Lượm của Trần Kim Lung, Nxb. Phụ nữ), Nguyễn Huỳnh (Qua các tạp chí: Đọc tập san ‘Mỹ thuật’);

Tiểu luận: Bùi Công Hùng (Tình trạng luẩn quẩn của một số cây bút trẻ ở Sài Gòn);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Nguyễn Đình (Mỹ tán ngụy…), Phú Sơn (Vào mùa khô), Vân Hằng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Văn chương Mỹ);

Thơ vui: Người Quan Sát (Khách quấy rầy);

Nghệ thuật: Diệu Đức (Cẩn ghép chân dung Bác Hồ bằng 65 thứ gỗ quý); Trần Thi (Bác Hồ kính yêu với mỹ nghệ dân gian Hà Nội); Hoàng Hưng, Hồng Thao (Xung quanh cây tính tẩu của dân tộc Tày);

Quay phim tại tuyến lửa Khu Bốn: Đào Lê Bình (Cái hôn trong máy), Trần Bảo (Từ núi Nài đến Biển Đông);

P.V. (Hội diễn nghệ thuật sân khấu đợt 3);

– Ngày 26: tuần báo Văn nghệ  s. 350:

‘Bác Hồ của chúng ta’: AHLĐ Nguyễn Thị Kim Huê kể (Cháu nhớ trọn đời, Minh Trực ghi), thơ Nguyễn Cao Sơn (Lòng con về với Ba Đình);

Truyện ngắn: Huy Bảo (Trấn La Mí), Xuân Trình (Con cừu hoa);

Ký: Trần Công Tấn (Những dòng suối mát);

‘Người tốt-việc tốt’: Ngô Ngọc Bội (Vực trâu);

Trang thơ Quảng Bình: Xuân Hoàng (Hàng cây Ba Đình), Trần Nhật Thu (Một đêm ở làng biển), Lâm Thị Mỹ Dạ (Bóng mát), Nguyễn Phúc Đồng, 11 tuổi (Con gà), sáng tác tập thể của dân quân Ngư Thủy (Bẩy phút thử vàng, tấu), Mai Bá Tùng (Nhớ đồng chí Cách, tấu);

Phê bình: Ý Nhi (‘Tre xanh’, tập thơ Thu Bồn, Nxb. Giải phóng);

Đọc sách: Xuân Đài (‘Ngoài mặt trận’, truyện ký Lê Văn Thảo, Nxb. Giải phóng), Khái Vinh (Các tạp chí văn học, văn nghệ với lễ kỷ niêm 100 năm sinh Lenin);

Sinh hoạt phê bình: Hiền Phương (Trao đổi tại tòa soạn ‘Văn nghệ’ về truyện và ký Nguyễn Thi);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Vĩnh Xương (Cái đáp số loạn xạ của học thuyết Nich-xơn);

Nghệ thuật: Thái Hanh (Nghệ thuật tạo hình và hình tượng Bác Hồ vĩ đại); Bùi Công Hùng (Phim tâm lý chiến bịp bợm ở Sài Gòn); Đức Kôn (Qua Hội diễn xuân 1970: Vở dân ca khu 5 ‘Đội kịch chim chèo bẻo’); Ống Kính (Tìm hiểu nghệ thuật điện ảnh: I/ Những phép mầu trong phim ảnh);

– Cuối tháng 6: nhân báo Văn nghệ mở cuộc thi truyện ngắn 1970-71, tòa soạn báo tổ chức cuộc gặp giữa những nhà văn chuyên viết truyện ngắn và một số nhà phê bình; tham dự có các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Thế Phương, Đỗ Quang Tiến, Xuân Sách, Nguyễn Thành Long, Quang Dũng, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường,… nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Nhị, các nhà phê bình Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ…, ngoài ra còn nhiều cây bút trẻ. Về đánh giá tình hình truyện ngắn hiện tại, các ý kiến Bùi Hiển, Nguyễn Văn Bổng, Huy Phương, Nguyễn Gia Nùng… cho rằng mấy năm gần đây truyện ngắn phát triển tốt, đi thẳng vào những vấn đề đời sống, cho người đọc hiểu tâm tư những con người đang chiến đấu, lao động ở những lĩnh vực khác nhau; tác giả thể hiện được phong cách riêng; tuy vậy, Hà Minh Đức cho rằng thời kỳ hiện tại sút kém so với truyện ngắn những năm 1960-61, khi truyện ngắn đặt ra được các vấn đề, được người đọc nhớ lâu. Các ý kiến cho rằng truyện ngắn của ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm; Bùi Hiển cho rằng các tác giả thiên về tường thuật, ít gửi gắm vào những vấn đề có thể đặt ra, do đó ít gây được rung động; Nguyễn Kiên nhận thấy đời sống được miêu tả trong các truyện ngắn gần đây còn sơ sài, mọi thứ đều ổn thỏa, không giống như trong đời sống thực; Lâm Quang Ngọc nhận thấy truyện của nhiều cây bút trẻ còn thiếu những chi tiết chân thực, do đó không thành công, dù viết lối trữ tình hay lối gồ ghề, lối triết lý… Nhiều ý kiến cho rằng truyện ngắn gần đây dễ lẫn với các thể ký. Các ý kiến còn đề cập đến người đọc, đến phê bình, v.v...[6] 

– Trong tháng 6: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 6/70 (s. 162):

Văn: nhiều tác giả (Bác Hồ với các chiến sĩ bảo vệ); Trần Huy Quang (Chiếc áo màu lửa); Thanh Thủy (Cập bến); Chu Văn Mười (Góc biển), Phan Văn Tại (Những mầm xanh); Nguyễn Khoa Điềm (Cửa thép);

Thơ ca: Trường Xuân (Học di chúc Bác Hồ), Nguyễn Thiều Nam (Lời ru; Trước giờ ra trận), Cẩm Thơ (Tía em), Đỗ Quang Hạnh (Tấm biển mang tên phố), Trần Đăng Khoa (Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên), Hoàng Cung Măng (Thi vẽ), Định Hải (Gạch đỏ), Nam Hà (Ta là Việt Nam), Văn Thảo Nguyên (Chiều Khả Do; Anh ở lại đây), Văn Đạt (Chiến sĩ pháo cao xạ), Xuân Nguyên (Cửa sóng Bạch Đằng), Nguyễn Duy Nhuệ (Lên núi mà coi), Biển Hồ (Bàu làng tôi);

Nghiên cứu-trao đổi: Nhị Ca (Vài khía cạnh công việc phê bình văn học); Xuân Sách (Thơ bộ đội 1965-1969); Tô Hoàng (Từ những trang viết buổi đầu); Đôn Truyền (Những cánh én mùa xuân); P.V. (Hình tượng Lenin trên sân khấu VN); P.V. (Tin văn nghệ quân đội);  

Tháng 7:

– Ngày 3: tuần báo Văn nghệ  s. 351:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Nông Quốc Chấn (Một số mẩu chuyện về Bác Hồ ở Việt Bắc);

Truyện: Võ Huy Tâm (Mài thép);

Truyện ngắn: Nguyễn Kiên (Kỷ niệm ở ga X.);

P.V. (Xung quanh những vấn đề về truyện ngắn, tường thuật cuộc gặp mặt những người viết truyện ngắn và các nhà phê bình tại báo ‘Văn nghệ’ thượng tuần tháng 6);

Phê bình: Song Thành (Đọc ‘Đường trong mây’);

Đọc sách: Hoàng Liên (‘Bên cầu Huê Ngạc’, truyện AHLĐ Trương Văn Nho, của Anh Hoàng, Nxb. Phổ thông), Vương Mỹ (‘Đường cách mạng còn dài’, truyện AH dân quân Giang Lao Pà, của Ma Văn Kháng, Nxb. Phổ thông), Hoàng Ngân (‘Xưởng thuyền quê hương’, truyện AH thủ công nghiệp Nguyễn Thân Mến, của Trần Ngọc Cẩm, Nxb. Phổ thông);

Ký: Nguyễn Bắc (Nhật ký hộ đê);

‘Người tốt-việc tốt’: Vũ Thái (Cây xanh);

Trang thơ Trị Thiên: Trường Xuân (Chiếc gậy Trường Sơn; Em, con gái Pakoh; Quạt lửa; Cành đào), Thanh Hồng (Đọc lý lịch; Rộng hẹp);

Sổ tay người yêu thơ: Trúc Tân (‘Thập anh đường thi tập’, 1822, của Ngô Nhân Tịnh);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Vĩnh Xương (Tướng thứ 6 của Mỹ bị … ngoẻo), Xích Điểu (Guy-am Ních hứng);

Thơ vui: Tạ Xuân Ký (Từ ngày …);

Nghệ thuật: Nguyễn Thị Lợi (Giới điện ảnh Mỹ chống chính sách phản động của chính phủ Nixon); Tô Vũ (Trao đổi ý kiến: Một vài đặc điểm về tính dân tộc trong âm nhạc); Phạm Ngọc Khuê (Thiên nhiên và cuộc sống trong họa tiết trang trí trên vải của dân tộc Thái, Tây Bắc); Ống Kính (Tìm hiểu nghệ thuật điện ảnh: 2/ Tốc độ, một vấn đề thời sự);

– Ngày 10: tuần báo Văn nghệ  s. 352:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Nguyễn Tư Hoành ghi (Chiếc rương da của thầy giáo Nguyễn Tất Thành);

Kịch: Thế Ngữ (Ga xép);

Truyện: Võ Huy Tâm (Mài thép, tiếp);

Truyện ngắn: Nguyễn Kiên (Kỷ niệm ở ga X., tiếp);

Thơ: Hoàng Thanh Nam (Mặt trời thành phố), Ngô Văn Phú (Thành phố trung du; Viết trong đám cưới), Vũ Tú Nam (Núi, sông), Phạm Công Cam (Cửa sông), Nguyễn Vũ Tiềm (Buổi trưa của cô thợ nề), Đoàn Trung Mưu (Dấu đanh trên cột);

Sổ tay người yêu thơ: Trúc Tân (‘Hoa nguyên thi thảo’, 1822, tập thơ Lê Quang Định);

Kinh nghiệm: Nguyễn Công Hoan (Xung quanh việc viết cuốn ‘Bước đường cùng’);

Phê bình: Phạm Văn Sĩ (Đọc ‘Phương Tây, văn học và con người’ của Hoàng Trinh); Bích Tiên (Đọc ‘Gió vịnh Cam Ranh’, truyện và ký Nam Hà, Nxb. Giải phóng);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ), Thu Hằng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Lăng-xê theo kiểu Huê Kỳ), Phú Sơn (Côn đồ vạch mặt găng-tơ);

Hằng Phương (Thăm quê hương nhà thơ Mông Cổ D. Natsagdorj);

Thơ Fasad Hamid, Cuba (Nhân dân tuyên bố, Bùi Hồng Hải dịch);

Nghệ thuật: Mịch Quang (Vài ý nghĩ về kịch lịch sử); VN. (Triển lãm tranh tượng lần thứ hai của công binh); Ống Kính (Tìm hiểu nghệ thuật điện ảnh: 3/ Phương pháp dừng hình và quay xuôi chiếu ngược);

– Ngày 17: tuần báo Văn nghệ  s. 353:

Tạ Xuân Linh, Nguyễn Khánh Tường (Khi những trang phóng sự trở thành cáo trạng,- về cuốn ‘Vietnam sangland’ của Jean Bertolino, Pháp);

Truyện dài: Nguyễn Văn Bổng (Áo trắng, trích);

Truyện ký: Lê Minh (Diễn viên múa);

Bút ký: Văn Ngọc (Chiến dịch trồng chè);

‘Người tốt-việc tốt’: Quang Long (Tiếng hát người chăn cừu);

Thơ Ngân Vịnh [b] (Thành phố quê mình vào trận đánh mùa xuân), Nguyễn Thành Vân, VNGP (Ra quân trên chiến trường miền đông), Huỳnh Phan Lê, VNGP (Bông hoa đêm), Mai Lũy, VNGP (Tôi đến đây), Quốc Tấn (Lại gặp em, em bé đầm dừa), Trịnh Hoài Giang (Thư từ cửa biển), Trần Hữu Nam (Hang lèn);

Phê bình: Nguyễn Lai (‘Người Giồng Tre’, truyện ký Giang Nam, Nxb. Giải phóng), Khương Minh Ngọc (Một sự nhạy cảm đáng quý,- về “Mùa nấm tràm”, tập truyện, Đinh Quang Nhã, Nxb. Giải phóng), Bàng Sĩ Nguyên (Đọc ‘Tiếng hát rừng xa’, truyện và ký, Triều Ân, Nxb. Văn học);

Nhân quốc khánh Ba Lan: thơ Nguyễn Xuân Sanh (Nghe nhạc Chopin; Cô giáo trường ngoại ô); thơ V. Broniewski (Thư trong tù, Hoàng Trung Thông dịch từ tiếng Pháp), Konstanty Gałczyński (Bài hát về Wit Stwosz, Hoàng Trung Thông dịch từ tiếng Pháp);

Văn thơ đả kích: Hoàng Lang (Chuyện Mỹ-ngụy);

Thơ vui: Xuân Long (Ai hay nỗi này);

Nghệ thuật: Anh Thủy, xưởng phim Giải phóng (Những ngày làm phim trên quê hương anh Trỗi); Hải Huy (Nên sáng tác nhiều hài kịch);

– Ngày 24: tuần báo Văn nghệ  s. 354:

Truyện ngắn: Trần Ninh Hồ (Trong những món ăn truyền lại);

Ký: Xuân Trình (Tám năm ở đất Trung Hòa);

Truyện dài: Nguyễn Văn Bổng (Áo trắng, trích, tiếp);

‘Người tốt-việc tốt’ (ký): Minh Hải (Ông xương đồng da sắt);

Thơ: Hoàng Chu (Đưa anh về tuyến sau), Tạ Hữu Yên (Hàng cây anh trồng), Hoàng Trung Thông (Đất bạc màu đã hóa đất phù sa), Vĩnh Mai (Người và đất; Hồ nước Bác Hồ), Nguyễn Văn Chương (Trận địa đồng chiêm), Tạ Thúc Bình (Xem tranh dân gian);

Ca dao: Nguyễn Tân Khoa (Khoai Trung Hòa);

Sổ tay người yêu thơ: Phan Thị Thanh Nhàn (Hoa bưởi trong ca dao);

Phê bình: Trương Chính (Câu chuyện hình thức, - đọc ‘Thơ ca VN, hình thức và thể loại’ của Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức); Khái Vinh (Qua một số tập sáng tác văn nghệ của Hà Bắc), Xuân Tửu (Tập thơ ‘Tháng giêng hai’);

Văn thơ đả kích: Hoàng Lang (Chuyện Mỹ-ngụy), Tinh Binh (Phản ứng của những số ma);

Thơ vui: Đồ Phồn (Học chọe), Đinh Thị Huyền (Chớ nêu mãi gương mờ);

Thơ: Yiannis Ritsos, Hy Lạp (Vĩnh biệt, trích, Phạm Hổ dịch);

Nghệ thuật: Hồng Phi (Marcel Marceau, người diễn kịch không lời); Tô Vũ (Học tập truyền thống và tiếp thu vốn nước ngoài); Nguyễn Huy Hoàng (Về cái đẹp trong ảnh); Ống Kính (Tìm hiểu nghệ thuật điện ảnh: 4/ Giả mà rất thật);

– Ngày 31: tuần báo Văn nghệ  s. 355:

Bút ký: Lưu Mỹ Ngọc (Lúa xuân Thái Bình), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Chiều ở Đông Phong), Ngô Ngọc Bội (Đồng đất Thái Bình);

Truyện ngắn: Hoàng Văn Lương (Người đồng nghiệp);

