1972

Tháng 1:

– Ngày 7: tuần báo Văn nghệ  s. 430:

Thơ: Tế Hanh (Thác Bà), Vĩnh Mai (Bài thơ ánh sáng), Nguyễn Đình Hồng (Sông dữ sông hiền), Nguyễn Đình (Gặp lại bạn cũ trên nhà máy thủy điện; Cảnh mới chuyện xưa), Trang Nghị (Thác Bà thác điện);

Người Yêu Thơ (Tin thơ);

Truyện ngắn: Hồng Phi (Ánh sáng);

Truyện: Hoàng Hạc (Sông gọi, trích);

Bút ký: Ngô Ngọc Bội (Trái tim đập trái tim quay), Ngọc Lam (Hố móng);

‘Người tốt-việc tốt’ (ký): Phạm Nguyên Nhung (Đồng chí ấy như tôi đã biết);

Trang thiếu nhi: truyện: Phạm Hổ (Chuyện nàng Nước), thơ: Trần Đăng Khoa (Hạ Long; Ngôi đền Bãi Cháy);

Phê bình: Nguyễn Ngọc Hà (Đọc ‘Giáp trận’, tiểu thuyết Nguyễn Thế Phương);

Giới thiệu: Mai Quốc Liên (‘Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX: 1858-1900’, Nxb. Văn học);

Đọc sách: N.Đ.S. (‘Bài ca Thác Bà’, Ty VH Yên Bái xb.);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Một vài chuyện cũ về vấn đề công thức trong văn nghệ);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Và ngu ngốc nữa…), Trần Quốc Minh (Về cái phòng gương của một tên tổng thống), Quý Yến (Mỹ hết đường về; Thăm Cánh đồng Chum);

Thơ vui: Bút Châm (Cửa quyền);

Nghệ thuật: Hoàng Châu Ký (Xem vở tuồng ‘Sư già và em bé’); Lê Quốc Lộc (Một chuyến đi thực tế ngắn ngày bổ ích);

– Ngày 14: tuần báo Văn nghệ  s. 431:

‘Thế giới ủng hộ chúng ta’: Tường Linh (Khi sự chân thực hiện rõ dưới ngòi bút,- về cuốn sách ‘Những người Việt Cộng’ /Les Vietcong/ của Jaques Doyon);

Truyện ngắn: Trần Kim Thành (Câu chuyện bên dòng sông), Nguyễn Thành Long (Vuông cỏ);

Ký: Trần Hoài Dương (Kỷ niệm về một vùng khói);

Phóng sự: Hoài An (Giữ lửa);

Thơ: Trần Thị Mỹ Hạnh (Sóng đất), Nguyễn Tùng Linh (Giây lát ở Vinh), Bế Kiến Quốc (Lên đồi dâu; Vùng bãi), Yên Đức (Đảo không tên; Đường địa chất);

Người Yêu Thơ (Tin thơ);

Phê bình: Trương Chính (Từ phê bình đến tiểu luận,- nhân đọc ‘Phê bình và tiểu luận’ t. 3 của Hoài Thanh);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Một quan niệm về vấn đề chất liệu trong văn nghệ);

Công chúng với văn nghệ: Hồ Quý Thân, Việt Cường, Trần Thị Minh Chiểu (‘Bão biển’ có nhiều trang viết hay, sinh động, nhiều nhân vật thực);

Thơ đả kích: Đặc Công (Tổng Ních và đứa con đầu lòng: thuyết Ních), Quý Yến (Nhắn giặc lái Mỹ);

Nghệ thuật: Hoàng Vân (Tập bài hát chọn lọc của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước); Hà Xuân Trường, chủ tịch hội ĐAVN (Phim truyện Việt Nam 1971, Xưởng phim truyện VN 10 năm); Nguyễn Hoàng Công (Phòng tranh đầu tiên của công nhân mỏ tại thủ đô);

– Ngày 21: tuần báo Văn nghệ  s. 432:

Thơ: Bùi Công Minh (Người ra trận), Nguyễn Văn Dinh (Buổi sáng ở rừng), Ngô

Quân Miện (Đất bãi), Nguyễn Thế Nghiệp (Ánh sáng từ hang vượn);

Sổ tay người yêu thơ: Vũ Tú Nam (‘Tôi say người lắm người ơi’);

Phóng sự: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Trác Bút);

Truyện ngắn: Bùi Huy Phồn (Trái cam), Hồ Quang Khải (Một chuyện bình thường);

Phê bình: Lại Giang (Trần Kim Thành với ‘Trên mặt sóng’);

Đọc sách: Quan San (‘Bên bờ sông Hậu’, tập thơ Lê Chí, Nguyễn Bá);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (5/ Những di tích của Nguyễn Du);

Công chúng với Văn nghệ: Cao Thắng, Viễn Triều (Góp ý với báo ‘Văn nghệ’);

Ý kiến ngắn: Đoàn Kiên (Dùng chữ ‘nữ’ hay chữ ‘gái’?);

Văn thơ đả kích: Phúc Tân (Ranh ma giống Nixon), Phú Xuân (‘Lào hóa’ tan tành mộng Nixon), Linh Lan (Thiệu khoe), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Văn nghệ lai căng);

Truyện ngắn: Baldomero Lillo, Chile (Dirapan, Lê Sơn Hinh dịch qua tiếng Trung);

Thơ Ba Lan (Tế Hanh giới thiệu và dịch): J. Tuwim (Bài ca về một ngôi nhà trắng), J. Iwaszkiewicz (Bạn sẽ đi), K. I. Genzinski (Khúc ca);

Nghệ thuật: Tôn Gia Ngân (Đề tài chiến tranh và bộ phim ‘Đường về quê mẹ’); Từ Lương (Nhân xem ca kịch ‘Bến cũ Hương Sơn’: Hiện thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật);

 

 

– Ngày 28: tuần báo Văn nghệ  s. 433:

Truyện ngắn: Xuân Cang (Dân ca sông Mã), Tô Ngọc Hiến (Chuyện cô gác đầu đường và những anh lái xe bò tót);

Thơ cây bút mới: Chế Lan Viên (Lời giới thiệu), thơ: Trần Huyền Thanh (Trở lại khu sơ tán; Bài ca những người dựng giảng đường; Cuộc gặp mặt; Đêm; Tâm sự);

Thơ: Sỹ Hồng (Những ngày xưa ấy);

Bút ký: Hồng Phi (Giám đốc lên tầng);

Hồi ký: nữ nghệ sĩ Thanh Loan (Chỉ một con đường);

Phê bình: Hà Minh Đức (‘Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ’, tiểu thuyết Tô Hoài);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Một câu chuyện cũ về Diderot);

Đọc sách: Trúc Thủy (‘Đảng viên đi trước’, Nxb. Phổ thông), Trần Kỳ (‘Theo những đoàn xe ra trận’, ký, Khánh Vân);

Văn thơ đả kích: Đặc Công (Ních đi), Búa Tạ (Cái mồm của Le), Quý Yến (Phật, Trời nào ‘hộ’?), Phú Xuân (Cứu tàn quân), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Âm nhạc cuồng loạn); Nguyễn Đình (Câu đối đả kích);