Thơ: Kim Thoa (Thư bạn), Hoàng Thị Minh Khanh (Đón cờ mang tên Bác), Trinh Đường (Sinh sôi; Tự thuật; Trước lăng vua Đinh Tiên Hoàng), Lưu Trọng Lư (Từ trong gian khổ; Tiếng chèo ở Vũ Thắng, Thái Bình; Những cô gái lúa xuân);

Ca dao: Thu Hà (Khơi đồng; Tặng ai cờ hồng);

Sổ tay người yêu thơ: (Bài khóc mẹ, trích ‘Tùy Viên thi thoại’);

Phê bình: Trường Lưu (Chất thơ trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành);

Đọc sách: Hữu Nhuận (‘Trong vành đai Mỹ’, ký sự Hoàng Lại Giang); Thiếu Mai (‘Vinh rực lửa’, bút ký Trần Hữu Thung, Nxb. Văn học); Vương Mỹ (Tạp chí ‘Văn nghệ quân đội’ ba tháng 4,5, 6/1970);

Văn thơ đả kích: Hoàng Lang (Chuyện Mỹ-ngụy), Trần Ân (Lại công thức mới);

Thơ: Adonis Doriadis, Hy Lạp (Thư, Nguyễn Viết Lãm dịch từ tiếng Pháp);

Nghệ thuật: Trần Bảng (Qua hội diễn nghệ thuật 1970: Sân khấu và cuộc sống); P.V. (Triển lãm ký họa và tranh miền Nam gửi ra lần thứ 5); Ống Kính (Tìm hiểu nghệ thuật điện ảnh: 5/ Mô hình dựng thêm); Đức Vân (Ảnh Việt Nam trong triển lãm quốc tế BIFOTA 5 tại Berlin);

Khoa học-đời sống: Từ Giấy (Tìm hiểu phong cách ăn của dân tộc);

– Trong tháng 7: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 7/70 (s. 163):

Văn: Võ Nguyên Giáp (Những năm tháng không thể nào quên); Trúc Chi (Ông Mười); Ma Văn Kháng (Dưới những bóng cau); Đỗ Ngọc Phú (Gói nước); Nguyễn Thi (Cô gái đất Ba Dừa);

Thơ ca: Nguyễn Thành Vân (Lời người cầm súng), Lữ Huy Nguyên (Sài Gòn), Ngô Văn Phú (Những tâm hồn dũng sĩ), Hoàng Trung Thông (Ra biển; Ngủ dưới nhà hầm), Anh Vũ (Chuyện bình thường), Nguyễn Hoa (Khẩu đội chúng tôi), Xuân Lộc (Sấm gọi măng);

Nghiên cứu-trao đổi: Phan Cự Đệ (Nguyễn Thi, một chiến sĩ, một tâm hồn nghệ sĩ); Trần Cư (Vài nét về bút pháp của Nguyễn Thi); Quế Loan (Mấy suy nghĩ về công tác đào tạo và huấn luyện diễn viên tại chức); P.V. (Tin văn nghệ quân đội);

Tháng 8:

– Ngày 7: tuần báo Văn nghệ  s. 356:

Truyện dài: Nguyễn Khải (Người của biển, trích ‘Ra đảo’);

Ký sự: Bùi Bình Thi (Mặt trận phía bắc Cánh Đồng Chum);

Thơ: Vi-lay Kẻo-ma-ni, Lào (Hai mươi ba năm cách mạng), Bàng Sĩ Nguyên (Tỉnh nhỏ), Phạm Tiến Duật (Buộc chỉ cổ tay; Hang Đèn-chín-ngọn), Trang Nghị (Tên lửa và cầu tre), Lưu Quang Vũ (Phủ Lý tháng hai);

Ca dao: Nguyễn Huy Kính (Con trâu mẹ nuôi; Hay chi; Khen);

Sổ tay người yêu thơ: Đỗ Kim Hồi (Vẻ đẹp kỳ lạ của một vài bài ca dao quen thuộc);

Đọc sách: Nguyễn Minh (Một cuốn sách mang tính đảng sâu sắc,- cuốn ‘Hiện thực cách mạng và văn học nghệ thuật’ của Hà Huy Giáp); Hiền Phương (‘Tiếng đàn La-nạt’, Nxb. Neo Lào Hắc-xạt);

Thơ: Sibgat Khakim, LX. (Một đêm trăng, Thúy Toàn dịch), Ovanes Shiraz, LX. (Vô đề, Thúy Toàn dịch);

Truyện: Bun Thoong, Lào (Phò But-đi, Nguyễn Thăng dịch);

Văn thơ đả kích: Vũ Tú Nam (Thời sự ‘Địa ngục số 13’), Vệ Sĩ (Chuyện Mỹ-ngụy);

Nghệ thuật: Quang Phòng (Thăm phòng tranh sơn dầu của họa sĩ Phạm Viết Song); Hồ Ngọc (‘Lập xuân’, chỗ mạnh và chỗ yếu của Xuân Trình);

Khoa học-đời sống: Từ Giấy (Tìm hiểu phong cách ăn của dân tộc, tiếp);

– Ngày 14: tuần báo Văn nghệ  s. 357:

Bút ký: Đoàn Minh Tuấn (Châu Tự Do);

Truyện: Quốc Trụ (Vành hoa tím);

Truyện dài: Nguyễn Khải (Người của biển, trích ‘Ra đảo’, tiếp);

Hồi ký: Phan Thái Ất (Những ngày ở Côn Đảo, Trần Hữu Thung ghi);

Thơ: Hồng Chinh Hiền (Trước chân trời tiền duyên; Họa sĩ giải phóng), Nguyễn Như Thơ (Tiếng loa; Cồn Cỏ), Dương Thị Cẩm Hương (Mẹ), Đào Ngọc Chung (Con sẽ khá hơn), Cảnh Nguyên (Tháng Tám mùa thu), Lê Minh Hợi (Về hưu), Quang Chuyền (Sân đình); 

Tiểu luận: Hoài Thanh (Một vài suy nghĩ về thơ);

Phê bình: Lại Giang (‘Xa Phủ’ của Ma Văn Kháng, tập truyện ngắn về miền núi đáng chú ý);

Thông tin: Thúy Toàn (Giới thơ ca Xô-viết đối với Việt Nam);

Văn thơ đả kích: Vệ Sĩ (Chuyện Mỹ-ngụy), Ngô Linh Ngọc (Quyền …nhai lại), Thu Hằng (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Vàng giả);

Nghệ thuật: Phạm Thanh Tâm (Tranh và tượng công binh); Vương Gia Khương (Xung quanh hai bài hát ‘Cờ Việt Minh’ và ‘Hò la’); Trần Thức (Nghệ thuật tạo hình với những người thợ mỏ); Ống Kính (Tìm hiểu nghệ thuật điện ảnh: 6/ Hình ảnh vẽ thêm);

– Trong tháng 8: Báo ‘Văn nghệ’  tặng thưởng những sáng tác văn xuôi đăng trên báo này từ 01/6/1969 đến 30/6/1970: tặng thưởng Chính thức: Kỷ niệm về người con đi xa (truyện ngắn, Bùi Hiển), Trong làng nhỏ (truyện ngắn, Lê Lựu), Tiếng biển (truyện ngắn, Phạm Đức), Cây lúa Quỳnh Lưu (phóng sự, Bùi Công Bính); tặng thưởng Khuyến khích: Trong buồng lái chật hẹp của tôi (truyện ngắn, Hoàng Văn Lương), Một tuyến đường (bút ký, Đào Ngọc Chung), Dẫn đầu cả trăm người cùng xốc tới (ký sự, Trần Hướng Dương, miền Nam gửi ra), Tranh tết (truyện ngắn, Nguyễn Phan Hách), Đội tuần tra đầu tiên (truyện ngắn, Tô Nhuận Vỹ, miền Nam gửi ra).[7]

– Ngày 21: tuần báo Văn nghệ  s. 358:

Thông tin: Hiền Phương (Sách Việt Nam tại triển lãm sách quốc tế Moskva nhân 100 năm sinh Lenin);

Truyện ngắn: Tô Nhuận Vỹ, miền Nam gửi ra (Những người tham gia trận đánh);

Hồi ký: Nguyễn Tạo (Đồng chí Phạm Quang Lịch), Nguyên Hồng (Đói 45);

‘Người tốt-việc tốt’: Đinh Văn Phát (Vượt sông);

Thơ: Lê Hoài Đăng, VNGP (Trong lửa đạn; Bài hát của anh), Anh Thơ (Ở vườn thực vật Clouj tôi muốn nói), Bế Kiến Quốc (Người không quen biết), Nguyễn Hoa (Chân trời), Hoàng Bình Trọng (Ngày mai rồi sẽ đổi), Lê Bính (Đêm ngủ lưng đèo), Nguyễn Đình Ảnh (Ở mặt trận), Trần Lê Văn (Mặt trận tuổi thơ), Trần Trương (Cây xanh bản núi);

Ca dao: Nguyễn Thế Hội;

Phê bình: Lê Đình Kỵ (Nước mắt và niềm tin, - đọc một số bài thơ viết về Bác Hồ gần đây);

Đọc sách: Hồ Hoa (‘Niềm vui thiêng liêng’, tập truyện ngắn nhiều tác giả, Nxb. Lao động), Trần Kỳ (‘Tình yêu và đồng đội’, tập thơ, nhiều tác giả, Nxb. Thanh niên);

Văn thơ đả kích: Hoàng Lang (Chuyện Mỹ-ngụy);

Thơ vui: Người Quan Sát (Ngày công);

Nghệ thuật: Nguyễn Văn Tỵ (Phòng tranh và ký họa miền Nam lần thứ 5); Tất Thắng (Xem vở ‘Sang sông’: Nhân vật có tính cách nhưng xung đột phải chân thật); Ống Kính (Tìm hiểu nghệ thuật điện ảnh: 7/ Dựng phim làm bối cảnh);

10 năm điện ảnh quân đội: Nguyễn Văn Thông (Đứng cho vững ở mũi nhọn cuộc sống), Hoàng Văn Bổn (Cần phải tiến xa hơn nữa);

– Ngày 28: tuần báo Văn nghệ  s. 359:

Thơ: Chế Lan Viên (Cách mạng, chương đầu), Tế Hanh (Bác để lại), Hoàng Trung Thông (Lớn lên);

Trang thơ Lý Phương Liên (Ai mơ gặp Bác, Bác bay đến nhà; Từ lời ru của mẹ; Nghĩ về Thúy Kiều; Chờ anh dưới cột đồng hồ; Lời ru trong đêm);

Sổ tay người yêu thơ: Hồng Chinh Hiền (‘Dáng đứng Việt Nam’, một bức tranh vẽ bằng thơ);

Truyện ngắn: Lê Văn Thảo, miền Nam gửi ra (Đêm Tháp Mười);

Phóng sự: Hoàng Ngọc Tuyên (Trẩy hội mùa hè);

‘Hình ảnh một số văn nghệ sĩ’ (chân dung): Trương Chính (Con đường vào văn học của Đặng Thai Mai);

Tiểu luận, phê bình: Khái Vinh (Những sáng tác văn xuôi được tặng thưởng năm 1969-1970); Trang Nghị, Thiếu Mai (25 năm văn xuôi,- Phỏng vấn Phó tổng thư ký Hội nhà văn VN Tô Hoài); Vương Mỹ (Qua các tạp chí: ‘Tác phẩm mới’  số  7/1970);

Văn thơ đả kích: Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Ngô Linh Ngọc (Đứa nào xa xỉ?);

Nghệ thuật: Đỗ Nhuận (Chút kỷ niệm về bài ‘Du kích ca’); Đức Kôn (Diễm Lộc và nhân vật Xúy Vân); Trần Ngọc Liu (Phim truyện trong 4 năm chống Mỹ cứu nước); Nguyễn Trân (Nhóm tượng đài mừng đất nước 25 xuân);

– Trong tháng 8: tạp chí Tác phẩm mới  s. 8 (th. 7&8/1970):

Tiểu luận: Đặng Thai Mai (Tình cảm thiên nhiên trong tập thơ ‘Ngục trung nhật ký’); Hồng Chương (Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh);

Truyện dài: Nguyễn Khải (Ra đảo, trích);

Truyện ngắn: Chu Văn (Hoa lim);

Truyện ngắn: Y. Phác-giơ (Một lần khám bệnh, Xuân Phương dịch);

Trích hồi ký: Hoàng Phủ Ngọc Tường (Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu);

Thơ: Nguyễn Thiều Nam (Về một dòng sông), Hải Lê (Về thăm bãi đước bờ dương; Qua vùng cát trắng; Anh hãy mừng cùng em), Anh Vũ (Màu xanh của em gái mù; Chơi với rừng), Hoàng Bình Trọng (Tình đất; Quên sao được), Trường Giang (Săn bom; Mưa đêm), Trần Thanh Địch (Trường tôi; Con lợn; Đồi sả);  

Tiển luận: Lê Trí Viễn (Đọc lại bản dịch ‘Nhật ký trong tù’); Nguyễn Minh Châu (Một người viết văn, một sự chuẩn bị); Nguyễn Xuân Sanh (Vài ý nghĩ về thơ ta qua một phần tư thế kỷ); Nguyễn Công Hoan (Nói về truyện ngắn, tiếp);

Đọc sách: Vũ Tú Nam (Nguyễn Thi, nhà văn của nhân dân,- đọc ‘Truyện và ký’ Nguyễn Thi, Nxb. Giải phóng), Đỗ Quang Tiến (‘Những tiếng hát hậu phương’, tập truyện ngắn Bùi Hiển, Nxb. Thanh niên), Đoàn Giỏi (Nghĩ về ‘Mùa nấm tràm’, tập truyện Đinh Quang Nhã, Nxb. Giải phóng), Trần Hiếu Minh (Những vần thơ Củ Chi và Sài Gòn, - đọc ‘Mắt sáng học trò’, thơ Viễn Phương, Nxb. Giải phóng), Tế Hanh (Đọc ‘Tre xanh’, tập thơ Thu Bồn, Nxb. Giải phóng);

Trương Chính (Trả lời cụ Đào Duy Anh về việc phiên âm thơ Nôm và dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi);

– Trong tháng 8: Tạp chí Văn học  s. 4 (th. 7&8/1970) (s. 124):

Nguyễn Khánh Toàn (Hồ Chủ tịch và văn học);

Nguyễn Đức Nam (Con người Việt Nam hiện đại trong nhận thức của nhà văn Mỹ: Susan Sontag);

Hiếu Giang, Hồ Sĩ Vịnh (Những vần thơ cách mạng của Christo Botev, 1848-76);

Đỗ Đức Dục (Về tiểu thuyết hiện thực phê phán phương Tây thế kỷ XIX);

Vũ Đức Phúc (Quy luật phát triển của văn học dân gian cũ và văn học truyền miệng hiện đại từ sau Cách mạng tháng Tám);

Trần Tiến (Một số suy nghĩ về văn học dân gian hiện đại);

Nông Quốc Chấn, Bùi Văn Kín, Đặng Nghiêm Vạn, Hoàng Hải, Cầm Biêu, Bàn Tài Đoàn, Quách Công Chẩm, Đinh Sơn, Đinh Văn Ân, Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân, Vi Văn Hồng, Lê Trung Vũ, Cao Sơn Hải, Nguyễn Hữu Thấu, Võ Quang Nhơn, Lê Hạnh, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Duy Bình, Nam Mộc, Tô Ngọc Thanh (Chung quanh vấn đề văn học các dân tộc thiểu số ở Việt Nam);

Trương Chính (Vẫn chung quanh những bài tồn nghi trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi);

Đào Duy Anh (Trả lời ông Trương Chính);

Tiên Sơn (Nên căn cứ vào những tư liệu xác đáng về tác phẩm để tìm hiểu tư tưởng Tản Đà);

Trần Cư (Đọc Nguyễn Thi);

Như Thiết (Về tiêu chuẩn tính dân tộc trong tác phẩm văn nghệ);

Ý kiến ngắn: Lãng Bạc (Nghiên cứu văn học nên viết ngắn gọn, thiết thực, mà đầy đủ);

Sinh hoạt văn học: P.V. (Hội nghị khoa học của Khoa Văn trường ĐHSP Vinh), (Thông báo kết quả bước đầu cuộc thi sưu tầm văn học dân gian 1969-70);

– Trong tháng 8: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 8/70 (s. 164):

Văn: Giang Tấn (Bác ra thăm đảo Cát Bà); Tô Đức Chiêu (Cô gái Gio An); Nguyễn Quang Thân (Ở bên ngoài nhà tằm); Vũ Văn Bảo (Qua Hướng Hóa); Nguyễn Thị Như Trang (Sao Mai); Đỗ Thị Vân (Cậu em vui tính); Vũ Hữu Ái (Qua lửa); Trần Hoàng Bách (Những ngày mới mẻ);

Thơ ca: Quốc Tấn (Cây vú sữa trong vườn Bác), Ánh Hồng (Người cùng phố), Nguyễn Văn Dinh (Đường Ba Trại), Liên Nam (Từ cánh tay người mẹ), Hoàng Hưng (Với cô văn công ra thăm đảo), Nguyễn Đức Mậu (Khát), Trần Mỹ Hạnh (Đêm trực chiến), Vương Trọng (Trong hầm báo vụ), Phạm Đức (Sân), Thân Như Thơ (Hoa miền đông), Võ Văn Trực (Quán nước đầu bến sông), Phạm Cẩm Nguyên (Chùm ca dao chiến sĩ quân giới);

Nghiên cứu-trao đổi: Phan Tứ (Nguyễn Trung Thành, cuộc sống và tác phẩm); Vương Trí Nhàn (Những điều quan trọng nhất); Phong Lê (Nguyễn Khải và ‘Đường trong mây’); Minh Mẫn (‘Trên tuyến đầu miền Bắc’, những tập văn xuôi của lực lượng vũ trang quân khu 4); Nguyễn Trân (Tranh và tượng của bộ đội công binh 1970); Đắc Linh (Tranh bộ đội); P.V. (Tin văn nghệ quân đội);

Tháng 9:

– Ngày 4: tuần báo Văn nghệ  s. 360:

Văn: Pièrre Abraham, Pháp (Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Tú Quỳnh dịch), thơ Xuân Diệu (Đứng bên chân Bác), hồi ức: Nguyễn Công Hoan (Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là lần đầu tiên tôi được gặp Bác, Bác không làm tôi ngạc nhiên tí nào),

Đinh Đăng Định (Những năm được chụp ảnh Bác), Thế Lữ (Tôi được diễn chèo cho Bác xem, Hồng Phi ghi); An Quân (Một số mẩu chuyện về Bác của các chiến sĩ cảnh vệ);

Bút ký: Nguyễn Văn Bổng (Mùa thu lịch sử, gửi các anh chị em văn nghệ ruột thịt miền Nam);

Thơ: Anh Thơ (Nỗi nhớ chúng con mang xanh theo thời gian), Vũ Chấn Nam (Tân Trào nhớ Bác), Hoàng Hưng (Hương thông), Lữ Huy Nguyên (Nhớ Bác), Nguyễn Xuân Thâm (Ánh trăng; Ở hai đầu biển xanh), Quảng Đà (Người đến thăm nông trường chúng tôi);

Sổ tay người yêu thơ: Nguyễn Mạnh Hào (Vài ý kiến về dịch thơ Bác Hồ); 

Phê bình: Hồ Sĩ Vịnh (Đọc tập thơ ‘Bác Hồ’ của Tố Hữu);

Đọc sách: Nguyễn Hoàng Mai (‘Xin nguyện cùng Người’, tập thơ, Nxb. Lao động);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Vĩnh Xương (Bi kịch… lạc quan);

Nhân quốc khánh Triều Tiên: thơ Phác Bát Dương (Sáng sớm trên sông Đại Đồng, Lê Sơn Hinh dịch), Yên Nguyên (Nền điện ảnh của nhân dân Triều Tiên không ngừng lớn mạnh);

Nhân quốc khánh Bulgaria: thơ: E. Bagriana (Người duy nhất, Vũ Tú Nam dịch), B. Rainov (Âm nhạc, Vũ Tú Nam dịch), D. Metodiev (Một đàn cừu đi qua, Vũ Tú Nam dịch), N. Vapzarov (Niềm tin; Mùa xuân, Xuân Diệu dịch), Xuân Hoàng (Ban-căng; Né-xép);

Bùi Quang Nam (Suy nghĩ nhỏ quanh việc vẽ tranh, nặn tượng Hồ Chủ tịch);

 

– Ngày 11: tuần báo Văn nghệ  s. 361:

‘Bác Hồ của chúng ta’: An Quân (Bé Chiến), Nguyễn Thị Uyển (Thanh khiết một làn hương, thơ);

Truyện ngắn: Tô Ngọc Hiến (Sương mù), Văn Ngọc (Sang sông);

Bút ký: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Những con sóng);

Kịch rối: Tô Hoài (Con mèo lười);

Thơ: Thủy Nguyên (Chấn động lò than), Minh Huệ (Tuyết ở Bàn Môn, bút ký thơ), Trần Hữu Thung (Nhà truyền thống);

Trang thiếu nhi: truyện Xuân Quỳnh (Người nhớn), L. Panteleev (Câu chuyện về chú lợn con học nói, Thúy Toàn dịch), Văn Biển (Bức thư từ nơi sơ tán); thơ Tống Khắc Hài (Đếm sao); các em tập sáng tác: văn Lê Ngọc Mai, 8 tuổi (Chuyện bạn Dũng), thơ Trần Ngọc Phong, 10 tuổi (Tặng biển), Chu Hồng Quý, lớp 3 (Hoan hô cây gạo đình Trung; Trong gương cháu gặp Bác Hồ; Nối dây cho diều);

Phạm Hổ (Trò chuyện với các em về thơ in trong tập ‘Bông hồng đỏ’, Nxb. Kim Đồng);

Đọc sách: Trúc Thủy (Nguyễn Ngọc Ký và ‘Những năm tháng không quên’, Nxb. Kim Đồng), Khái Vinh (‘Vừ A Dính’, tập truyện Tô Hoài, Nxb. Kim Đồng), Trần Kỳ (‘Lớn lên nhờ cách mạng’, hồi ký Phùng Thế Tài và Ngô Gia Khảm, Nxb. Kim Đồng), Quan San (‘Ông và cháu’, thơ Tú Mỡ, Nxb. Kim Đồng);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Vĩnh Xương (Lẳng lặng mà nghe chúng vặc nhau), Lê Tân (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Trung tâm điện ảnh Mỹ có gì lạ?);

Nghệ thuật: Xuân Tửu (Cảm nghĩ nhân xem bộ phim ‘Bác Hồ của chúng em’); Phan Huỳnh Điểu (Bước đi đầu); Mịch Quang (Qua hội diễn sân khấu 1970: ‘Không phải tôi’, đứa con đầu lòng của kịch dân ca Nghệ Tĩnh); Đặng Nhân (Mấy ý kiến về phòng tranh đả kích nhân ngày 20/7);

– Ngày 18: báo Văn nghệ  s. 362:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Vũ Năng An (Những ngày được sống bên Bác); Lê Minh  Hiền (Quay phim Bác ở chiến khu Việt Bắc, Trần Hải ghi);

Truyện ngắn: Ngô Ngọc Bội (Những đêm mất ngủ của ông Giắp), Triệu Huấn (Tiếng rừng);

Ký: Hồ Huy (Chuyện nhà cụ Tào);

‘Người tốt-việc tốt’: Hoàng Anh Phan (Chị đội trưởng xóm chợ Từ đường);

Thơ: Hoàng Trung Thông (Đúc; Xòe; Thanh thản; Những chiều thứ bảy; Hạt giống mới), Nguyễn Anh Đào (Hương), Đào Nguyên Bảo (Lên đỉnh hai ngàn), Nguyễn Thái Vận (Cánh đồng của mẹ), Trần Quốc Minh (Con sông thân yêu);

Chân dung: Nguyễn Xuân Nam (Huy Cận và tình yêu tha thiết cuộc đời mới);

Tư liệu văn học: Lê Thước-Trương Chính (1/ Về Nhị Khê);

Đọc sách: Trang Nghị (‘Sài Gòn ta đó’, truyện và ký, Trần Hiếu Minh, Nxb. Giải phóng), Phương Thảo (‘Lên Sùng Đô’, phóng sự, Tô Hoài, Nxb. Phổ thông);

Văn thơ đả kích: Vũ Tú Nam (‘Thời sự địa ngục số 13’: Chạm trán thân ái), Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Nguyễn Đình (Trò ba que), Trần Minh (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Một số loại bệnh của các diễn viên điện ảnh Mỹ);

Thơ: N. Guillen, Cuba (Như con cá sấu xanh; Tôi có …; Bài ca nhỏ tặng Việt Nam chống Mỹ, Tế Hanh dịch);

Bùi Công Hùng (Qua báo chí Sài Gòn: Vài nét về sinh hoạt âm nhạc ở vùng tạm bị chiếm miền Nam);

– Ngày 25: tuần báo Văn nghệ  s. 363:

Hồi ký: P. D. (Vụ án phố Ôn Như Hầu);

Truyện ký: Đào Tuấn Việt (Mũi thép);

Truyện ngắn: Nguyễn Thành Long (Con trai con gái cụ Hồ);

‘Người tốt-việc tốt’: Đoàn Vinh (Cô gái làm kè);

Thơ: Phạm Hổ (Nói chuyện với đôi chân; Trong hầm sâu Vĩnh Linh; Những ngọn cây cao; Đi xa), Nông Quốc Chấn (Gặp người mẹ Nga trong đêm trắng), Thúc Hà (Mái trường xanh), Vũ Đình Hạnh (Ánh lửa), Đào Ngọc Vĩnh (Trường Sơn hùng tráng của ta ơi);

Phê bình: Nguyễn Văn Hạnh (‘Vầng trăng quầng lửa’, tập thơ đầu tay của Phạm Tiến Duật); Thanh Lê (‘Một người không nổi tiếng’ của Lê Tri Kỷ, một tập truyện viết về người công an nhân dân có nhiều mặt khá thành công); Hiền Phương (Về những mầm non văn nghệ của lớp cháu ngoan Bác Hồ);

Sổ tay người yêu thơ: Nguyễn Đức Quyền (‘Cuộc chia ly màu đỏ’ của Nguyễn Mỹ);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (2/ Về Côn Sơn);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Phú Sơn (Thiệu không chợp mắt);

Thơ vui: Đồ Phồn (Ông giáo …dở);

Nghệ thuật: Tô Hoài (Bàn chuyện hoạt họa); Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 1/ Sâu khấu truyền thanh là gì?); Sỹ Tiến (Qua hội diễn nghệ thuật 1970: Góp thêm ý kiến về soạn kịch lịch sử); Trần Thức (Thành phố Cảng mở triển lãm mỹ thuật lần thứ 6); Nguyễn Long (Cách mạng tháng 8 và nghệ thuật nhiếp ảnh);

– Trong tháng 9: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 9/70 (s. 165):

Văn: Võ Nguyên Giáp (Những năm tháng không thể nào quên); Lê Lựu (Phía mặt trời mọc); Nguyễn Hữu Cửu (A Lưới); Nguyễn Đình Tiên (Chúng tôi đánh Mỹ);

Thơ ca: Tạ Hữu Yên (Đi tới đích), Phạm Đức (Tên Người), Trúc Chi (Miền Nam là trái tim của Bác), Thanh Tịnh (Tiếng chào đời ngày ấy), Phạm Tiến Duật (Tiếng mẹ; Đồng chí lái chính, đồng chí lái phụ và tôi; Nghe em hát trong rừng), Bùi Công Bính (Mẹ), Lê Hoài Đăng (Màu xanh; Câu chuyện hôm nay; O Ngát), Vũ Ngọc Khôi (Như hôm nay cần phải đến tiền phương), Nguyễn Hoa (Tổ ba người hành quân), Vân Long (Những con đường từ cửa biển), Long Chiểu (Miền Đông);

Nghiên cứu-trao đổi: Phạm Ngọc Trương (Bác Hồ với điện ảnh Việt Nam); Dương Minh Đẩu (Ngành điện ảnh quân đội tròn 10 tuổi); Nguyễn Kiên (Đọc ‘Những vùng trời khác nhau’ của Nguyễn Minh Châu); Thiếu Mai (Đọc ‘Hai người du kích cũ’ của Mai Ngữ); Nguyễn Thị Như Trang (Lê Lựu với tập truyện ngắn đầu tay); P.V. (Tin văn nghệ);

Tháng 10:

– Ngày 2: tuần báo Văn nghệ  s. 364:

Thơ: Phạm Văn Ký, Việt kiều ở Pháp (Bác Hồ), Vũ Quần Phương (Thơ hái ở rừng; Làng gốm Thổ Hà; Áo cho con), Nông Quốc Chấn (Tuyết; Núi Trường Thành), Nguyễn Khoa Điềm (Người dẫn đường vùng sâu), Phạm Ngà (Bến mới), Võ Văn Trực (Mẹ chỉ tay lên núi), Lò Văn E (Bản mường mọc thêm tay), Kim Thoa (Thư bạn);

Truyện ngắn: Nguyễn Phan Hách (Bến đò), Hoàng Thuận (Ở vùng quê);

‘Người tốt-việc tốt’: Hoàng Văn Thân (Người ‘tổ trưởng 4 tấn’);

Chân dung: Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (Hướng đi và triển vọng của Nguyễn Minh Châu);

Đọc sách: Thiếu Mai (Thơ Hải Lê: ‘Những người con gái quê hương’, Nxb. Giải phóng);

Sổ tay người yêu thơ: Hoàng Trung Thông (Trích dịch quan niệm thơ một số tác gia đời Thanh, TQ.);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (3/ Chùa Tư Phúc);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy);

Nhân quốc khánh TQ. 1/10: kinh kịch Bắc Kinh (Bến trấn Sa Gia, Lê Sơn Hinh dịch);

Nhân quốc khánh CHDC Đức 7/10: Nguyên Hồng (Ánh sáng và sức làm việc trên đất nước CHDC Đức); thơ: Johannes Becher (Lá cờ; Nhiệm vụ người làm thơ, Tế Hanh dịch);

Nghệ thuật: Phạm Ngọc Trương (Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong phim thời sự tài liệu Việt Nam); Nguyễn Văn Tỵ (Phát huy truyền thống tranh khắc Việt Nam); Từ Lương (‘Đường lên phía trước’, vở cải lương tốt về đề tài xây dựng CNXH); Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 2/ Ngôn ngữ trong kịch truyền thanh);

Thạch Phương (Qua báo chí Sài Gòn: Thương phế binh ngụy đòi quyền sống);

– Ngày 9: tuần báo Văn nghệ  s. 365:

Truyện ngắn: Trần Công Tấn (Giữ đỉnh Xạng Khăm);

Truyện: Vũ Tú Nam (Thử thách thầm lặng);

Kịch nói: Học Phi (Mai);

Thơ: Phạm Tiến Duật (Ngủ ở Ăng-kham nghe tiếng vượn), Nguyễn Đức Mậu (Đàn trâu bản Khẩy), Thanh Giang (Nhớ về em, nhớ về thành phố), Vương Trọng (Tàu lại vào quê ta; Cây ngọc lan);

Giới thiệu: Bích Tiên (Một ít thơ từ Huế-Trị Thiên);

Sổ tay người yêu thơ: Hoàng Trung Thông dịch (Quan niệm thơ đời Thanh, TQ.)