Nghệ thuật: Đỗ Nhuận (Một số vấn đề lý luận trong đại hội quốc tế âm nhạc lần thứ 7, Moskva, tháng 10/71); Yên Nguyên (Hình ảnh Lý Tự Trọng trong phim ‘Người cộng sản trẻ tuổi’); Phạm Viết Song (Bước tiến mới của phong trào mỹ thuật quần chúng Hà Nội 1971);

– Trong tháng 1: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 1/72 (s. 181):

Truyện ngắn: Chu Quốc Ân (Cùng một hướng), Trần Ninh Hồ (Ánh trăng);

Truyện ký: Cao Cân (Đánh trận Tà Ngàn);

ký sự: Thao Trường (Cửa khẩu);

Thơ: Xuân Sách (Theo bước những người anh hùng), Xuân Miễn (Người chị hiền), Khương Hữu Dụng (Ông lão du kích), Nguyễn Đắc Xuân (Bàn chân Việt Nam), Ngọc Bái (Ghi nhanh trên đỉnh Voi Mẹp), Nguyễn Xuân Thâm (Vượt khẩu; Nơi mắc võng; Chiều trung du), Trúc Thông (Ở một xóm biển Nghệ An), Hoàng Nhuận Cầm (Bức tranh dọc đường hành quân; Đêm khuya nói chuyện với Andersen; Mùa thu tôi yêu), Cao Minh Trai (Về một nhà văn);

Bình luận văn nghệ: Nhị Ca (Công việc ở một tòa soạn tạp chí); (Đóng góp vào việc xây dựng tạp chí của chúng ta); Nguyễn Đăng Mạnh (Sức sống của ngòi bút Nguyễn Thi); P.V. (Tin văn nghệ quân đội);

 

Tháng 2:

– Ngày 4: tuần báo Văn nghệ  s. 434 (số Tết Nhâm Tý):

Thơ: Nguyễn Duy (Về thăm nhà Bác; Bàn chân người lính), Nguyễn Mỹ, VNGP (Trên điểm rốt cuối năm), Huy Cận (Ngã ba Đồng Lộc), Xuân Diệu (Này hương hoa sấu…), Chế Lan Viên (Chùm tứ tuyệt: Hoa mộc trong vườn Bác; Hoa gạo son; Hoa tháng ba; Hoa chùa Hương; Vườn mẹ không hoa; Hoa lau trắng; Nhánh đào yêu; Hồng trận địa; Tặng thơ; Ních-xơn chơi hoa), Phan Thị Thanh Nhàn (Đám cưới ngày mùa);

Ký: Trần Hoài Dương (Như những dòng nhựa xuân,- ghi nhanh về thương nghiệp thủ đô chuẩn bị phục vụ Tết), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Nhà người đi xa);

Truyện ngắn: Đặng Ái (Kể về một tình yêu);

Tiểu luận: Hoài Thanh (Cảnh đẹp thiên nhiên trong thơ Bác);

Đọc sách: T.M. (‘Thơ Tú Mỡ’, Nxb. Văn học), T.M. (‘Thơ đường 9’, nhiều tác giả, Nxb. Văn học), T.K. (‘Tiếng gọi ngày N’, hồi ký Phạm Hồi, Nxb. QĐND); D.M. (‘Lớp trước’, hồi ký công nhân, Nxb. Lao động);

Vũ Ngọc Phan (Ngày xuân kể chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ);

Trang thiếu nhi: truyện: Vũ Tú Nam (Cây gạo; Đồ vật trong nhà), G. Trư-phê-rốp, LX. (Chiếc giầy ủng của người khổng lồ, bản dịch), thơ: Tú Mỡ (Ông thợ cạo);

Thơ đả kích: Xích Điểu (Bộ tứ bình Mỹ: 1. Nich-xơn, 2. Kit-xinh-gơ, 3. Le-bơ, 4. Râu-giơ), Đặc Công (Ních hóa), Đặc Công (Câu đối và thế cờ minh họa), Búa Đanh (Lời bình);

Nghệ thuật: Thuận Yến, văn công GP Trị Thiên-Huế (Về với đồng bào ven thị xã); Nguyễn Trân (Đám cưới chuột, tranh châm biếm dân gian đặc sắc); Trần Mạnh Phú (Mùa xuân xem điêu khắc cổ dân gian Việt Nam);

– Ngày 11: tuần báo Văn nghệ  s. 435 (số Xuân Nhâm Tý):

Thơ: Tố Hữu (Xin gửi miền Nam; Cây hồng; Thăm trại Ba Vì; Gặp anh Hồ Giáo), Huy Cận (Ngày sáng dần lên), Trần Nhương (Vành trăng trên đèo Ba Pông), Vũ Đình Liên (Giếng Cốc), Gia Ninh (Xuân vẫn đầy canh), Tế Hanh (Xa khơi; Xuân thứ mười lăm; Hoa đào hoa mai);

Truyện ngắn: Triều Dương (Trong thung lũng);

Trang thiếu nhi: kịch rối: Tô Hoài (Ông Gióng); thơ: Võ Quảng (Câu chuyện chim chào mào);

Tiểu luận: Xuân Thiêm (Những nét tươi vui, đầy sức sống trong thơ ca chiến sĩ Trường Sơn);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Một lá thư không chữ và một bài diễn văn không lời);

Công chung với văn nghệ: Trần Cảnh (Đọc tập thơ ‘Hoa dừa’ của Lê Anh Xuân);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (6/ Chiếc đĩa sứ ‘mai hạc’);

Thơ đả kích: Đặc Công (Tám món của Ních), Trần Quốc Minh (Lớp kịch chính khách), Lã Vọng (Tổng Ních và lá bùa Thái Lan), Phú Sơn (Xuất khẩu ngay);

Thơ vui: Đức Quang (Trong một ngày xuân);

Tập văn: Hải Như (Măng trên mâm cỗ tết);

Nghệ thuật: Khiếu Quang Bảo (Bức tượng Bác Hồ đầu tiên tạc bằng than đá); Trần Thi Phố (Giới thiệu tập ảnh ‘Một số hình ảnh về Hồ Chủ tịch’, Nxb. Mỹ thuật-âm nhạc); Hoàng Văn Bổn (Đi làm phim vào một ngày xuân năm ấy); Sỹ Tiến (Câu chuyện sân khấu: Một ngày tết năm xưa); Nguyễn Trung (Từ những hình vẽ, những tờ giấy cắt…);

– Ngày 18: tuần báo Văn nghệ  s. 436 (số Xuân Nhâm Tý):

Thơ: Chế Lan Viên (Phản ‘diễn ca’ hay ‘phản diện’ ca về học thuyết Ních-xơn);            

‘Thế giới ủng hộ chúng ta’: N. Viễn (Kateb Yacine và vở kịch viết về Việt Nam);

Truyện ngắn: Nhật Tuấn (Chú chắt con), Văn Ngọc (Một trận đánh);

Thơ: Hoài Anh (Bài học về ba chiếc lá), Tạ Vũ (Qua một công trình cũ; Trên tầng cao mái ngói), Cảnh Trà (Cây bàng cơ quan);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Bản lĩnh nhà thơ và bản sắc thơ Nguyễn Khuyến);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Cặp mắt của Minh Mạng);

Phê bình: Nguyễn Xuân Nam (Mấy cảm nghĩ về ‘Đất quê mình’, tập thơ Trần Hữu Thung);