Phê bình: Song Thành (‘Những tiếng hát hậu phương’, những tiếng hát yêu thương, - tập truyện ngắn, nhiều tác giả, Nxb. Văn học);

Đọc sách: Minh Hải (‘Xáo Khay’ tập truyện viết về đất nước Lào anh em,- của Văn Linh, Nxb. Thanh niên), Võ Hữu (‘Phố tôi những ngày nổi dậy’, tập truyện Nguyễn Lộc, Nxb. Kim Đồng), Trang Nghị (‘Từ bình minh đầu tiên’, tập thơ văn, Chi hội VN Hải Phòng xb.);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (4/ Vườn Lệ Chi);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Ngô Linh Ngọc (Ních càng ‘nổi tiếng’);

Văn Linh (Đất nước Lào anh em: Xứ sở của những ngày hội);

Hoàng Phương, T.Q. sưu tầm và dịch (Một ít dân ca, tục ngữ Lào);

Nghệ thuật: Trần Bảng (Qua hội diễn NTSK 1970: Lao động nghệ thuật của người nghệ sĩ sân khấu); Phi Hoanh (Triển lãm tranh khắc gỗ Việt Nam); Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 3/ Âm nhạc trong kịch truyền thanh);

– Ngày 16: tuần báo Văn nghệ  s. 366:

Truyện ngắn: Bá Dũng (Trách nhiệm);

Truyện: Vũ Tú Nam (Thử thách thầm lặng, tiếp);

‘Người tốt-việc tốt’: Nhật Tuấn (Một chuyến hàng đặc biệt), Nguyễn Trọng Đắc (Thu vén cho hợp tác);

Thơ: Khương Hữu Dụng (Tay mẹ), Phan Thị Thanh Nhàn (Bài thơ tải đạn), Lê Thị Lệ (Mặt trời ở dưới hầm; Tiếng hát khu bốn cũ), Lâm Thị Mỹ Dạ (Tháng năm; Ý nghĩ), Trần Đăng Khoa (Đi đánh thần hạn);

Chân dung: Hà Minh Đức (Tế Hanh, một hồn thơ giàu cảm xúc);

Đọc sách: Trúc Thủy (‘Phụ nữ thủ đô’, tập sáng tác, Chi hội VN Hà Nội xb.);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (5/ Dinh Bồ Đề);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Vĩnh Xương (Tinh thần linh hoạt’ của lính Mỹ);

Nghệ thuật: Phan Thanh Nam (Bản giao hưởng ‘Việt Nam’ của nhạc sĩ Nhật Oki Masao); Nguyễn Đình Phúc (Vài nét về ca hát Lào); Ngọc Quỳnh kể (Làm phim ‘Lũy thép Vĩnh Linh’, Cao Nhị ghi); Nguyễn Nho Túy (Tuồng là nghệ thuật biểu hiện hay nghệ thuật thể nghiệm?); Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 4/ Tiếng động trong kịch truyền thanh); Lê Thanh Đức (Xem tranh Ngọc Linh);

Khoa học-đời sống: Hoàng Tụy (Vận trù học trong đời sống và trong sản xuất);

 

– Ngày 23: tuần báo Văn nghệ  s. 367:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Nguyễn Đình Phan (Không bao giờ quên buổi học ấy); Hoàng Xuân Nhị (Tìm hiểu chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ Hồ Chủ tịch);

Ký sự: Lương Sĩ Cầm (Tiếng hát rừng dương);

Truyện ngắn: Lê Hữu Thuấn (Xã viên đội bảy);

Truyện: Vũ Tú Nam (Thử thách thầm lặng, tiếp);

‘Người tốt-việc tốt’: Vũ Liêm (Chị Bến);

Thơ: Thi Nhị (Bản Xá định cư; Tiếng sông Đà; Đoàn dân công tiền tuyến), Đào Quang Thép (Mưa biên phòng), Trần Trương (Về Phong Dụ);

Sổ tay người yêu thơ: Phạm Hổ (Ghi nhớ về thơ cụ Phan Đình Phùng);

Phê bình: Hiếu Giang (Tiếng thơ từ ‘Đất chiến hào’,- tập thơ Minh Huệ);

Đọc sách: Bàng Sĩ Nguyên (‘Hoa rừng’, truyện và ký Dương Thị Xuân Quý, Nxb. Giải phóng), Hoàng Ngân (‘Chớp biển’, truyện ký Trần Công Tấn, Nxb. Phụ nữ);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (6/ Những di tích của Nguyễn Trãi);

Thông tin: Xuân Linh (Một nhà văn Mỹ không muốn viết đã viết về Việt Nam,- về Susan Sontag);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy), Vĩnh Xương (Cái pháo xịt của Mạc Inh-tai);

Thơ Palestin: Tawfeeq Zayad (Điều không thể được; Cây ô-liu, Hoàng Trung Thông dịch), Fadwa Tugan (Palestin bất diệt, Tế Hanh dịch), Mahmoud Darwish (Mối tình Palestin, Tế Hanh dịch), Salam Jubrain (Biệt xứ, Hoàng Trung Thông dịch);

Nghệ thuật: Trương Qua (‘Chuyện ông Gióng’, bộ phim thứ 32 của Xưởng phim hoạt họa VN); Văn Giáo (Phòng triển lãm tranh tượng trong 25 năm qua);  Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 5/ Kịch bản sân khấu truyền thanh);

– Ngày 30: tuần báo Văn nghệ  s. 368:

Truyện ngắn: Ma Văn Kháng (Vợ chồng Giàng Seo Chú);

Bút ký: Nguyễn (Tây Bắc và Lào Cai), Xuân Quỳnh (Sa Pa),

Truyện: Vũ Tú Nam (Thử thách thầm lặng, tiếp);

Thơ: Hoàng Trung Thông (Giữa rừng núi Ta Ngảo), Trang Nghị (Đi chợ Mường Khương), Mã A Lềnh (Người Mèo bước tiếp theo chân Bác), Đào Xuân Quý (Buổi sáng trong làng Mèo);

Đọc sách: Hoài Thanh (‘Thơ Quảng Bình đánh Mỹ’, Hội VN Quảng Bình xb.), Thiếu Mai (Vài nét về phong trào sáng tác văn nghệ Lào Cai);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (7/ Con cháu Nguyễn Trãi);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy);

Thơ Algérie: Abd al Kadir (Bài thơ tiễn bạn, 1847), dân ca Berber (Sẽ đánh đuổi được quân thù, 1860), dân ca (về Ahdad kêu gọi nông dân khởi nghĩa, 1871), tục ngữ (của dân Berber, Kabilla,- Minh Hải dịch), Malekh Haddad (Bài thơ ‘Những người dệt lá cờ tổ quốc’), Kateb Yacine (Bài thơ ‘Ngọn lửa ấy’), Henri Kréa (Bài thơ ‘chiến thắng’, Nguyễn Xuân Sanh dịch);

Nghệ thuật: Lưu Trọng Lư (Sân khấu chúng ta phải thể hiện được con người mới một cách chân thật, sâu sắc, đẹp đẽ); Bùi Quang Nam (Mỹ thuật trong triển lãm ‘Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 25 năm chiến đấu và xây dựng’); Huy Thu (Giới thiệu cuốn sách ảnh ‘Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 25 tuổi); Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 6/ Kịch bản sân khấu truyền thanh, tiếp);

– Trong tháng 10: tạp chí Tác phẩm mới  s. 9 (th. 9&10/1970):

Hồ Chí Minh (Tuyên ngôn Độc lập);

Thơ: E. Schumacher, CHDC Đức (Hồ Chí Minh, Đình Quang dịch), Lưu Trọng Lư (Thăm sân Bác), Hoài Anh (Đêm tuyên ngôn; Tiếng đàn bầu), Trần Hữu Thung (Việt Nam tổ quốc tôi; Khuya; Đèo anh Trỗi), Liên Nam (Tiếng thét xung phong; Hái sao; Cô gái tóc đen), Huy Cận (Cô gái Mèo, trích), Trần Huy Liệu (Tâm sự; Tiễn bạn ra tù; Tết 1940; Khóc Hồ Mạnh Thiết);

Truyện ngắn: Võ Huy Tâm (Hòn gạch chịu lửa), Lưu Nghiệp Quỳnh (Ở đây vẫn chở đò; Chuyện tình yêu của cô kiểm nghiệm), Trần Kim Thành (Chuyện của một người lái xe lửa), Nguyễn Thành Long (Lặng lẽ Sa Pa);

Tọa đàm do ‘Tác phẩm mới’ tổ chức: Nguyên Hồng, Vũ Tú Nam, Bùi Huy Phồn, Vũ Thị Thường, Nguyễn Kiên, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Tô Hoài, Nguyễn Văn Hạnh, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Huyền Kiêu, Chế Lan Viên (25 năm cách mạng, chặng đường phát triển rộng lớn của văn xuôi và thơ Việt Nam);

Phê bình-đọc sách: Tế Hanh (Hình ảnh Bác Hồ qua thơ Tố Hữu); Nguyễn Lộc (Chế Lan Viên và những tìm tòi trong nghệ thuật thơ); Ý Nhi (‘Đá trắng’, thơ Hồng Chinh Hiền, Nxb. Giải phóng); Đoàn Giỏi (Một cây bút mới đầy triển vọng, - Lê Văn Thảo, 2 tập ký và truyện ngắn ‘Ngoài mặt trận’, ‘Từ thế cao’, Nxb. Giải phóng); Đào Xuân Quý (Đọc thơ Phạm Tiến Duật, ‘Vầng trăng quầng lửa’, Nxb. Văn học); Nguyễn Kiên (Đọc ‘Tre xanh’, tập truyện ngắn Vũ Lê Mai); Nguyễn Đăng Mạnh (Đọc ‘Tôi giàu đôi mắt’, tập thơ Xuân Diệu, Nxb. Văn học);

Kinh nghiệm sáng tác: Nguyễn Công Hoan (Hỏi chuyện Tế Hanh);

– Trong tháng 10: Tạp chí Văn học  s. 5 (th. 9&10/1970) (s. 125):

Đặng Thai Mai (Tình cảm thiên nhiên trong tập thơ ‘Ngục trung nhật ký);

Trần Văn Cẩn (25 năm nghệ thuật tạo hình Việt Nam);

Tú Ngọc (Nhận xét chung về nền âm nhạc Việt Nam từ 1930 đến nay và ảnh hưởng qua lại giữa nó và văn học);

Phạm Văn Khoa (Một nền điện ảnh cách mạng đã ra đời);

Nguyễn Long (Những chặng đường vẻ vang của nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam);

Phong Lê (Văn xuôi miền Bắc từ sau 1965, và chủ nghĩa anh hùng cách mạng);

Thiếu Mai (Vài suy nghĩ về mấy năm thơ chống Mỹ);

Hoàng Trinh (Franz Kafka và vấn đề ‘huyền thoại’ trong văn học);

Phương Lựu (Phương pháp hiện thực XHCN đòi hỏi điển hình hóa đến cao độ);

Đọc sách: Trần Lê Sáng (Thơ Trần Tế Xương);

Sưu tầm: Lê Thước (Một số thơ văn ca ngợi Phan Đình Phùng);

Sinh hoạt văn học: T.N.Q. (Hội nghị truyền thuyết về thời kỳ Hùng Vương); Đĩnh Chi (Chuẩn bị kỷ niệm 250 năm sinh Lê Hữu Trác); H.T. (Nhà văn Phạm Văn Ký và nhà khoa học Nguyễn Ngọc Giao đến thăm Viện Văn học);

– Trong tháng 10: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 10/70 (s. 166):

Văn: Huy Quang (Từ ước mơ đến lần tôi được gặp Bác); Triệu Bôn (Cái vuốt); Lê Khánh (Hồng); Nguyễn Hữu Cửu (Ông già và đứa cháu); Nguyễn Trung Thành (Đất Quảng);

Thơ ca: Giao Dũng (Giữ màu xanh của đất; Đường ống), Trần Hữu Thung (Giao con), Hữu Thỉnh (Người làm đường), Trọng Khoát (Đường Quảng Bình), Phạm Như Hà (Gió Lào), Duy Khán (Núi voi), Thanh Hao (Trường trên móng cũ), Hoàng Thị Minh Khanh (Cô gái ấy), Lâm Thị Mỹ Dạ (Bình minh qua sông), Quang Chuyền (Bên kia khoảng cách);

Ca dao thông tin: Phạm Quang Ngân, Lê Thị Hương Giang;

Nghiên cứu-trao đổi: Nhị Ca (‘Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ’); Triệu Bôn (Điều đã thúc đẩy tôi viết); Nguyễn Đức Mậu (Tình người trong thơ, vốn sống trong thơ); Trang Nghị (Thu Bồn với tập thơ ‘Tre xanh’); Mộng Lục (Đọc ‘Đêm ra trận’ của Xuân Sách); Trần Minh (Đọc ‘Đường đi tới chiến công’ của Lê Hoài Đăng); (Mấy vấn đề nghề nghiệp của đạo diễn và diễn viên kịch nói); P.V. (Tin văn nghệ quân đội);

Tháng 11:

– Ngày 6: tuần báo Văn nghệ  s. 369:

X. (Tỉnh nhỏ quê hương,- thư gửi bạn cũ ở Campuchia, Lê Khánh trích dịch);

Truyện: Vũ Tú Nam (Thử thách thầm lặng, tiếp, hết);

Chân dung: Trịnh Xuân An (Mấy nhận xét bước đầu về ‘Truyện và ký’ của Nguyễn Thi);

Thơ: Nguyễn Đình Hồng (Những trái mặt trời; Đường đèo; Mặt bằng), Sỹ Hồng (Quảng Ngãi có xa không?), Vân Long (Thành phố này tôi yêu), Xuân Hoài (Qua đèo Ngang);

Sổ tay người yêu thơ: Phạm Tiến Duật (Đọc lại một bài thơ của Maiakovski);

Giới thiệu: Lê Sơn (Tiểu thuyết ‘Cây bạch dương’ của M. Bubenov);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Một vài chi tiết về Nguyễn Thị Lộ);

Nhân quốc khánh Liên Xô 7/11: thơ Nông Quốc Chấn (Nói chuyện với những người thợ Samarkan), thơ Xuân Miễn (Cành táo; Trên tàu; Dáng ngựa xa); truyện ngắn Ju. Rytkheu, LX. (Thần linh đã chết, Nguyễn Thành Long dịch); thơ E. Dolmatovski (Cây tre; Cái tâm hồn Nga ấy, Xuân Diệu dịch);

Văn đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Ních Xoong du hý du ký sự);

Nghệ thuật: Từ Lương (Một bước tiến của ngành san khấu, tường thuật Hội nghị bàn về vấn đề hiện thực và truyền thống trong nghệ thuật sân khấu VN, 12-16/10/70); Yên Thế (Bước đầu tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng phim truyện về Lenin); Nguyễn Trân (Về bức tranh tường thạch cao màu ‘Miền Nam xuân 1968’); Kim Thanh (Hội diễn ca múa nhạc 1970 đợt I); Hòa Tân (Hai nữ nghệ sĩ Mỹ với Việt Nam, [Jane Fonda, Joan Bayer]); Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 7/ Kịch bản sân khấu truyền thanh, tiếp);

– Đầu tháng 11: Hội nghị khoa học của Khoa Ngữ văn trường ĐH Tổng hợp Hà Nội; 26 báo cáo được trình bày: ‘Tìm hiểu chủ nghĩa anh hùng cách mạng và cái cao thượng trong thơ Bác’ (Hoàng Xuân Nhị), ‘Về tác phẩm ‘Bản án chế độ thực dân Pháp’ của Nguyễn Ái Quốc’ (Đỗ Đức Hiểu), ‘Những vấn đề đặt ra trên đường nghiên cứu văn học VN’ (Đinh Gia Khánh), ’25 năm tiểu thuyết’ (Phan Cự Đệ), ’25 năm phát triển từ vựng’ (Nguyễn Văn Tu), ‘Mấy vấn đề lý luận thơ trữ tình’  (Hà Minh Đức), ‘Bàn về tính dân tộc’  (Hoàng Như Mai), ‘Thơ Hồ Chủ tịch và thơ Đường’  (Lê Đức Niệm), ‘Nghiên cứu ngôn ngữ Tày-Nùng’  (tổ ngôn ngữ), ‘Lenin và chủ nghiã anh hùng cách mạng’  (Nguyễn Kim Đính),… Chủ nhiệm Khoa, Gs. Hoàng Xuân Nhị báo cáo tổng kết 10 năm nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên trong khoa, biểu dương những nỗ lực xây dựng các bộ giáo trình về lý luận văn học, về văn học nước ngoài, về ngôn ngữ học, một số công trình đã xuất bản về M.Gorki, Maiakovski, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, về phong trào thơ mới, về hình thức thơ Việt Nam, ‘Đường vào thơ’, ‘Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực’, về soạn giả Trần Hữu Trang, về ‘Thiên Nam ngữ lục’, v.v…[8]    

– Ngày 13: tuần báo Văn nghệ  s. 370:

Ký: Xuân Toàn (Lên Mường Tong);

Truyện ngắn: Hoàng Quốc Hải (A Chi);

‘Người tốt-việc tốt’: Nguyễn Hữu Tuấn (Báo quặng);

Chùm thơ địa chất: Lê Bính (Đường truy than), Thanh Giang (Nghe chim), Đinh Văn Thông (Về thăm Uông Thượng), Hoàng Bình Trọng (Tiếng hát trên đảo mỏ), Phạm Ngọc Điền (Với con);

Ca dao địa chất: Hồng Long (Tim), Mai Văn (Trong mơ), Tú Khoa (Thi sức);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Tâm hồn người địa chất);

Phê bình: Lại Giang (‘Tre xanh’, tập truyện ngắn Vũ Lê Mai);

Kinh nghiệm: Nguyễn Kiên (Một ý kiến về truyện ngắn);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Giấc mơ tổng Ních…), Nguyễn Đình (Tụt găng tụt vòi);

Nghệ thuật: Hà Xuân Trường (Một sự kiện học thuật quan trọng,- phát biểu kết thúc Hội nghị sân khấu 1970); Hình ảnh một số văn nghệ sĩ: Trúc Quỳnh (Đời tôi trên sân khấu); Yên Nguyên (‘Đồng hồ chuông điện Kremli’ trên màn ảnh); Đào Lê Bình (Câu chuyện điện ảnh: Chiếm lĩnh đỉnh cao);  Nguyễn Nùng (Tìm hiểu nghệ thuật: 8/ Kết luận về sân khấu truyền thanh); Thái Hanh (Xem ký họa và tranh của Lưu Công Nhân);

M.H. (Các nhà văn Ba Lan đối với Việt Nam chiến đấu);

– Ngày 20: tuần báo Văn nghệ  s. 371:

Truyện ngắn: Thu Bồn, VNGP (Lửa và mẹ), Văn Ngọc (Xuôi dòng), Võ Huy Tâm (Giữa hai đợt gió mùa);

‘Người tốt-việc tốt’: Trung Sơn (Thúy);

Hình ảnh một số văn nghệ sĩ: Trang Nghị (Nhà thơ Nông Quốc Chấn);

Thơ: Trần Vàng Sao, VNGP (Hồ Chí Minh muôn năm), Quế Lâm, VNGP (Tấm biển đỏ), Minh Hoài (Trong phòng tranh miền Nam), Cảnh Trà (Tiếng kèn Pi; Bờ biển sáng nay);

Sổ tay người yêu thơ: Xuân Tửu (‘Mồ anh hoa nở’ của Thanh Hải);

Đọc sách: Hoàng Ngân (‘Niềm tin của cô giáo’, tập truyện và ký, Nxb. Thanh niên), Mai Ngữ (‘Trời xanh’, tập truyện Xuân Thiều);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Cái cười gượng…), Thôi Sơn (Ních bom…Ních bại), Trần Lê (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Buôn bán văn học ở Mỹ);

Trang văn nghệ nước ngoài: thơ José Marti (Thơ tôi; Chàng kỵ sĩ nhỏ của tôi; Ước mong; Những người anh hùng, - Hoàng Trung Thông, Lê Xuân Quỳnh dịch); truyện ngắn Camillo Erero (Giờ thì không còn sợ nữa, Bùi Hồng Hải dịch); Nguyễn Trân (Tranh vẽ về Việt Nam của họa sĩ Cuba Jorge Rigol);

Nghệ thuật: Đinh Quang Thành (Suy nghĩ về những tấm ảnh); Thùy Linh (Về trách nhiệm người viết kịch); Lô Thanh (Mấy suy nghĩ về sự phát triển nghệ thuật thanh nhạc dân tộc); Phạm Viết Song (Đề tài lao động sản xuất trong phòng triển lãm tranh tượng của công nhân và lao động thủ đô 1970);

– Ngày 27: tuần báo Văn nghệ  s. 372:

Kịch: Xuân Trình (Hai mươi giấc tốt);

‘Người tốt-việc tốt’: Phan Xuân Cuộc (Bà Quý);

Thơ: Bằng Việt (Bông cẩn; Những gương mặt, những khoảng trời; Vùng sâu; Truông nhà Hồ), Đỗ Quang Hưng (Sân ga);

Truyện: Võ Huy Tâm (Giữa hai đợt gió mùa, tiếp);

Hình ảnh một số văn nghệ sĩ: Nguyễn Văn Hạnh (Thơ Chế Lan Viên);

Tiểu luận, phê bình: Phùng Văn Tửu (Đọc những trang phê bình văn học của F. Engels);  Đinh Tiếp (Đọc ‘Nhật ký đường trong’, tập ký của Lữ Huy Nguyên);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Cái bánh vẽ cuả Ních…), Ngô Linh Ngọc (Đục nước béo cò… mồi);

Thơ vui: Thanh Long (Đừng như);

Nhân quốc khánh Albania: Thiên Nga (Những bài ca của đất nước phượng hoàng); thơ: Ismail Kadare (Đồng chí đường dây, Nguyễn Xuân Sanh dịch), Anh Thơ (Dưới bóng cây ô-liu);

Hồi ký: Aduard Avreling (F. Engels ở nhà mình, Trần Khuyến dịch);

Nghệ thuật: Nông Quốc Chấn (Hình tượng người dân tộc thiểu số trên sân khấu,- phát biểu tại hội nghị về hiện thực và truyền thống trong nghệ thuật sân khấu); Ngô Mạnh Lân (Nhìn lại bước đường mười năm của phim hoạt họa); Hồng Phi (Một nghệ thuật khỏe nhẹ, hào hứng,- về đoàn nghệ thuật tạp kỹ CHDC Đức sang VN biểu diễn);

– Trong tháng 11: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 11/70 (s. 167):

Văn: Lê Đức Triêm (Đảo Cồn Cỏ đón thư Bác); Đậu Kỷ Luật (Chuyện bắt đầu từ ngọn núi Pa Ka); Hồ Phương (V); Tô Ngọc Hiến (Nhà máy); Nguyễn Trung Thành (Đất Quảng);

Thơ ca: Chu Văn Mười (Khúc ca Hồ Chí Minh), Nguyễn Khoa Điềm (Tâm sự), Lê Khánh Thông (Trên những con đường), Hồ Khải Đại (Tiễn con), Trần Quốc Thực (Chú tắc kè), Nguyễn Hữu Phách (Chè vườn mẹ), Trần Trung Hiếu (Nơi mảnh đất mang tên ga Hàng Cỏ), Hoàng Bình Trọng (Con đường cuả mẹ), Đào Thắng (Hai đầu chiến dịch);

Ca dao pháo binh: Nguyễn Anh, Phạm Bá Sĩ;

Nghiên cứu-trao đổi: Trịnh Xuân An (Biểu hiện hiện thực mới trong văn học); Phạm Sĩ Lộc (Qua một số ca khúc viết về người anh hùng); Quốc Viễn (Tròn vành rõ chữ, một yêu cầu cấp thiết của nghệ thuật ca hát); P.V. (Tin văn ghệ quân đội);

– Trong tháng 11: tại New Delhi, Ấn Độ, Đại hội các nhà văn Á-Phi; 32 nước cử đoàn đại biểu, 11 nước cử quan sát viên tới dự; đoàn ĐB Hội nhà văn VN gồm Tô Hoài, phó tổng thư ký Hội, trưởng đoàn, và Nguyễn Khải, UV thường vụ BCH, thành viên; đoàn ĐB Hội văn nghệ GPMNVN gồm Phan Tứ, UV BCH, trưởng đoàn, và nhà thơ Thu Bồn, thành viên. ĐH ra tuyên bố chung về văn học Á-Phi chống chủ nghĩa đế quốc, ra một số nghị quyết về Đông Dương, Trung Đông, Nam Phi, ủng hộ nhân dân các khu vực này chống đế quốc; ĐH làm lễ trao tặng giải thưởng ‘Hoa sen’ (tặng thưởng hàng năm của Hội nhà văn Á-Phi) cho 6 nhà văn nhà thơ Việt Nam, Nam Phi, Palestin, Ấn Độ, Liên Xô, Angola; thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi đến chủ tọa và trao tặng. Nhà văn Tô Hoài được tặng giải thưởng ‘Hoa sen’ năm 1969-70 về tiểu thuyết ‘Miền Tây’; tại lễ trao giải, Tô Hoài tuyên bố đem toàn bộ vinh dự tinh thần và vật chất của giải ‘Hoa sen’ tặng lại nhân dân và các nhà văn trong Hội văn nghệ giải phóng miền Nam VN, cử chỉ này được các nhà văn Á-Phi có mặt tại đó hoang nghênh nhiệt liệt. [9]   

Tháng 12:

– Ngày 4: tuần báo Văn nghệ  s. 373:

Thư: Tế Hanh (Gửi Nguyễn Trung Thành), thơ: Phạm Hổ (Gửi những bạn nước ngoài từng đến VN);

Ghi chép: Nguyễn Khái Huân (Kỷ niệm khẩu đội), Nguyễn Văn Vân (Một ca mổ ở Quảng Bình);

Truyện: Võ Huy Tâm (Giữa hai đợt gió mùa, tiếp, hết);

Thơ: Phạm Tiến Duật (Nhớ lại những trận gió di dân; Chia ra nhập lại; Những dòng sông chảy mãi; Cái tai; Cái chao đèn), Hồng Chinh Hiền (Cầu thang lên rông), Mã Giang Lân (Cánh đồng bên chân núi; Hạt thóc mùa này), Nguyễn Xuân Phầu (Bài thơ làm cỏ lúa);

Hình ảnh một số văn nghệ sĩ: Nguyễn Duy Bình (Tâm hồn thơ Xuân Diệu);

Phê bình: Nguyễn Xuân Nam (Một cái nhìn kỳ thú, yêu thương, - đọc ‘Chú bò tìm bạn’ của Phạm Hổ);

Văn thơ đả kích: Nguyễn Đình (Đồng minh Mỹ đấy), Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Vở mồm Le…), Vĩnh Xương (Che trời được sao?), Lê Tân (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Đồ chơi cho trẻ em ở Mỹ);

Nghệ thuật: Trần Bảng (Những xu hướng phát triển nghệ thuật kịch hát dân tộc trong 20 năm qua,- báo cáo đọc tại hội nghị sân khấu 1970); Tạ Mỹ Duật (Về vấn đề xây dựng nhà ở); Công Vũ (Thể hiện những đề tài lớn tronng phim truyện);

Khoa học-đời sống: Nguyễn Lân Dũng (Vi sinh vật và đời sống con người);

– Ngày 11: tuần báo Văn nghệ  s. 374:

Ký: Hoài Thanh (Trở về thăm quê Bác);

Nhân 250 năm sinh Lê Hữu Trác (Bệnh án chữa chứng bệnh đậu hiểm, bản dịch);

Truyện ngắn: Bá Dũng (Tiếng gọi);

Bút ký: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Quỳnh Lưu);

Phóng sự: Hồng Phi (Trong rừng Con Cuông);

Trang thơ Nghệ An: Xuân Tiếu (Viếng Bác), Trần Hữu Thung (Thành phố Vinh; Người gác cầu; Tiếng hát thì thầm), La Quán Miên (Anh được về thăm), Quang Huy (Thư viện vùng hỏa tuyến);

Thơ: Trang Nghị (Trèo núi thăm hồ);

Sổ tay người yêu thơ: Nguyễn Đức Quyền (‘Chín thương’);

Sinh hoạt phê bình: P.V. (Trao đổi về truyện ngắn chống Mỹ của Bùi Hiển, tường thuật);

Tiểu luận: Hoàng Trung Thông (Một vài suy nghĩ về dòng thơ trẻ trên miền Bắc hiện nay);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (1/ Thành Lục Niên và Nguyễn Thiếp);

Đọc sách: Thiếu Mai (5 năm thơ Nghệ An chống Mỹ);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Bí quá hóa liều…), Phú Sơn (Ních-xơn gỡ gạc);

Hình ảnh một số văn nghệ sĩ: Trần Hiếu (Ý nghĩ và tâm sự của một diễn viên hát);

Nghệ thuật: Tào Mạt (Vài dòng tâm sự của người viết kịch bản sân khấu); Trung Sơn (‘Đường về quê Bác’,- ghi trong những ngày cùng đoàn điện ảnh Tổng công đoàn đi làm phim ‘Đường về quê Bác’); Vương Bá (Giới thiệu đoàn văn công miền núi Nghệ An);

– Ngày 18: tuần báo Văn nghệ  s. 375:

Hội LHVHNTVN (Tuyên bố hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng LĐVN và Chính phủ VNDCCH ngày 10/12/70);

H.T. (Phong trào HSSV Sài Gòn chống Mỹ cứu nước: Từ một góc phòng triển lãm);

Ký: Phạm Việt (‘Dứt khoát phải đánh chúng nó!’);

Truyện ngắn: Trần Trọng Thìn (Ánh trăng rằm), Lưu Nghiệp Quỳnh (Chuyện của một người lính), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Ở một trạm gác);

Thơ: Tế Hanh (Một bức thư), Gia Ninh (Về thăm những nơi chiến đấu cũ), Hoàng Bình Trọng (Đọc ‘Hoa dừa’), Nguyễn Khoa Điềm, VNGP (Cát trắng Phú Vang), Hoàng Phủ Ngọc Tường, VNGP (Trên những con đường rừng cũ), Tô Nhuậnn Vỹ, VNGP (Cho anh đổi lời);

Người Yêu Thơ (Tin thơ);

Hình ảnh một số văn nghệ sĩ: Phan Cự Đệ (Trần Hiếu Minh với ‘Rừng U Minh’);

Giới thiệu: Trần Kỳ (‘Trên tuyến lửa Trường Sơn’, Đoàn X. xb.);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (2/ Bút tích của Quang Trung);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Đầu voi óc tép…), Trần Quý Thường (Văn tế rủa Ních-xơn);

Thơ: K. Simonov, Nga, LX. (Tổ quốc, Tế Hanh dịch; Không đề, Hoàng Trung Thông dịch; Mộ Gorbatov, Xuân Diệu dịch);