Công chúng với văn nghệ: Lê Ngân (Về ‘Bóng nươc hồ Gươm’ của Chu Thiên);

Thơ đả kích: Nguyễn Đình (Mấy phát cho vừa), Học Giới (Ních hóa vịt què), Huyền Thanh (Khốn nạn thân Bê);

Thơ vui: Đức Quang (Phòng thỉnh thoảng trực), Chính Nghĩa (Quản từ người quản);

Thơ: Angela Davis, Mỹ (Bài ca của thành phố Bermingham, Huỳnh Huy Phượng dịch);

Truyện ngắn: E. Caldwell, Mỹ (Theo luật, Phước Thuận dịch);

Nghệ thuật: Quang Thái (Nhớ một mùa xuân,- đi biểu diễn ở tiền tuyến); Nguyễn Văn Tỵ (Một chuyến đi vẽ ở Bảo Ninh giáp tết);

‘Tổ tiên ta đánh giặc’: Phan Huy Lê (Những con số và sự kiện đáng ghi nhớ của bản anh hùng ca vĩ đại của dân tộc);

– Ngày 20: Công bố kết quả cuộc thi truyện ngắn 1970-71 của tuần báo Văn nghệ. Cuộc thi diễn ra từ 1/7/1970 đến 31/12/1971; ban tổ chức nhận được 1215 bản thảo của trên 900 tác giả; 87 tác phẩm đã được đăng trên báo Văn nghệ. Ban sơ khảo (gồm tổ biên tập văn xuôi của báo và đại diện ban phụ trách tuần báo) chọn được trên 30 truyện đưa vào chung khảo; ban chung khảo (gồm Tô Hoài, Bùi Hiển, Như Phong, Nguyễn Khải, Vũ Thị Thường, Vũ Tú Nam, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh) đã quyết định trao thưởng cho 20 tác giả. Giải Nhất: 1/ Tô Ngọc Hiến (Người kiểm tu); 2/ Lê Khánh (Vợ chồng xã đội); Giải Nhì: 1/ Triều Dương (Mắt bão); 2/ Trần Ninh Hồ (Trong những món ăn truyền lại); 3/ Bùi Bình Thi (Mùa mưa đến sớm); 4/ Cao Tiến Lê (Mùi thơm dây cháy chậm); Giải Ba: 1/ Vi Hồng (Cọn nước Eng Nhàn); 2/ Lý Biên Cương (Khoảng không của đất); 3/ Xuân Cang (Gương mặt cuộc đời); 4/ Hoàng Văn Lương (Người đồng nghiệp); 5/ Chu Văn Mười (Bèo giống); Giải Khuyến khích: Đặng Ái (Kể về một tình yêu); Nguyễn Khắc Phục (Đêm phòng thủ); Văn Tấn (Xe cày ra trận); Hoàng Tuyết Nhung (Hai cô giáo); Nguyễn Sơn Hà (Dòng nước); Hoàng Trọng Kiệt (Bên cầu), Hồ Thủy Giang (Cô bánh xích); Nam Ninh (Trong một gia đình); Nguyễn Văn (Anh đội phó và ông bác họ). Ban chung khảo cũng quyết định trao tặng phẩm cho các tác giả Văn nghệ giải phóng: Trần Phương Trà (Của tin); Tô Nhuận Vỹ (Chuyện của tui); Trần Mai Hạnh (Anh Đấu). [1]   

– Ngày 25: tuần báo Văn nghệ  s. 437:

Tùy bút: Phạm Tiến Duật (Trên một đoạn đường đầu năm);

Thơ: Vương Long (Khúc hát của người chăn vịt), Trần Anh Trang (Màu trắng của em), Trần Ninh Hồ (Mùa xuân; Mười năm; Làm sao), Trần Lê Văn (Người anh hùng và thầy giáo cũ), Bài Phong (Chung quanh một chiến công);

Truyện ngắn: Ngô Ngọc Bội (Chị Thản), Trần Thanh Sơn (Tiếng gọi phía trước);

Ký: Thành Công (Nông trường cam);

Tiểu luận: Phan Đắc Lập (Khuôn mặt quê hương qua một tấm gương thơ,- về đề tài đất nước quê hương trong thơ vùng đô thị miền Nam);

Phê bình: Thiếu Mai (Thơ từ nơi giáp mặt,- về tập thơ của Cảnh Trà, Trần Nhật Thu, Quang Huy);

Đọc sách: Trần Đình Thảo (‘Tuyển tập văn Nam Hà’);

Sổ tay người yêu thơ: Thái Duy (‘Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ’, một khúc hát ru xúc động);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Về khẩu khí trong văn chương);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (7/ Khu lưu niệm Nguyễn Du);

Tự bạch, kinh nghiệm: Chu Văn (Về truyện dài ‘Bão biển’);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Khi cái màn rơi xuống), Quý Yến (Tổng Thiệu đúc rồng), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Văn học của chủ nghĩa thực dụng);

Nghệ thuật: Xuân Bình (Nhân xem vở kịch thơ ‘Nguyễn Huệ’); Ngô Mạnh Lân (Tôi làm hoạt họa);

– Trong tháng 2: tạp chí Tác phẩm mới  s. 17 (tháng 1&2/1972):

Truyện: Lê Lựu (Chuyện kể từ đêm trước), Nguyễn Kiên (Con người và năm tháng), Cao Duy Thảo (Bạn đường), Nguyễn Phan Hách (Hạt giống mới);

Thơ: Nguyễn Mỹ (Ngọn lửa), Xuân Hoàng (Chỗ đứng; Trăng Trường Sơn), Phạm Hổ (Ngày mùa; Người con gái trong đội đánh cá đèn; Em biết là anh đang ở đâu), Thanh Tùng (Người về; Lên cao), Ý Nhi (Nỗi nhớ con đường; Thơ cho bạn ở Ưu Điềm), Mỹ Dạ (Tiếng sáo trúc; Chuyện của một cô bảo mẫu), E. Evtushenko (Cái sợ của những người không biết sợ, Xuân Diệu dịch);

Bùi Hiển, Nguyễn Khải, Đào Vũ, Xuân Trình, Nguyễn Địch Dũng, Ngô Ngọc Bội, Ngọc Tú, Nguyễn Kiên, Chu Văn, Nguyên Hồng, Kim Lân, Đỗ Quang Tiến, Nguyễn Thế Phương, Vũ Thị Thường, Vũ Tú Nam (Thảo luận về đề tài nông thôn);

Phê bình: Nguyễn Đăng Mạnh (Nguyễn Khải và hai tiểu thuyết gần đây);

Nói chuyện nghề nghiệp: Xuân Diệu (Kinh nghiệm tìm tứ cho một bài thơ); Nguyễn Mỗ (Đi và viết);

Vốn cổ: Nguyễn Đức Quyền (Mấy vẻ đẹp trong ca dao cổ);

Tìm hiểu văn học tư sản phương Tây: Hoàng Trinh (Con người là gì? Nó từ đâu đến?);

Nghệ thuật: Nguyễn Tiến Chung (Nghệ thuật tạo hình trong tranh dân gian);

– Trong tháng 2: Tạp chí Văn học  s. 1 (tháng 1&2/1972) (s. 133):

Đinh Gia Khánh (Nhà nho xưa tìm hiểu truyện dân gian và ca dao tục ngữ);