Nghệ thuật: Trọng Anh (Hoạt động sân khấu ở các vùng giải phóng miền Nam); Từ Lương (Những tiết tục của đoàn Ostrava, Tiệp Khắc: Một nghệ thuật múa rối mới lạ, hào hứng); Phan Thanh Nam (Hội diễn ca múa nhạc 1970 đợt 2);

– Ngày 25: tuần báo Văn nghệ  s. 376:

Thơ: Chế Lan Viên (Phác thảo cho một trận đánh, một bài thơ diệt Mỹ), Nguyễn Đắc Xuân, VNGP (Tiếng hát của cô gái vận chuyển), Vĩnh Mai (Người con gái sông Hương), Hoàng Minh Châu (Cảnh giác; Nước lên; Em hát);

Truyện ngắn: Bùi Bình Thi (Sau những cánh rừng phía tây);

Ghi nhanh: (Những ngày cuối năm lửa đỏ), Bích Thuận (Lũ nhỏ);

Hình ảnh một số văn nghệ sĩ: Hà Minh Đức (Cách mạng và con đường văn học của Nguyễn Huy Tưởng);

Giới thiệu: Mai Phan (‘Binh thư yếu lược’, bản dịch Viện sử học, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. KHXH);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (3/ Đền thờ Lê Ngọc Hân);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Quân cảnh Huê Kỳ bị hố…), Vĩnh Xương (Tôm-xơn, cố vấn ‘bình định’ của tổng Ních);

Thơ: Kateb Yacine, Algerie (Một chiến ghế điện cho ngài tổng thống, thư ngỏ gửi Tổng thống Nixon); Agostino Neto (Chúng ta, Bằng Việt dịch), An-đa La-ra (Bằng Việt dịch), B. Kan-phô (Trường học, Thúy Toàn dịch);

Truyện: Alvaro Yunque (Người bù nhìn, Lê Sơn Hinh dịch từ Trung văn);

Nghệ thuật: Hà Huy Giáp (Phấn đấu cho một nền sân khấu XHCN Việt Nam); Nguyễn Trân (David Alfaro Siqueiros với nền hội họa hiện đại Mexico); Trần Đức Hinh (Nhân tổng kết phim VN 4 năm chống Mỹ cứu nước: Nghệ thuật xung kích ở tiền tuyến lớn); Đỗ Nhuận (Tiếng hát miền Nam, qua 10 năm chiến đấu); Quang Hải (Tên tuổi và sự nghiệp của L.V. Beethoven đời đời sống mãi);

– Trong tháng 12: tạp chí Tác phẩm mới  s. 10 (tháng 11&12/1970):

Trích cương lĩnh MTDTGP MNVN (Xây dựng văn hóa giáo dục dân tộc dân chủ…)

Tiểu thuyết: Phan Tứ (Mẫn và tôi, trích), Đào Vũ (Con đường mòn ấy, trích);

Thơ: Dương Hương Ly (Gò Nổi; Xin cám ơn những ngày gian khổ; Một dũng sĩ ra đời; Bài thơ về hạnh phúc), Nguyễn Mỹ (Hơi ấm đường rừng; Vào xuân), Anh Thơ (Sao thu về quá vội vàng; Con tinh yêu thương; Tiếng đất), Nguyễn Xuân Thâm (Sa Vỹ; Hoa tím; Hương sen; Địa đạo), Nguyễn Hoài Phương (Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người; Người gác đường ra mặt trận; Mùa hạ, mùa mưa; Những chiến cầu khổng lồ), 

Ký: Nguyễn Kiên (Ghi chép về lúa xuân);

Truyện ngắn: Bùi Huy Phồn (Từ câu chuyện về con chim sẻ đá);

Tiểu luận: Hoàng Trung Thông (Mười tuổi vẻ vang của một nền thơ chiến đấu,- về thơ ca giải phóng miền Nam VN); Tô Hoài (Trên tiền tuyến lớn, lực lượng văn học cách mạng đương triển khai thắng lợi,- đọc ‘Truyện và ký miền Nam chọn lọc’, Nxb. Giải phóng); Lưu Quý Kỳ (Lớn lên trong chiến đấu chống giặc và xây dựng con người, - về văn nghệ giải phóng MNVN); Nguyễn Đức Đàn (Nhà văn miền Nam vùng tạm bị chiếm trước thời cuộc mới);

Nguyễn Huệ Chi (Sức sống của thơ văn Lê Hữu Trác);

Thơ Lê Hữu Trác (Hành y mộng vũ quá Mông sơn, Huệ Chi-Đào Thản dịch; Kinh thành dạ tọa, Huệ Chi dịch; Biện khanh tướng mệnh, Phan Võ dịch; Quy cố hương cảm tác, Đào Thản dịch);

Đọc sách: Hoàng Trung Nho (‘Hoa rừng’, truyện và ký, Dương Thị Minh Hương, Nxb. Giải phóng); Vũ Quần Phương (‘Bài ca khởi nghĩa’, thơ Hưởng Triều, Nxb. Giải phóng); Xuân Quỳnh (‘Huế nổi dậy rồi’, tập thơ, Nxb. Giải phóng); Đoàn Giỏi (‘Rừng U Minh’, tiểu thuyết Trần Hiếu Minh, Nxb. Giải phóng); Nguyễn Đăng Mạnh (Vài ý nghĩ về chỗ mạnh chỗ yếu của tiểu thuyết Nguyên Hồng); Thiếu Mai (‘Đi suốt bài ca’, tập thơ Tế Hanh, Nxb. Văn học); Phong Vũ (‘Người cầm súng’, tập truyện ngắn Lê Lựu, Nxb. Văn học); Xuân Tửu (‘Đất chiến hào’, tập thơ Minh Huệ, Nxb. Văn học);

– Trong tháng 12: Tạp chí Văn học  s. 6/1970 (s. 126):

Nguyễn Xuân Nam (Nghệ thuật là bông hoa của tâm hồn);

Phùng Văn Tửu (Engels và vấn đề điển hình);

Xuân Trường (‘Bão biển’, tiểu thuyết của Chu Văn);

Chu Nga (Về quá trình sáng tác của Bùi Hiển);

Lê Thị Đức Hạnh (Vấn đề nông dân và cuộc sông nông thôn trong truyện của Nguyễn Công Hoan trước cánh mạng);

Nguyễn Huệ Chi (Lê Hữu Trác và con đường của một người trí thức trong cơn phong ba dữ dội nửa cuối thế kỷ XIX);

Hoa Bằng (‘Quan Âm tân truyện’ tức ‘Quan Âm Thị Kính’ xuất hiện từ bao giờ và tác giả là ai?);

Trần Nghĩa (Loại bớt một số bài thơ không phải của Tú Xương);

Bùi Công Hùng (Văn học lãng mạn tiêu cực vùng tạm bị chiếm miền Nam, một dòng văn học đã lỗi thời);

Trường Lưu (Một thứ thơ Tây nguội lạnh);

Nguyễn Đức Nam (Hình tượng con người Việt Nam trong văn học Pháp hiện đại);

P.V. (Về việc biên soạn cuốn ‘Lý luận văn học’ của Viện văn học);

Sưu tầm: Tôn Quang Duyệt (Một bài của Hồ Chủ tịch về cụ Phan Bội Châu);

Sinh hoạt văn học: Vọng Giang (Hội nghị bàn về vấn đề hiện thực và truyền thống trong nghệ thuật sân khấu VN); P.V. (Hội nghị khoa học Khoa Ngữ văn trường ĐH tổng hợp Hà Nội);

– Trong tháng 12: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 12/70 (s. 168):

Văn: Đặng Ái Sơn (Kỷ niệm gửi về); Nguyễn Triệu (Anh Cương); Trần Chi (Người lái chính của tôi); Trần Minh Hồ (Trận đánh mìn); Xuân Thiều (Thôn ven đường); Trần Thanh Sơn (Chuyến xe cuối năm);

Thơ ca: Nam Hà (Bài ca của người du kích Bác Ái), Nguyễn Quang Hà (Chiến công thầm lặng), Trần Phương Trà (Người anh hùng chân đồng vai sắt), Thân Như Thơ (Chuyện dọc đường; Cành dương), Nguyễn Đức Mậu (Chiếc ba lô; Áo có ngụy trang), Vương Trọng (Hố bom trong vườn; Nói với các anh), Lương Sơn (Trận địa chúng tôi; Đêm cửa biển);    

Nghiên cứu-trao đổi: Nhị Ca (Bác Hồ và những ngày đầu mới giành chính quyền);

Khương Minh Ngọc (Đọc ‘Rừng U Minh’); Xuân Hồng (Lời ca tiếng nhạc bay bổng từ 25 năm qua); VNQĐ (Năm thứ 3 của cuộc vận động ghi chép về đề tài chiến đấu chống Mỹ cứu nước); Đắc Linh (Đọc ‘Trận địa quê hương’); P.V. (họp mặt với các bạn viết văn xuôi); P.V. (Tin văn nghệ quân đội);

 

Trong năm 1970 đã xuất bản:

 

TIỂU THUYẾT, TRUYỆN

‒ Bóng nước hồ Gươm, t. 1 – 2 (tiểu thuyết) Chu Thiên (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Đêm ra trận (tập truyện và ký) Xuân Sách (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Đường trong mây (tiểu thuyết) Nguyễn Khải (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Gió bạch đàn (tập truyện ngắn) Xuân Du, Vũ Tuyến, Xuân Cang, Quốc Xuyên, Nguyễn Khoát (H.: Nxb. Lao động, 1970)

‒ Một người không nổi tiếng (tập truyện ký) Lê Tri Kỷ (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Ngày và đêm hậu phương (truyện) Nguyễn Kiên (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Người cầm súng (tập truyện ngắn) Lê Lựu (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Những tiếng hát hậu phương (tập truyện) Bùi Hiển (H.: Nxb. Thanh niên, 1970)

Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn) Nguyễn Minh Châu (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Niềm vui thiêng liêng (tập truyện ngắn) Quốc Xuyên, Vũ Dương Quỹ, Dương Đình Hy, ... (H.: Nxb. Lao động, 1970)

Ở xã Trung Nghĩa (tiểu thuyết) Nguyễn Thi (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

‒  Ra đảo (tiểu thuyết) Nguyễn Khải (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

Rừng U Minh  (tiểu thuyết) Trần Hiếu Minh (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

Tia nắng (tập truyện ngắn) Mai Vui, Nhật Tuấn, Lưu Hoài, Quốc Xuyên, Huy Bảo (H.: Nxb. Thanh niên, 1970)

Tre xanh (tập truyện) Vũ Lê Mai (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Truyện ngắn chọn lọc 1960-1970 (tuyển tác phẩm văn nghệ giải phóng) (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

‒ Truyện ngắn về công nhân (tập truyện ngắn) Lý Biên Cương, Lê Điệp, Nguyễn Sơn Hà, Sỹ Hồng,… (H.: Nxb. Lao động, 1970)

Ước mơ của đất (truyện ký) Nguyễn Thi (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

Vỡ bờ, t. 2 (tiểu thuyết) Nguyễn Đình Thi (H.: Nxb. Văn học, 1970)

TÁC PHẨM THỂ KÝ

Bác Hồ ở Pháp (hồi ký do một số người ở Pháp quen biết Hồ Chí Minh kể) Hồng Hà ghi (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Bác Hồ về Tân Trào (hồi ký) Võ Nguyên Giáp, Song Hào, Nguyễn Lương Bằng, ... (Tuyên Quang: Ty văn hoá Tuyên Quang xb., 1970)

Bước đường viết văn (hồi ký) của Nguyên Hồng (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Chị chủ nhiện thôn Thượng (truyện ký) Hoàng Tuấn Nhã (H.: Nxb. Phụ nữ, 1970)

Chớp biển (truyện ký) Trần Công Tấn (H.: Nxb. Phụ nữ, 1970)

Chuyện một cô giáo (truyện ký) Trần Ngọc Thanh (H.: Nxb. Phụ nữ, 1970)

Con đường cách mạng (hồi ký về Hoàng Văn Thụ, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh, Trần Đăng Ninh, Trần Độ, Hoàng Văn Thụ) (H.: Nxb. Thanh niên, 1970)

Cô gái bắn tỉa (tập các mẩu chuyện chiến đấu, vận động binh lính địch và đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam) nhiều tác giả (H.: Nxb. Phổ thông, 1970)

Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng (hồi ký) Song Hào (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Đấu tranh nối tiếp đấu tranh  (hồi ký)  (Hải Phòng: Sở văn hoá Hải Phòng xb., 1970)

Đêm ra trận (tập truyện và ký) của Xuân Sách (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Đêm yên tĩnh (truyện và ký) Bùi Công Bính, Đỗ Chu, Nguyễn Trí Huân.... (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Đường chân trời  (truyện và ký) Huy Phương (H.: Nxb. Thanh niên, 1970)

Gió lưng truông (truyện và ký) Nguyễn Tường Lân (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Hạt giống đỏ  (tập truyện ký) của Nguyễn Trọng, Hồ Mậu Đường, Văn Lợi (Việt Bắc: Nxb. Dân tộc Việt Bắc, 1970)

Hạt máu  (hồi ký) Trần Bảo (H.: Nxb. Lao động, 1970)

Hồi ký cách mạng Hà Tây, T. 1 – 2  (sưu tập) Dương Nhật Đại, Phan Thị Khởi, Nguyễn Tri Thuỷ, Trương Đỗ Thành, Dương Văn Bát, Nguyễn Quốc Hồng... (Hà Tây: Ban nghiên cứu lịch sử Hà Tây xb., 1970)

Khi Đảng ta ra đời, T. 2  (hồi ký cách mạng) Hồng Vũ, Hoài Nam, Đỗ Cao Đàm, Phạm Tất Đắc (Nam Hà: Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Nam Hà xb., 1970)

Ký chọn lọc 1960-1970 (tuyển tác phẩm văn nghệ giải phóng) (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

Mầm sống  (tập truyện và ký) Triệu Bôn (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

Ngục Kontum (phóng sự) Lê Văn Hiến (H.: Nxb. Văn học, In lần hai, 1970)

Nhà đồi (truyện ký) của Quang Dũng (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Nhật ký đường trong (truyện ký) của Lữ Huy Nguyên (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Như thép (truyện dũng sĩ diệt Mỹ Huỳnh Thị Kiểm) Nguyễn Hải Trừng (H.: Nxb. Phụ nữ, 1970)

Những lần gặp Bác (truyện ký) nhiều tác giả (Hải Phòng: Sở văn hoá Hải Phòng xb., 1970)

Những năm tháng không thể nào quên, phần 1  (hồi ký Võ Nguyên Giáp) Hữu Mai ghi (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

Những người con trung hiếu (chuyện thương binh) Nguyễn Thinh, Nguyễn Đình Tăng, Hồ Vân... (H.: Nxb. Phổ thông, 1970)

Sài Gòn ta đó  (ký và truyện) của Trần Hiếu Minh (Kđ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

Thư hậu phương (sưu tập thư từ) Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Thị Miên, Đỗ Thị Xào,... (H.: Nxb. Phụ nữ, 1970)

Thư về xóm núi chuyện kể) Minh Tâm, Tống Văn (H.: Nxb. Phụ nữ, 1970)

Tiếp sức cho đất (tập bút ký phóng sự về công nghiệp địa phương) Trần Việt, Ngọc Thạch, Nguyễn Kế Truyền,... (H.: Nxb. Lao động, 1970)

Từ một làng ở Vĩnh Linh (truyện và ký) của Xuân Trình (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Từ rừng núi Ba Tơ  (hồi ký) Phạm Kiệt kể, Lương Sĩ Cầm ghi (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