Hồ Tuấn Niêm (Bàn lại một đôi điểm về tiểu sử Hồ Xuân Hương);

Vân Thanh (Tô Hoài và đề tài miền núi);

Thạch Phương (Văn học hiện thực và tiến bộ dưới sự thống trị tàn bạo của Mỹ-ngụy ở miền Nam);

V. I. Semanov, LX. (Việc nghiên cứu các nền văn học Á-Phi ở Liên Xô);

Nguyễn Xuân Sanh (Đôi điều về thơ với thời đại);

Trao đổi ý kiến: Nguyễn Đức Đàn (Bàn thêm về trường hợp Vũ Trọng Phụng); Nghĩa Nguyên [= Lại Nguyên Ân] (Quan điểm thực tiễn và công tác nghiên cứu lý luận văn học);

Tư liệu tham khảo: Trần Nghĩa (Một bức ‘ký họa’ về xã hội nước ta thời Trần: Bài thơ ‘An Nam tức sự’ của Trần Phu);

Đọc sách: Trần Trọng Đăng Đàn (‘Qua những chặng đường văn nghệ’ của Đông Hoài); Nam Mộc (‘Nhà văn và tác phẩm’, của Hà Minh Đức);

Sinh hoạt văn học: Nhị Hoàng (Tiến hành khảo sát các di tích văn hóa thời Lý-Trần); P.V. (V. I. Semanov và N. Nikulin thăm VN); P.V. (Kỷ niệm 150 năm sinh N. Nekrasov và F. Dostoievski); P.V. (Cuộc thi sáng tác kịch bản sân khấu 1970); P.V. (Những hoạt động của Viện văn học trong năm 1971);

– Trong tháng 2: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 2/72 (s. 182):

Bút ký: Trần Thanh Sơn (Tết về trên triền dốc Trường Sơn);

Truyện ngắn: Ma Văn Kháng (Một tiếng nói chung);

Truyện dài: Nguyễn Khải (Chiến sĩ, trích);

Thơ: Võ Văn Trực (Mùa xuân nhớ Bác), Tế Hanh (Dâng Bác những chiến thắng Khe Sanh), Thanh Tịnh (Xuân thu nhớ Huế hai mùa), Trần Nguyên Đào (Tháng giêng), Trần Nhật Thu (Dốc On My), Bùi Trọng Cường (Khẩu đội trưởng của tôi), Phạm Đức (Mùa xuân), Phương Bắc (Cầu Mây), Mai Ngọc Thanh (Sau một ngày vượt dốc), Nguyễn Đức Mậu (Hoa phong lan ở trận địa pháo), Vũ Cao (Hai bài dân ca; Một người thân thuộc);

Bình luận văn nghệ: (Những kỷ niệm phục vụ bộ đội và một số suy nghĩ nghề nghiệp); Thuận Yến (Một vài mẩu chuyện văn công phục vụ ở vùng mới giải phóng);

Tháng 3:

– Ngày 3: tuần báo Văn nghệ  s. 438:

Giới thiệu sách mới: Nxb. QĐND (‘Nói chuyện Mỹ’ của tác giả CB, ĐX, TL, Chiến Sỹ, Trần Lực);

Thơ: Tế Hanh (Hai lời rủa và một khúc ca), Trinh Đường (Dốc Bà Định), Nguyễn Thanh Kim (Qua ngầm), Hoa Lê (Chung đường), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Mẹ và con);

Người Yêu Thơ (Tin thơ);

Truyện ngắn: Bích Thuận (Hương chè), Ngô Ngọc Bội (Chị Thản, tiếp, hết);

Bút ký: Hoài An (Những trái tim không có ngăn máu tím);

Giới thiệu: Bích Thủy (Sách văn nghệ của Nhà xuất bản Phụ nữ);

Phê bình: Công Huân (Qua ‘Truyện ký” của Thủy Thủ, Nxb. Giải phóng);

Đọc sách: Tùng Lâm (Thơ Cao Bằng);

Công chúng với văn nghệ: Phạm Khanh (Về tập ‘Nhân dân tuyến lửa’, thơ ca Quảng Bình - Vĩnh Linh);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ: Ơn nhờ mỹ viện; Tình cảm thú tính…), Học Giới (Bàn cờ sụp tượng), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Văn hóa kiểu Mỹ);

Thơ vui: Xuân Tiên (Ông ba phải);

Nghệ thuật: Đặng Nhân (Xem phòng tranh đả kích năm nay); Nguyễn Chí Anh, VNGP (Triển lãm ảnh giải phóng miền Nam); Thanh Liêm (Những năm sống và vẽ tranh ở Vĩnh Linh);

– Ngày 10: tuần báo Văn nghệ  s. 439:

‘Thế giới ủng hộ chúng ta’: các nhà văn LX.: P. Antokolski, S. Borodin, E. Evtushenko, M. Lukonin, A. Nikolaev, V. Ozerov, B. Polevoi, Ju. Rytkheu, V. Soloukhin, N. Fedorenko, I. Fonyakov (Chúng tôi lên án! - việc Mỹ lại ném bom Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình);

BTC cuộc thi (Báo cáo tổng kết cuộc thi truyện ngắn 1970-71 của tuần báo ‘Văn nghệ’); Quan San (Tường thuật buổi họp mặt trao giải thưởng cuộc thi truyện ngắn 1970-71 của báo ‘Văn nghệ’);

Thơ: Trường Giang (Đồng hương; Sau làn bụi đỏ), Bùi Công Bính (Một vùng quê đất nước), Hồ My (Chuyện tình yêu và con số), Vũ Đình Liên (Xuân nhâm tý, 60 tuổi cảm đề), Thanh Giang (Tết trong thung lũng), Bằng Vũ (Quèn Cốc);

Ngời Yêu Thơ (Tin thơ);

Truyện: Văn Biển (Nỗi băn khoăn của bé Dạ Hương), Thu Bồn, VNGP (Hầm chông lăn, trích ‘Hòn đảo chân ren’), Tuấn Vinh (Đầu nguồn);

Bút ký: Nguyễn Văn (Mùa cá đẻ);

Phê bình: Trang Nghị (Nhân dân tuyến lửa làm thơ,- đọc ‘Thơ ca Quảng Bình – Vĩnh Linh’, Nxb. Văn học);

Đọc sách: Quan San (‘Pier đệ Nhất’, A. Tolstoi, bản dịch, 3 tập, Nxb. Văn học), Đoàn Minh Tuấn (‘Vùng cao’, truyện ký, Đỗ Quang Tiến, Nxb. Phụ nữ);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Tự do trong triều đình của một nữ hoàng Anh);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Huê Kỳ: Nghệ thuật lên cao; Những tác phẩm…khỉ gió…), Đặc Công (Ních thương; Ních cười; Ních ăn; Ních nói; Ních chơi), Quý Yến (Ních càng khát nước);

Nghệ thuật: Hoàng Diệp (Giới thiệu: Đoàn văn công công an nhân dân vũ trang); Trần Hải (Phim ‘Trần Quốc toản ra quân’); Đoàn Đức (‘Mai’, một vở kịch của Học Phi);

Bs. Lê Khắc Thiền (Hải Thượng Lãn Ông, người thầy thuốc lỗi lạc của dân tộc);

– Ngày 17: tuần báo Văn nghệ  s. 440:

Trích cuốn ‘Nói chuyện Mỹ’: C.B. (Gửi Mr. Nixon, phó tổng thống Mỹ, /1953/), T. L. (Thư không dán gửi tổng thống Mỹ, /1960/), Chiến Sỹ (Đế quốc Mỹ bi và bí, /1964/), Chiến Sỹ (Mặt trận số 2 chống đế quốc Mỹ, /1966/); [a]

Thơ: Phan Thị Thanh Nhàn (Thư viết ở Thác Bà; Phép lạ của rừng), Nguyễn Anh Thuấn (Bài thơ về cái mũi khoan), Nguyễn Hoa (Bàn tay);

Truyện: Võ Huy Tâm (Về Cao Bằng), Trần Tự (Chuyện bác Thềm);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (1/ Đông Thái, quê hương Phan Đình Phùng);

Bùi Hiển (Chắc khỏe mà đôn hậu,- phát biểu tại cuộc họp trao giải thưởng cuộc thi truyện ngắn 1970-71 của báo Văn nghệ);

Phê bình: Bùi Ngọc Trác (Nhiệt tình đóng góp của Trịnh Xuân An,- đọc ‘Thời đại mới, văn học mới’, phê bình tiểu luận, Trịnh Xuân An, Nxb. Văn học);

Đọc sách: Võ Văn Trực (‘Khúc hát về một con đường’, tập thơ Ngô Văn Phú, Nxb. QĐND);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Phải nắm vững nghề);

Văn thơ đả kích: Chính Quy (Chuyện Huê Kỳ: Những ông vua…; Yêu nghệ thuật kiểu Mỹ…), Lã Vọng (Thần đô-la lên cơn sài), Đặc Công (báo ‘Văn nghệ’ mở đợt xướng họa thơ đả kích Mỹ-ngụy; bài xướng của Đặc Công: ‘Nhắn Ních-xơn’);

Thơ vui: Xích Điểu (Cảnh giác tối mò);

Thơ Nhật Bản (Bằng Việt dịch qua tiếng Nga): Kihara Koyti (Máy xúc đất), Giun Okamoto (Bài hát của viên bộ trưởng), Noriko Ibaraki (Khi tôi còn xinh đẹp);

Nghệ thuật: Từ Lương (Phê bình vở kịch ‘Đôi mắt’: Tôi say người lắm người ơi!); Đào Trọng Từ (Một nghệ sĩ tiến bộ của nhân dân Mỹ: Peter Seeger); lời ca của P. Seeger (Bài ca về 3 người lính ở Pho-hút; Chuyến tàu cuối cùng đi Nurmberg);

– Ngày 24: tuần báo Văn nghệ  s. 441:

Phát biểu tại buổi trao thưởng thi truyện ngắn VN: Nguyễn Khải (Về các truyện chiến đấu được giải), Tô Ngọc Hiến (Nghề nghiệp và công việc là cái vốn nhỏ của tôi);

Truyện ngắn: Hồ Thủy Giang (Bà mẹ và cô gái), Nguyễn Đỗ Ngọc (Tứ tử trình làng);

Bút ký: Vũ Bão (Đoạn đường đến Bản Đông);

Thơ: Võ Văn Trực (Núi Hai Vai; Ngược mùa gió lửa), Triết Giang (Mua quà tặng con), Hoàng Hưng (Thị xã than);

Sổ tay người yêu thơ: Nguyễn Văn Long sưu tầm (Lê Quý Đôn nói về thơ);

Tiểu luận: Huỳnh Lý (Kỷ niệm 100 năm sinh: Giở lại thơ văn Phan Châu Trinh); Đào Xuân Quý (Vài nét về thơ Hải Phòng,- đọc ‘Tuyển tập thơ Hải Phòng 1965-70’, Hội VN Hải Phòng xb.);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Lối nói lái trong văn chương);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (2/ Bài thi đình của cụ Phan);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Ngựa chiến Kit-ti chưa chiến đã chuồn), Xích Điểu, Búa Đanh, Nguyễn Đình (Họa thơ ‘Nhắn Ních-xơn’), M.H. (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Năm 1971 điện ảnh phương Tây có gì lạ?);

Nghệ thuật: Nguyễn Trân (Tranh in trên lưới); N.T. (Thăm đoàn làm phim ‘Vĩ tuyến 17, ngày và đêm’);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Bức chạm nổi ‘Gánh con’, thế kỷ XVI, đình Tây Đằng, Hà Tây);

Công chúng với văn nghệ: Xuân Cát, Minh Thành (Về phim ‘Đường về quê mẹ’), Nguyễn Đức Thìn, Nguyễn Giảng (Về phim ‘Trần Quốc Toản ra quân’);

– Ngày 28 đến 30: tại Hà Nội, hội nghị văn nghệ các dân tộc thiểu số và các địa phương do Hội LHVHNTVN tổ chức; tổng thư ký Nguyễn Đình Thi khai mạc, phó tổng thư ký Nông Quốc Chấn đọc báo cáo về phong trào văn nghệ các địa phương trong năm 1971, tiếp đó là 2 báo cáo phụ về sáng tác thơ văn và kịch bản sân khấu; các nhà văn Nguyên Hồng, Tô Hoài, Huy Cận, Bảo Định Giang,…, các đại biểu đại diện các địa phương Nghệ An (Minh Huệ), Quảng Bình (Trần Công Tấn), Hà Tĩnh, Thanh Hóa (Minh Hiệu), Quảng Ninh thảo luận về các vấn đề về sáng tác, tổ chức công việc, tìm cách khắc phục chỗ yếu rõ rệt của văn nghệ các địa phương là vấn đề chất lượng. [2]   

– Ngày 30: tổng kết cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài công nhân (1969-1971) do Tổng công đoàn và Hội nhà văn VN tổ chức; các tác giả được tặng giải:

A. Tặng thưởng Văn: Chính thức: 1/ Xuân Cang (nhà văn, cán bộ Tổng công đoàn): tập truyện ngắn Những vẻ đẹp khác nhau;  2/ Vũ Hữu Ái (cán bộ Hội văn nghệ Hải Phòng): truyện vừa Những người mở đường;  3/ Nguyễn Sơn Hà (cán bộ kỹ thuật mỏ cọc 6 Quảng Ninh): hai truyện ngắn Gió tươiCô văn công và hai chàng máy xúc trong tập truyện ngắn Gió tươi;  4/ Trần Hoàng Bách (công nhân xí nghiệp cơ điện Hà Nội): truyện ngắn Xung quanh chiếc máy tiện trong tập truyện ngắn Màu vôi mới;  5/ Lý Biên Cương (báo Vùng mỏ Quảng Ninh): ba truyện ngắn Đêm mưa, Bố con người thợ hàn, Than trong tập truyện ngắn Khoảng không của đất;  6/ Trần Kim Thành (nhà văn, xưởng phim truyện Hà Nội): hai truyện ngắn Câu chuyện của người gác cầu  Trên mặt sóng  trong tập truyện ngắn Trên mặt sóng.  Khuyến khích: 1/ Hoàng Văn Lương (công nhân Cty vận tải Đèo Nai, Quảng Ninh): hai truyện ngắn Người đồng nghiệp Trong buồng lái nhỏ hẹp của tôi; 2/ Khái Hùng (cán bộ biên tập đài Tiếng nói VN): truyện vừa Mở đất; 3/ Lưu Nghiệp Quỳnh (công nhân xí nghiệp đại tu ô-tô Hà Nội): hai truyện ngắn Tình yêu cô kiểm nghiệm Chòm sao Đại Hùng trong tập truyện ngắn Tôi là người thợ; 4/ Lê Minh (nhà văn, Hội nhà văn VN): hai tập truyện ngắn Tiền tuyến trong tập truyện ngắn Tiền tuyến; 5/ Đoàn Trúc Quỳnh (công nhân xí nghiệp 8/3 Hà Nội): truyện ngắn Đôi giày. B. Tặng thưởng Thơ: Chính thức: 1/ Yên Đức (cán bộ ngân hàng Uông Bí, Quảng Ninh): 10 bài thơ khá nhất trong tập thơ của Yên Đức; 2/ Lê Điệp (công nhân Cảng Hải Phòng): 10 bài thơ khá nhất trong tập thơ của Lê Điệp; 3/ Thanh Tùng (công nhân xí nghiệp cơ khí kiến thiết Hải Phòng) 10 bài thơ khá nhất trong tập thơ của Thanh Tùng; 4/ Thái Giang (báo Lao động) một số chương khá nhất trong tập Sóng đất; 5/ Trần Lưu (công nhân Hải Phòng) 10 bài thơ khá nhất trong tập thơ Trần Lưu. Khuyến khích: 1/ Trần Thị Mỹ Hạnh (khoa báo chí trường tuyên giáo trunng ương): 5 bài thơ khá nhất trong tập thơ Sắc than; 2/ Đào Ngọc Vĩnh (công nhân Cẩm Phả, Quảng Ninh): 5 bài thơ khá nhất trong tập Ngõ thợ; 3/ Khánh Hữu (đài Tiếng nói VN): bài thơ khá nhất trong tập thơ Đường xanh; 4/ Dương Đình Hy (nhà xuất bản Lao động): 5 bài thơ khá nhất trong tập thơ Ngày mai; C. Tặng thưởng kịch bản sân khấu: 1/ Kịch bản Mở bến của Như Bình và Hoài Giao (cảng Hải Phòng); D. Tặng thưởng kịch bản điện ảnh: 1/ kịch bản Dòng điện không bao giời tắt của Sĩ Chung và Đào Lê Bình (xưởng phim Thời sự tài liệu). [3]

– Ngày 31: tuần báo Văn nghệ  s. 442:

Thơ: Nguyễn Duy (Bầu trời vuông; Hơi ấm ổ rơm; Đất đỏ nước xanh; Bài hát người làm gạch; Tre Việt Nam; Tiếng chim bạn bè);

Truyện ngắn: Vũ Thị Thường (Bà Đính đi nghỉ mát), Đặng Hậu (Thân), Nguyễn Đỗ Ngọc (Tứ tử trình làng, tiếp);

Phát biểu tại buổi trao thưởng thi truyện ngắn VN: Lê Khánh (Cần nỗ lực hơn nữa…), Vi Hồng (Để có thể viết tốt về miền núi…)

Phê bình: Nguyễn Đăng Mạnh (Đọc ‘Suy nghĩ và bình luận’ của Chế Lan Viên);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Đôi câu đối trước cửa bộ Lại dưới thời Thành Thái);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (3/ Khóc Lê Ninh);

Thông tin: Anh Ngọc (Lớp chuyên tu Hán Nôm trên đại học và công tác Hán Nôm trên miền Bắc);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Mạt kiếp Lon Non); họa thơ ‘Nhắn Ních-xơn’: Thôi Sơn, Lã Vọng, Huyền Thanh (‘Việt hóa’ mộng tàn), Phú Sơn (Ních trổ tài Sam);

Công chúng với văn nghệ: Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Quân (Về lời ca trong các bài hát);

Nghệ thuật: Vương Như Chiêm (Tượng Hồ Chủ tịch ở Mai Xá, Ninh Giang, Hải Hưng); Nguyễn Long (Xem triển lãm ảnh thời sự nghệ thuật lần thứ 9); Nguyễn Huy Hồng (Múa rối nước, một nghệ thuật đầy sức sống);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Bức chạm gỗ ‘Trò chơi trồng cây chuối’, thế kỷ XVI, đình Tây Đằng, Hà Tây);

– Trong tháng 3: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 3/72 (s. 183):

Truyện ngắn: Tô Đức Chiêu (Phía trước), Nguyên Văn (Hai bác cháu), Dương Duy Ngữ (Trong bãi bom);

Truyện ký: Nguyễn Hồng Hà (Sóc đường 9);

Bút ký: Nguyễn Minh Châu (Cảnh và người ven đường);

Kịch bản: Tuấn Long (Rừng Khuôn Mánh);

Thơ: Liên Nam (Nắm đất), Trần Ninh Hồ (Chữ ký của một người đi xa), Trường Giang (Mặt trời riêng), Lữ Giang (Lại về sông Thị), Xuân Quỳnh (Về những thói quen), Tạ Vũ (Người thợ cầu Hàm Rồng về thăm sông Chảy);

Bình luận văn nghệ: Trần Bảo Hưng (Hình ảnh anh bộ đội trong tập ‘Chuyện nhỏ giữa rừng’ của Hải Hồ); Phạm Đức (Đọc tập thơ ‘Khẩu súng hành quân’ của Liên Nam); Anh Ngọc (Thêm một tập thơ mới của Xuân Miễn); Nguyễn Thị Như Trang (Gặp các đồng chí diễn viên hát); Lê Nhật (Với một số nhạc sĩ trẻ trong quân đội); Võ Duy Linh (Đời sống văn hóa văn nghệ); P.V. (Văn nghệ khắp nơi);

Tháng 4:

– Ngày 7: tuần báo Văn nghệ  s. 443:

‘Thế giới ủng hộ chúng ta’: Minh Hải (Từ những thước phim tài liệu đến những cuốn phim truyện chống Mỹ khá sâu sắc);

T. T. (Thảo luận tại Nxb. Thanh niên về cuốn ‘Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ’, tiểu thuyết của Tô Hoài);

Phát biểu tại buổi trao thưởng thi truyện ngắn VN: Hoàng Tuyết Nhung (Niềm vui và nỗi băn khoăn…), Bùi Bình Thi (Khao khát những chuyến đi);

Phê bình: Nguyễn Đình Chú (Đọc ‘Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du’ của Lê Đình Kỵ);

Đọc sách: Nguyễn Đình (‘Phố Ngang’, tập thơ châm biếm của Xích Điểu, Huyền Thanh, Phấn Đấu, Hội VN Hà Nội xb.);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (4/ Bài thơ Nôm dán cửa chùa Yên Phúc);

Thơ: Hồ Nam, VNGP (Sáng), Tân Trà (Ngón tay), Lê Bính (Bên chiếc hào mới), Trần Nhật Thu (Những ngày của con hôm nay), Trường Giang (Lời chào thắng trận);

Người Yêu Thơ (Tin thơ);

Kịch: Nguyễn Tường Lân (Người hậu phương);

Truyện ngắn: Thanh Hương (Vẻ đẹp);