‒ Từ thế cao  (ký sự) Lê Văn Thảo (K.đ., Nxb. Giải phóng, 1970)

Uống nước nhớ nguồn, t. 2  (truyện ký) của Phùng Văn Khẩn, Tô Hoàng, Hoàng Hải,....  (H. : Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

Ước mơ của đất (truyện ký) của Nguyễn Thi (H. : Quân đội nhân dân, 1970)

  Văn Nam Hà bốn năm chống Mỹ cứu nước 1965-1968 (tuyển) gồm tác phẩm của Chu Văn, Đặng Hải Lâm, Đắc Trung,...  (Nam Hà : Ty văn hoá Nam Hà xb., 1970)

Vẫn con đường ấy (truyện ký) Nguyễn Thọ Sơn (H.: Hội văn nghệ và Thành hội phụ nữ Hà Nội xb., 1970)

KỊCH BẢN 

Bài hát chèo, 1965-1970 (sưu tập) Nguyễn Văn Am, Nguyễn Âm, Xuân Chiểu, ...  (Hà Tây: Ty văn hoá thông tin Hà Tây xb., 1970)

Bông sen trắng  (tập kịch ngắn) Bành Thông, Thanh Bình, Ngọc Thọ (H.: Sở văn hoá thông tin xb., 1970)

Cây xoan  (kịch thơ) Hồ Thiện Ngôn (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

‒ Chiếc gùi đạn (tập kịch ngắn) Vĩnh Hà, Nguyễn Tuyến Trung, Tùng Bách (Kđ: Nxb. Giải phóng, 1970)

Con đường sáng (kịch) Nguyễn Quỳnh (Lai Châu: Ty thông tin văn hoá Lai Châu xb., 1970)

Giấc mơ bé rồng  (kịch hát ba màn) của Đỗ Nhuận (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Hương lúa nước (tập chèo) Nguyễn Thựơng Thiêm, Xuân Du, Văn Chung (Hà Tây: Ty văn hoá thông tin Hà Tây xb., 1970)

Hương sen (tập thơ ca chèo) Đình Cử, Quốc Hoa, Nhuệ Giang, ... (Hà Tây: Ty văn hoá Hà Tây xb., 1970)

Kịch ngắn chống Mỹ, T. 1 (sưu tập) Nguyễn Tri Nguyên, Trần Văn Chi, Dương Đình Liệu.... (Hà Tĩnh: Ty văn hoá Hà Tĩnh xb., 1970)

Kịch ngắn Nghệ An 1965-1970 (sưu tập) Tiến Đang, Nguyễn Trung Giáp, Nguyễn Như Hàm, ... (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Làn điệu chèo cổ (sưu tập)  (Hà Tây: Ty văn hoá Hà Tây xb., 1970)

Lúa xuân (tập bài ca tấu) Văn Giáp, Xuân Chiểu, Hoàng Hải, ... (Hà Tây: Ty Văn hoá Hà Tây xb., 1970)

Lửa rèn (kịch nói) tác giả (Thái Bình: Ty văn hoá Thái Bình xb., 1970)

Tập bài hát chèo, T. 1 (sưu tập) nhiều tác giả (Thái Bình: Ty văn hoá Thái Bình xb., 1970)

Thuốc thánh. Không phải chuyện cái áo (chèo và kịch vui) Phùng Nghĩa Núi, Đặng Cát (Hà Tây: Ty văn hoá Hà Tây xb., 1970)

Trở lại quê hương (tập kịch, chèo, quan họ) Bùi Thế Căn, Đỗ Cường, Trường Lưu, .... (Hà Bắc: Ty văn hoá Hà Bắc xb., 1970)

 

THƠ, TRUYỆN THƠ

Bài ca dâng Đảng (diễn ca, kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng) Nguyên Hồ (H.: Nxb. Phổ thông, 1970)

  Bài ca khởi nghĩa  (thơ) Hưởng Triều (K.đ., Nxb. Giải phóng, 1970)

Ca dao chống Mỹ, t. 1 (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

Ca dao chống Mỹ Hà Tĩnh (sưu tập) Phong Ba, Trần Văn Ba, Hoàng Thái Bảo...; Vũ Hoàng sưu tập và chỉnh lý (Hà Tĩnh: Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh xb., 1970)

Ca dao Hà Tây 1965-1970 (sưu tập) Nguyễn Văn Am, Nguyễn Âm, Hoàng Văn Bàn, ... (Hà Tây: Ty văn hoá Hà Tây xb., 1970)

Cửa mở (thơ) Việt Phương (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Cửa nắng  (thơ) Huy Cận, Lâm Thị Mỹ Dạ, Xuân Diệu, ... (Nghệ An: Chi hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Đất chiến hào (tập thơ) Minh Huệ (H. Nxb. Văn học, 1970)

Đất nắng (tập thơ) Hoàng Hưng, Trang Nghị (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Đất trung tuyến (thơ) Nguyễn Xuân Linh, Quốc Anh, Hoài Bão, ... (Hà Tĩnh: Hội văn nghệ Hà Tĩnh xb., 1970)

Đất vàng đất bạc (thơ) Nguyễn Trung Ngôn, Xuân Thanh, Mai Vân Lan, ...  (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1970)

Đi suốt bài ca (tập thơ) Tế Hanh (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Đời đời ơn Bác, T. 2 (tập thơ) Nguyễn Quốc Dũng, Ngô Quân Miện, Đỗ Tiến Hiền, ... (Hà Tây: Ty văn hoá thông tin Hà Tây, 1970)

Đứng trên núi mẹ (tập thơ) Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Dương Công Chinh, ... (Lạng Sơn: Chi hội văn nghệ và ty văn hoá Lạng Sơn xb., 1970)

Gởi Bạc Liêu (thơ ca, bài hát chèo) nhiều tác giả (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1970)

Hà Bắc đánh giặc (tuyển tập thơ truyền thống) Nguyễn Đình Bưu b.s. (Hà Bắc: Ty văn hoá Hà Bắc xb., 1970)

Hoa đất (tập thơ) Nguyễn Hải Trừng (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Huế mùa xuân (thơ) Thanh Hải (K.đ., Nxb. Giải phóng, 1970)

‒ Hương đất biển (tập thơ) Xuân Hoàng (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Khẩu súng hành quân (thơ) Liên Nam (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

Kỹ thuật lúa xuân (diễn ca) Quang Tích, Mai Thúc Lân (Hà Bắc: Ty nông nghiệp Hà Bắc xb., 1970)

Mắt sáng học trò  (thơ) Viễn Phương (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

Nắng thu (thơ) Thái Chương, Thọ Ty, Xuân Tửu, ... (Thái Bình: Ty văn hoá Thái Bình xb., 1970)

Ngọn lửa (thơ) Thuỷ Nguyên, Hoàng Hưng, Trần Trương,... (H.: Nxb. Lao động, In lần hai, 1970)

Những tháng năm ngời sáng (thơ) Chế Lan Viên, Võ Văn Trực, Nguyễn Văn Toại,... (H.: Nxb. Lao động, 1970)

Quê tôi, T. 1 (thơ) Bế Tùng Dũng (Cao Bằng: Ty văn hoá Cao Bằng xb., 1970)

Sao cho trọn vẹn (ca dao) Lê Lênh Bang, Phạm Văn Khuyến, Lê Như Sâm.... (H.: Nxb. Phổ thông, 1970)

Sân làng ta (tập thơ ca của nhân dân Diễn Châu) Cụ Xân, Nguyễn Văn Nhân, Tú Chương... (Nghệ An: Chi hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Tên em rực rỡ vô cùng  (thơ) Chim Trắng (Kđ: Nxb. Giải phóng, 1970)

Thơ chọn lọc 1960-1970 (tuyển tác phẩm văn nghệ giải phóng) Thu Bồn, Đoàn Việt Bắc, Nguyễn Bá,… (Kđ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

‒ Thơ giải thưởng báo ‘Văn nghệ’ 1969 (tập thơ) Phạm Tiến Duật, Vương Anh, Bế Kiến Quốc,… (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Thơ một chặng đường (tập thơ) Phạm Tiến Duật (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970)

Thơ Nam Hà bốn năm chống Mỹ (1965-1968) Bách Xuân, Bùi Hạnh Cẩn, Đoàn Văn Cừ,... (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb., 1970)

Thơ Nghệ An  (tuyển tập 1965-1970) Trần Thị Minh Anh, Nguyễn Sĩ Bỉnh, Võ Trọng Canh,...  (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Thơ Quảng Ninh (thơ chọn, 1960-1969) nhiều tác giả (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh xb., 1970)

Tiếng hát công nhân, T. 1 – 2  (thơ) Mỹ Thành, Yên Chi, Phạm Văn Hiền, ... (Ninh Bình: Liên hiệp công đoàn Ninh Bình; Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1970)

Tiếng võng làng Sen (tập thơ dâng Bác) Nguyễn An, Vũ Trọng Canh, Huy Cận, ... (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Tôi giàu đôi mắt (thơ 1964-69) Xuân Diệu (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Tre xanh (thơ) của Thu Bồn (Kđ.: Nxb. Giải phóng, 1970)

Trên những tuyến đường  (thơ giao thông vận tải) nhiều tác giả (H.: Nxb. Lao động, 1970)

Trồng cây ơn Bác (tập thơ ca) Lê Hường, Chử Văn Long, Anh Lê, ... (Quảng Ninh: Ty Lâm nghiệp và ty thông tin Quảng Ninh xb., 1970)

Tuổi cao chí khí càng cao (tập thơ phụ lão Cao Bằng) Bế Thanh Giang, Xích Lâm, Đàm Văn Chước, ... (Cao Bằng: Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Cao Bằng xb., 1970)

Vào đông xuân (thơ) Lương Quý Nhân, Nguyễn Tấn Minh, Vũ Mộng Bảng...  (Lai Châu: Ty thông tin văn hoá Lai Châu xb., 1970)

Vầng trăng quầng lửa (tập thơ) Phạm Tiến Duật (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Vỏ quýt dày móng tay nhọn (tấu) Ngô Linh Ngọc, Sơn Nam, Huyền Thanh, Xuân Bình (H.: Nxb. Phổ thông, 1970)

Xin nguyện cùng Người  (thơ) Anh Ngọc, Hoàng Bình Trọng, Lê Hường, ... (H.: Nxb. Lao động, 1970) 

VĂN HỌC CHO THIẾU NHI

Anh đom đóm (thơ, hưởng ứng cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật cho thiếu nhi, 1966-1968) Võ Quảng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Bông hồng đỏ (tập thơ, văn, tranh của thiếu nhi) Dương Nguyên Phước, Đỗ Ngọc Thông, Vũ Thuý Hằng.... (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Chim gõ kiến (tập truyện thiếu nhi) Quang Huy, Lê Trọng Các, Vũ Ngọc Khôi, ... (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Chú bò tìm bạn (thơ) Phạm Hổ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Chuyện chú Trống Choai (truyện) Hải Hồ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Chuyện dự hương (truyện) Nguyễn Triệu (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Chuyện em Một (truyện) Trần Hiếu Minh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Con gà mái lông sẻ (truyện) Mai Vui (H.: Nxb. Kim đồng, 1970)

Con ngựa hồng (truyện) Hoàng Anh Đường (H.: Nxb. Kim đồng, 1970)

Cuộc đời chữ viết (chuyện kể khoa học về chữ viết, nghề in) Thế Trường, Thái Dương b.s.. (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Dòng nước xiết (tập truyện ngắn và ký về đề tài miền Bắc chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội) Nguyễn Kim Trạch, Nguyễn Khiết, Lý Biên Cương... (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Dưới mái trường mới (tập truyện) Mai Thơ, Hồ Huy, Hồng Trang... (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Đời đời ơn Bác (tập thơ văn của thiếu nhi viết về Bác Hồ) nhiều tác giả (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Hai bàn tay chiến sĩ (tập truyện ký chọn lọc về đề tài kháng chiến chống Pháp 1945-1954) Nguyễn Huy Tưởng, Bắc Thôn, Bùi Hiển, Bùi Đức Ái, Vân An, Vũ Cao (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Hạt giống mới (truyện, hưởng ứng cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật cho thiếu nhi, 1966-1968) Vương Mai (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Hoa mười giờ  (thơ) Hoàng Minh Châu (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Kể chuyện Lê Hồng Phong (truyện) Đồng Thế (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Kể chuyện Lê nin (chuyện kể) Phi Hà (H.: Kim Đồng, In lần 2 có sửa chữa, bổ sung, 1970)

Kể chuyện Ngô Gia Tự (truyện ký) Lê Quốc Sử (H.: Nxb. Kim Đồng, In lần 2 có sửa chữa, 1970)

Lênin ngày bé  (thơ) Phạm Hổ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Lớn lên nhờ cách mạng (tập hồi ký) Phùng Thế Tài kể, Lê Văn ghi (H.: Nxb. Kim Đồng, In lần 2, có sửa chữa bổ sung, 1970)

Mùa A Lử (truyện) Vũ Dương Quỹ (H.: Nxb. Kim đồng, 1970)

Những chiếc áo ấm (truyện) Võ Quảng (H.: Nxb. Kim đồng, 1970)

Những năm tháng không thể nào quên (tự truyện, hưởng ứng cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật cho thiếu nhi 1966-1968) Nguyễn Ngọc Ký (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Những quả chừm rượu (truyện) Phạm Hổ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Ông và cháu (thơ) Tú Mỡ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Phố tôi những ngày nổi dậy (truyện) Nguyễn Lộc (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Phù Đổng Thiên Vương (truyện thơ) Huy Cận (H.: Nxb. Kim đồng, In lần 4 có sửa chữa và bổ sung, 1970)

Phượng hoàng con (tập truyện thơ về các dũng sĩ diệt Mỹ nhỏ tuổi) Trinh Đường (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Quà 1-6 (truyện) Phong Thu, Phong Nhã, Tụy Phương, Thanh Tú, Hồng Mai, Xuân Sách, Phong Nhã  (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Quả trứng vuông (truyện) Viết Linh (H.: Nxb. Kim đồng, 1970)

Tiếng hót (thơ, hưởng ứng cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật cho thiếu nhi 1966-1968) Vũ Ngọc Bình (H.: Nxb. Kim đồng, 1970)

Trang sách trung thu (thơ) Xuân Tửu (H.: Nxb. Kim Đồng, 1970)

Trang văn nghệ thiếu nhi (tập thơ văn nhạc) Nguyễn Tiến Lộc, Nguyễn Đăng Khoa, Văn Chung, … (Thái Bình: Ty văn hoá Thái Bình xb., 1970)

Truyện Võ Hường (truyện) Vân An (H.: Nxb. Kim đồng, 1970)

Tuổi Kim Đồng (tập thơ văn, hưởng ứng cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật cho thiếu nhi, 1966-1968) Lý Biên Cương, Vũ Bình, Phạm Hải Trường, Song Lê,... (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh xb., 1970)

 

PHÊ BÌNH, LÝ LUẬN, NGHIÊN CỨU

Bước đường viết văn (hồi ức văn học, kinh nghiệm sáng tác) Nguyên Hồng (H.: Nxb. Văn học, 1970)

  Cơ sở lý luận văn học, t. 3  (về loại thể văn học; tài liệu dùng trong nội bộ các trường Đại học sư phạm) Trần Văn Bính, Nguyễn Xuân Nam, Hà Minh Đức biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1970, Tủ sách Đại học sư phạm) 

‒ Giáo trình cổ văn, t. 2 (Cổ văn Trung Quốc: ‘Sở từ’ - văn xuôi lịch sử và văn xuôi triết học trước Tần) Đặng Đức Siêu biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1970, Tủ sách đại học sư phạm Hà Nội)