Trang thiếu nhi: truyện: Phong Thu (Bếp lửa), Nguyễn Trình (Chú ong màu cánh chả), thơ: Phạm Hổ (Trong đêm bé ngủ);

Văn thơ đả kích: Điện Quang (Ních đòn đau, đau đầu Ních), Tinh Binh (Gậy ông đập lưng ông), Phú Xuân (Quyết chiến điểm là đâu?), họa thơ ‘Nhắn Ních-xơn’: Lê Hào (Nhìn sang phía Mỹ), Nguyễn Thị Đức Kim (Thân phận Ních-xơn), Cử Bàng (Tám điểm gì Sam);

Thơ vui: Thợ Rèn (Cuồng chữ);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Bức chạm ‘Chọi gà’, nửa sau thế kỷ XVII, đình An Hòa, Nam Hà);

Nghệ thuật: Phan Hồng (Một phòng tranh vui,- phòng triển lãm tranh châm biếm nội bộ, Sở VH Hà Nội và hội Mỹ thuật tổ chức);

Khoa học-đời sống: Đinh Ngọc Lân (Bước đi của khoa học năm 1972)

– Ngày 14: tuần báo Văn nghệ  s. 444:

Tin: Trần Minh (Đại hội văn nghệ Hải Phòng lần thứ hai);

Thơ: Vĩnh Mai (Bài thơ Quảng Trị), Nguyễn Hinh Anh (Từ đền Hùng lắng nghe), Vũ Đình Minh (Bình minh), Trang Nghị (Đền Hùng ngày mưa), Khánh Nguyên (Thợ nguội và thợ tiện), Vũ Ngàn Chi, VNGP (Chuyện không bao giờ dứt ở tiểu đội), Thu Bồn, VNGP (Tiên Sa), Phạm Như Vệ, VNGP (Đợi lệnh xung phong); Trinh Đường (Lá chắn đi đời), Tuấn Lan, Việt kiều ở Pháp (‘Đường ra phía trước’);

Bút ký: Ngô Ngọc Bội (Quê hương rừng cọ);

Truyện ngắn: Nguyễn Hữu Nhàn (Mạ non), Cao Tiến Lê (Chuyện xảy ra trong hầm địch);

Phê bình: Phạm Hổ (Thơ một vùng trung du lịch sử,- giới thiệu tập ‘Thơ Vĩnh Phú’, Ty VH Vĩnh Phú xb.); Hoài Thanh (Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy);

Đọc sách: Trần Quang Nhật (‘Truyền thuyết Hùng Vương’, Nguyễn Khắc Xương sưu tầm, Chi hội VNDG Vĩnh Phú xb.);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Về tội đánh cắp văn chương);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (5/ Khóc Cao Thắng);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Lại bất ngờ…), Lã Vọng (Vua mốc), Phú Xuân (‘Chiến thuật lưu động’), Búa Tạ (Họp), M.H. (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Cái gọi là ‘điện ảnh bí mật’ ở Mỹ), Hoa Lâm (Họa thơ ‘Nhắn Ních-xơn’);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Bức chạm gỗ ‘Đấu vật’, 1694, đình Hoàng Xá, Hà Tây);

Nghệ thuật: Trúc Quỳnh (Tôi đóng vai mẹ Núi trong phim ‘Đường về quê mẹ’);

– Ngày 21: tuần báo Văn nghệ  s. 445:

Xã luận (Những tháng ngày sôi sục);

Thơ: Gia Ninh (Qua viễn kính Trường Sơn), Manuel Navarro Luna, Cuba (Ca ngợi miền Nam Việt Nam, Thúy Toàn dịch), Huy Cận (Hàn huyên; Nơi cuộc sống đang làm nên sữa ngọt; Về thăm quê xã Đức Ân; Phố tôi; Hương đất), Tú Mỡ (Chào Mạc Tư Khoa; Từ giã Y-an-ta mến khách; Thăm quê hương của Tolstoi), Yến Lan (Gửi Lại giang);

Sổ tay người yêu thơ: Xuân Diệu (‘Người đàn bà có mang’ của Blaga Dimitrova);

Ký: Nghiêm Sĩ Thái, VNGP (Màu xanh giáp ranh);

Truyện ngắn: Bùi Bình Thi (Ông già sông Nậm U);

H.T. (Tin: Hội nghị văn nghệ các dân tộc thiểu số và các địa phương);

Nông Quốc Chấn (Không ngừng nâng cao sáng tác văn nghệ ở các địa phương, - báo cáo tại Hội nghị văn nghệ các dân tộc thiểu số và các địa phương);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (6/ Những vần thơ mừng thắng trận);

Văn thơ đả kích: Chính Quy (Đắt thật), Đặc Công (Ních than), Thế Nhu, Thôi Sơn (Họa bài ‘Nhắn Ních-xơn’ của Đặc Công), Phú Xuân (Cuống cuồng), Lê Kim (Báo động bị động), Phú Sơn (Phòng tuyến mới), Huyền Thanh (Ô hô ‘ma …ác’); 

Thông tin: Trần Hữu Du (Một dân tộc tài nghệ, yêu đời,- về dân Lào);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Bức chạm gỗ ‘Chọi trâu’, thế kỷ XVII, đình Liên Hiệp, Hà Tây);

Nghệ thuật: Nguyễn Kôn (Hai vở kịch ngắn của đội kịch Sở công an Hà Nội); Phương Nam (Về phim tài liệu ‘Người Pakoh’, xưởng phim Giải phóng); N.H. (Hội nghị tổng kết phim truyện 1971); Trịnh Lan (Hội thi đơn ca lần thứ nhất, 1972, của Hải Phòng);

– Ngày 28: tuần báo Văn nghệ  s. 446:

Hội LHVHNTVN (Toàn thể văn nghệ sĩ nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của BCH TƯ Đảng và Chính phủ);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Vũ Tú Nam (Ngày 16 tháng 4 năm 1972…);

Thơ: Xuân Diệu (Những ngày tháng tư năm 1972), Đào Cảng (Đêm chống Mỹ ở cảng Hải Phòng), Triệu Thị Thục Đức (Quê em với con đường em mở), Hồ Minh Hà (Bến đò Choi), Nguyễn Duy (Bay qua nhịp cầu lửa đỏ), Tố Hữu (Stalingrad một ngày xuân; Rôm, hoàng hôn);

Sổ tay người yêu thơ: Xuân Diệu (‘Đứa trẻ sơ sinh’, 1966, của Blaga Dimitrova);

Truyện: Hoàng Lại Giang (Trên một đoạn ngầm, trích);

Nghị luận: Tô Hoài (Học tập giai cấp công nhân, sống đời sống công nhân, viết về đề tài công nhân,- bài tổng kết đọc tại lễ trao thưởng cuộc vận động viết về công nhân);

Đọc sách: Thiếu Mai (‘Đi nữa chú ơi’, tập thơ của thiếu nhi, Nxb. QĐND); Hà Vinh (Đọc một số tập ‘Văn nghệ Thái Bình’);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (7/ Người chị gái cụ Đình);

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Cái răng vàng);

Văn thơ đả kích: Châm Ngôn (Càng điên càng quẫn càng thua); Vĩnh Xương, Học Giới, Hoài Anh, Quý Yến (họa thơ ‘Nhắn Ních-xơn’);

Văn: Blaga Dimitrova, Bulgaria (Ngày phán xử cuối cùng, Phan Hồng Giang dịch);