‒ Hiện thực cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận) Hà Huy Giáp (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Lê Hữu Trác (biên khảo) Nguyễn Văn Thịnh b.s. (Hải Hưng: Thư viện tỉnh Hải Hưng xb., 1970)

Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, t. 1 – 2  (giáo trình) Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Ảnh (H.: Nxb. Giáo dục, 1970, In lần 2 có sửa chữa, Tủ sách đại học sư phạm)

Lịch sử văn học phương Tây, t. 1 (giáo trình) Trần Duy Châu, Nguyễn Văn Khoả, Lương Duy Trung biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1970, Tủ sách Đại học sư phạm)
Lịch sử văn học phương Tây, t. 2 (giáo trình) Hoàng Nhân, Nguyễn Ngọc Ban, Đỗ Đức Hiểu biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1970, Tủ sách Đại học sư phạm)

  Lịch sử văn học Việt Nam, t. 1  (Phần 1: Văn học dân gian) Liên tổ Văn học Việt Nam biên soạn (H. : Nxb. Giáo dục, 1970, In lần 3 có sửa chữa, Tủ sách đại học sư phạm)

 Mấy vấn đề lý luận văn học (chuyên đề) Hà Huy Giáp, Nam Mộc, Hoàng Xuân Nhị, ... (H.: Nxb. Khoa học xã hội, 1970)

 Nhà yêu nước và nhà văn Phan Bội Châu (một số bài nghiên cứu, hồi ức về Phan Bội Châu) (H.: Nxb. Khoa học xã hội, 1970)    

‒ Qua những chặng đường văn nghệ (phê bình tiểu luận 1955-69) Đông Hoài (H. : Nxb. Văn học, 1970)

Thân thế và sự nghiệp y học của Hải Thượng Lãn Ông (biên khảo) (H.: Nxb. Y học và thể dục thể thao, In lần 2 có bổ sung, sửa chữa, 1970)

Thơ Trần Tế Xương (kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ) tiểu luận Xuân Diệu (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb., 1970)

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (chuyên luận) Lê Đình Kỵ  (H.: Nxb. Khoa học xã hội, 1970)

SÁCH TẬP HỢP NHIỀU THỂ TÀI

Chim én trên cửa sóng (thơ, kịch, truyện ngắn,…) Lê Liêm, Trần Thị Lân, Vũ Thị Thuấn... (Hải Phòng: Sở bưu điện; Chi hội văn học nghệ thuật Hải Phòng xb., 1970)

Chung thuỷ đảm đang (tập thơ văn) Lương Thị Ún, Đỗ Cao Ân, Giang Tâm... (Lai Châu: Ty văn hoá và Tỉnh hội phụ nữ Lai Châu xb., 1970)

Giống mới (thơ văn) Hồng Vũ, Kim Ngọc Diệu, Phạm Trọng Thanh... (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb., 1970)

Hương tháng năm (tập thơ văn) nhiều tác giả  (H.: Hội văn nghệ Hà Nội xb., 1970)

Lớp người tháng Tám  (tập sáng tác thơ văn) Nguyễn Bắc, Đỗ Bảo Châu, Hoàng Lê,....  (H.: Hội văn nghệ Hà Nội xb., 1970)

Mặt trận phía sau (tập thơ văn) Xuân Thuỷ, Nguyễn Văn Dinh, Đào Nguyên, ... (Quảng Bình: Hội văn nghệ và Hội liên hiệp phụ nữ Quảng Bình xb., 1970)

Mùa thu (tập thơ văn) Khiếu Quang Bảo, Huy Khoát, Long Chiểu,... (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh xb., 1970)

Mùa thu  (tập thơ văn kịch) Hà Đình Kim, Trần Lê Văn, Nguyễn Văn Âm, ... (Hà Tây: Ty văn hoá Hà Tây xb., 1970)

Muôn vàn tình thân yêu (tạp văn) Dương Khắc Thụ, Hoàng Kim Liên, Quốc Tấn... (Hải Phòng: Chi Hội văn học nghệ thuật Hải Phòng xb., 1970)

Người toả sáng trong ta (thơ văn) Vũ Hoàng, Đắc Trung, Nguyễn Hoa,... (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb., 1970)

Sông La, T. 1 (tập thơ, văn, phê bình) Duy Thoại, Quốc Anh, Thanh Hồ, Vũ Duy Thông,... (Hà Tĩnh: Ty văn hoá Hà Tĩnh; Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh xb., 1970)

Sông La, T. 2 (tập thơ, văn, phê bình) Thế Kỷ, Trần Thị Hồng Sâm, Trần Huy Quang, Bùi Hiển, Nhật Tuấn, .... (Hà Tĩnh: Ty văn hoá Hà Tĩnh xb., 1970)

Sông Lam (tập sáng tác) Phan Tường Hy, Vương Trọng, Trần Hữu Thung, ... (Nghệ An: Chi hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Sông Lam, số 2 (tập sáng tác) Trần Hữu Thung, Minh Huệ, Quang Huy... (Nghệ An: Chi hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Sức lửa (tập thơ văn) Đàm Hiển, Lý Biên Cương, Võ Huy Tâm,... (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh xb., 1970)

Trận địa Hà Tây (tập thơ văn) Nguyễn Kế Nghiệp, Hồ Văn, Trần Hồng Tiến, ... (Hà Tây: Tỉnh đội Hà Tây xb., 1970)

Trời cửa biển (tập thơ văn) Nguyễn Văn Chuông, Thế Kỷ, Đỗ Hoàng Lê,… (Hải phòng: Bộ tư lệnh phòng không; Chi hội văn nghệ Hải Phòng xb., 1970)

Tuổi mùa xuân (tập sáng tác thơ, văn, nhạc, họa) Nguyễn Xuân Cường, Vũ Thạch, Vũ Hữu Ái, ... (Hải Phòng: Chi hội văn học nghệ thuật Hải Phòng xb., 1970)

Từ bình minh đầu tiên (thơ, văn, tạp văn) Vũ Hữu Ái, Nguyễn Trọng Phịu, Văn Dân (Hải Phòng: Chi hội văn nghệ Hải Phòng xb., 1970)

Vào đông xuân (thơ, chèo, tuồng) Nguyễn Thị Bạch Hồng, Vũ Siêu Thả, Minh Thu, ... (Thái Bình: Ty văn hoá Thái Bình xb., 1970)

 

TUYỂN TẬP, SƯU TẬP

‒ Bác Hồ (thơ viết về Hồ Chí Minh) Tố Hữu (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Dược phẩm vậng yếu (tác phẩm chữ Hán, Hải Thượng Lãn Ông, 1720?-1791) bản dịch: Phòng tu thư huấn luyện, Viện Đông y (H.: Nxb. Y học và thể dục thể thao, 1970)

Hợp tuyển thơ văn yêu nước, t. 1: Nửa sau thế kỷ XIX, 1858-1900 (sưu tập thơ văn VN 1858-1900) Chu Thiên, Đặng Huy Vận, Nguyễn Bỉnh Khôi sưu tầm, tuyển lựa (H.: Nxb. Văn học, 1970) 

Kịch bản tuồng trước cách mạng, t. 1 - 2 (gồm một số vở và tài liệu) (H.: Viện nghiên cứu sân khấu, in ronéo, Lưu hành nội bộ, 1970)

Kịch bản chèo trước cách mạng, t. 1 - 2 (gồm một số vở và tài liệu) (H.: Viện nghiên cứu sân khấu, 1970, in ronéo, Lưu hành nội bộ)

Lĩnh Nam bản thảo (tác phẩm chữ Hán, Hải Thượng Lãn Ông, 1720?-1791) bản dịch: Phòng tu thư Viện đông y (H.: Nxb. Y học và thể dục thể thao, 1970)

  Sáng tháng Năm (tuyển thơ viết về Hồ Chí Minh) Tố Hữu, Xuân Diệu, Anh Thơ, Minh Huệ, Nông Quốc Chấn, Văn Thảo Nguyên, … (H.: Nxb. Văn học, in lần 2 có bổ sung, 1970)

Thơ (sưu tập thơ) Hồ Chí Minh (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Thơ ca cách mạng Thái Bình (sưu tập) Nguyễn Thế Long, Nguyễn Văn Năng, Nguyễn Ngọc Tỉnh, ... (Thái Bình: Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Thái Bình xb., 1970)

‒ Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (tuyển dịch thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, 1809-55) nhóm Hoàng Tạo dịch, Vũ Khiêu giới thiệu (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Thơ Nam Hà bốn năm chống Mỹ 1965-1968 (sưu tập, sơ tuyển) Bách Xuân, Bùi Hạnh Cẩn, Đoàn Văn Cừ.... (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb, 1970)

Thơ Nghệ An (tuyển tập 1965-1970) Trần Thị Minh Anh, Nguyễn Sĩ Bỉnh, Võ Trọng Canh, ... (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Thơ Quảng Ninh 1960-1969 (sơ tuyển) nhiều tác giả (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh xb., 1970)

Thơ Trần Đăng Khoa (tuyển)  (Hải Hưng: Ty Giáo dục Hải Hưng xb. , 1970)

Thơ văn cách mạng 1930-1945 (sưu tập) tác phẩm của: Hoàng Văn Hoan, Sóng Hồng, Hải Triều,...; chọn lọc và giới thiệu, chú thích: Phan Cự Đệ (H.: Nxb. Giáo dục, 1970, In lần 2 có bổ sung, chỉnh lý; Tác phẩm chọn lọc dùng trong nhà trường) 

Thơ văn Trần Tế Xương (nghiên cứu, sưu tập tác phẩm Trần Tế Xương, 1870-1907) Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ sưu tầm chú thích, Nguyễn Công Hoan bổ sung, sửa chữa; tiểu luận của Xuân Diệu (H.: Nxb. Văn học, 1970) 

Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX: 1858-1900 (hợp tuyển) Chu Thiên, Đặng Huy Vận, Nguyễn Bỉnh Khôi tuyển chọn, biên soạn (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Truyện, ký Nghệ An  (tuyển tập 1965-1970) Hồ Duy Bồn, Bá Dũng, Lê Thị Kim Giao... (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1970)

Văn Nam Hà bốn năm chống Mỹ cứu nước 1965-1968 (chọn lọc) Chu Văn, Đặng Hải Lâm, Đắc Trung, Giang Phong,.... (Nam Hà : Ty văn hoá Nam Hà xb., 1970)

Vè yêu nước chống đế quốc Pháp (sưu tập) Vũ Ngọc Khánh, Hồ Như Sơn sưu tầm biên soạn (H.: Nxb. Văn học, 1970, in lần 2 có bổ sung, sửa chữa)

DỊCH THUẬT VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Đảo xanh anh hùng  (truyện về Cuba, Ghen-rich Bô-rô-vich, LX.) Lê Thành, Nhữ Thành dịch (H.: Nxb. Thanh niên, 1970)

Đêm thung lũng  (tập kịch ngắn cổ điển phương Tây)  (H.: Viện nghiên cứu nghệ thuật sân khấu xb., 1970)

‒ Kim Vân Kiều truyện (truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, T.Q.) Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân dịch (H.: Viện Văn học, 1970; in ronéo; Tài liệu nghiên cứu)

‒ Một buổi tối tháng Tư (tập truyện về Lenin của các nhà văn LX.: M. Gorki, B. Polevoi, Z. Guseva, A. Kovtelov, N. Tikhonov, I. Vonov) Nguyễn Hoàng, Anh Tuấn, Nguyễn Đắc Việt dịch (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Người cầm súng; Chuông đồng hồ điện Kremlin; Khúc thứ ba bi tráng (kịch nói của N. Pogodin, Nga, LX.) Thế Lữ, Nguyễn Nam dịch (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Nhà búp-bê (1879, kịch của Henrik Ibsen, 1826-1906, Nowey) Tuấn Đô dịch (H.: Nxb. Văn học, 1970)

Nhớ lại và suy nghĩ, t. 2 – 3 (hồi ký, G. K. Zhukov, 1896-1974, LX.) Nguyễn Hải Sa, Lê Bá Phán, Trần Anh Tuấn dịch (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1970) 

‒ Sống lại, t. 1 (1873-77, tiểu thuyết của L. Tolstoi, Nga) Phùng Uông, Mộc Nghĩa, Nguyễn Nam dịch (H.: Nxb. Văn học, 1970)

‒ Suối thép (1924, tiểu thuyết của A. Serafimovich, Nga, LX.) Phạm Mạnh Hùng, Phạm Hồng Sơn dịch (H.: Nxb. Văn học, 1970, in lần 2 có sửa chữa)

Tuổi trẻ Lê-nin (truyện danh nhân, N. Net-svô-lô-đô-va, L. Rê-zni-tsen-cô, LX.) Trần Khuyến, Nhữ Thành dịch (H.: Nxb. Thanh niên, 1970) 

‒ Tuyển tập truyện ngắn M. Gorki, t. 1 – 2 (sáng tác truyện ngắn của M. Gorki, 1868-1936, Nga, LX.) Phạm Mạnh Hùng, Cao Xuân Hạo dịch (H.: Nxb. Văn học, 1970)

***

‒ Gorki bàn về văn học, t. 1 – 2 (tiểu luận, phê bình, tạp văn… M. Gorki, 1868-1936, Nga, LX.) Cao Xuân Hạo dịch (H.: Nxb. Văn học, 1970; in lần 2 có bổ sung)


 

[1] Kết quả cuộc thi thơ báo ‘Văn nghệ’ năm 1969 // Văn nghệ, Hà Nội, s. 336 (20/3/1970), tr. 9.

[2] P.V.:Văn nghệ phục vụ thế hệ trẻ, tường thuật buổi họp mặt của TƯ Đoàn TNLĐVN với những người làm văn nghệ // Văn nghệ, Hà Nội, s. 339 (10/ 4/ 1970), tr. 2 – 3. (Lưu ý: bài tường thuật không ghi ngày xác thực diễn ra sự kiện – L.N.Â.) 

 

[3] P.V.: Cuộc thi thơ 1969 của báo ‘Văn nghệ’ kết thúc tốt đẹp. Bốn cuộc gặp mặt thú vị // Văn nghệ, Hà Nội, s. 341 (24. 4. 1970), tr. 4.

[4] P.V: Tọa đàm về Lenin và văn học nghệ thuật // Tạp chí Văn học, Hà Nội, s. 3 (tháng 5&6 /1970), tr. 140.

[5] Hội nghị khoa học ‘Bác Hồ và văn học nghệ thuật’ // Tạp chí Văn học, Hà Nội, s. 3 (tháng 5&6/1970), tr. 143.

[a] Lưu ý: trang thơ ở số báo này đặt hai bài ký tên tác giả Xuân Nguyên ở hai vị trí khác nhau, có lẽ đây là hai tác giả khác nhau có bút danh trùng nhau chăng?

[6] P.V.: Xung quanh những vấn đề về truyện ngắn // Văn nghệ, Hà Nội, s. 351 (3. 7. 1970), tr. 2.

[b] Lưu ý: số báo VN 353 ghi tên tác giả bài thơ này là Thu Bồn, đến số báo VN 357 đã đính chính tác giả đúng của bài thơ này là Ngân Vịnh (L.N.Â.)

[7] Kết quả tặng thưởng sáng tác văn xuôi đăng trên tuần báo ‘Văn nghệ’ từ 01.6.1969 đến 30.6.1970 // Văn nghệ, Hà Nội, s. 358 (21. 8. 1970), tr. 2.

[8] Văn nghệ khắp nơi // Văn nghệ, Hà Nội, s. 370 (13. 11. 1970), tr. 19.

[9] Tin: Đại hội các nhà văn Á-Phi // Tác phẩm mới, Hà Nội, s. 11 (tháng 1 & 2 / 1971), tr. 96.