Nghệ thuật: Lê Nghiêm (Giới thiệu phim LX. ‘Giải phóng’); Thục Phi (Xem phòng tranh tượng của các tác giả phụ nữ);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Bức chạm gỗ ‘Đánh hổ’, thế kỷ XVII, đình Chảy, Thanh Liêm, Hà Nam);

– Trong tháng 4: tạp chí Tác phẩm mới  s. 18 (tháng 3&4/1972):

Truyện: Nguyễn Sơn Hà (Gió tươi), Hoàng Văn Lương (Người đồng nghiệp), Lý Biên Cương (Bố con người thợ hàn), Lê Minh (), Trần Hoàng Bách (Câu chuyện có liên quan đến một chiếc máy);

Thơ: Yên Đức (Nguồn sáng; Phố mỏ), Lê Điệp (Chuyện về em; Cuộc sống từ một mảnh tường đổ; Vác gạo qua dốc Khỉ), Thái Giang (Sóng đất), Đào Ngọc Vĩnh (Hải Phòng; Những người ra đi từ cửa biển), Dương Đình Hy (Vá lưới), Trần Thị Mỹ Hạnh (Ngọn đèn lò; Mái tóc bạch kim), Huy Cận (Xem triển lãm tượng gỗ dân gian; Hội đồng từ điển Việt Nam làm việc; Thư từ Vĩnh Linh), Trần Lê Văn (Tiếng hát người Dao; Nghe chuyện cô Kiều);

Thơ Tây-ban-nha (Đào Xuân Quý giới thiệu và dịch): Miguel Hernandez (Ngọn gió của nhân dân), Marcos Ana (Quả tim tôi là một cái sân), Eugenio de Nora (Ta ca ngợi);

Tiểu luận-phê bình: M. Gorki (Nói chuyện với các nhà văn công nhân, bản dịch); Xuân Cang (Một đội ngũ, một đề tài);

Nói chuyện nghề nghiệp: Bùi Hiển (Cây nến và bó đuốc); Nguyễn Tuân (Đi và Viết; Tán về ngôn và ngữ);

Thời sự văn nghệ: Tô Hoài (Một vài nhận xét); Lưu Quỳnh (Viết về người lính ở hậu phương); Bùi Huy Phồn (Qua mấy cuộc vận động sáng tác);

Vốn cổ: Tô Hoài (‘Đang vần va’, một công trình sưu tầm đáng quý);

Nghệ thuật: Nguyễn Văn Tỵ (Điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam thế kỷ XVI-XVII-XVIII);

‘Văn học tư sản phương Tây’: Hoàng Trinh (Từ ‘cũ’ đến ‘mới’, từ ‘Bản di chúc Tây-ban-nha’ đến ‘Giờ thứ 25’);

– Trong tháng 4: Tạp chí Văn học  s. 2 (tháng 3&4/1972) (s. 134):

‘Mấy vấn đề phương pháp luận nghiên cứu văn học’: Vũ Đức Phúc (Lý luận và thực tiễn sáng tác văn học); Nguyễn Văn Hoàn (Thử xác định ranh giới của ‘phương pháp luận nghiên cứu văn học’); Cao Huy Đỉnh (Phương thức sáng tác dân gian và văn học dân gian);

Nam Chi (Tìm hiểu truyền thống văn học phản ánh tính chất anh hùng của dân tộc);

Tầm Vu (Tìm hiểu đặc điểm của tư tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý-Trần qua các tác phẩm văn học);

Hoa Bằng (Một vài tìm tòi về đôi câu đối tương truyền là của Cao Bá Quát và về bài thơ ‘Thú Hương Sơn’);

Nguyễn Công Hoan (Ai công hầu ai khanh tướng);

Trần Lê Sáng, Phạm Đức Duật (Cuộc đời và thơ văn Bùi Hữu Nghĩa);

N.I. Nikulin, LX. (Mấy vấn đề nghiên cứu và giới thiệu văn học việt Nam ở Liên Xô, bản dịch);

Đỗ Ngoạn (Heinrich Heine và chủ nghĩa lãng mạn Đức);

Nguyễn Đức Nam (Về việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền văn học);

Trao đổi ý kiến: Đỗ Văn Khang (Phản ánh luận của Lenin với mối quan hệ giữa đời sống, nhà văn, tác phẩm và bạn đọc);

Đọc sách: Hà Minh Đức (‘Vì một nền văn nghệ mới Việt Nam’ của Xuân Trường);

Sinh hoạt văn học: P.V. (‘Tạp chí Văn học’ tổng kết công tác năm 1971); P.V. (L.Z. Eydelin nói chuyện và tọa đàm tại Viện văn học); Nhị Hoàng (Khai giảng lớp chuyên tu Hán Nôm trên đại học); P.V. (Trao đổi về ‘Làm thế nào để có nhiều tác phẩm sân khấu hay’?); P.V.(Kết quả cuộc thi truyện ngắn báo ‘Văn nghệ’ 1970-71);  

– Trong tháng 4: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 4/72 (s. 184):

Truyện ngắn: Thao Trường (Chuyện nhỏ đêm mưa), Vũ Thái Bình (Người trở về), Huyền Dân (Mẹ con người du kích), Cao Tiến Lê (Buổi sáng ở Huội Khơi);

Ký sự: Hà Đình Cẩn (Nơi cửa rừng), Hoàng Văn Bổn (Chân dung một chặng đường chiến dịch);

Thơ: Khương Hữu Dụng (Lê-nin; Viếng Lê-nin), Phạm Gia Đạt (Tiểu đội), Văn Thảo Nguyên (Khói và gió; Lá thư), Quang Chuyền (Thơ viết ở rừng), Vũ Quần Phương (Lưỡi rìu người mở đường), Phác Văn (Cây gạo bến Tà Khống), Phan Thị Thanh Nhàn (Tiếng quê; Cô gái ấy), Minh Giang (Một điều chưa hỏi), Hồ Nam (Bãi Hà), Nguyễn Quang Hà (Đặt tên cho con), Vương Trọng (Trên một cung đường trọng điểm);

Bình luận văn nghệ: Nhị Ca (Miệng nói hòa bình, tay gieo binh hỏa); Huỳnh Lý (Đọc thơ văn yêu nước sau thế kỷ XIX); Nguyễn Tử Mạch (Những suy nghĩ nhỏ về bản sắc riêng trong văn học); Đào Bích Nguyên (Tiếng hát át tiếng bom ở vùng Trung Trung Bộ); Vương Trí Nhàn (Nhân một vở chèo khai thác đề tài lịch sử); Trần Luân Kim (‘Đường về quê mẹ’, một bộ phim mới về đề tài chiến đấu); P.V. (Văn nghệ khắp nơi);

Tháng 5:

– Ngày 5: tuần báo Văn nghệ  s. 447:

Thơ Hồ Chí Minh 1954 (Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ);

Trích ký sự về Điện Biên Phủ (Đánh lấn);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Huy Phương (Dòng máu Hải Phòng);

Phê bình: Nhị Ca (Đọc thơ, nhớ lại Điện Biên);

Đọc sách: Công Huấn (Đường ra trận’, Hội VN & Ty GTVT Quảng Bình xb.);

Thơ: Phạm Hổ (Ca ngợi những người anh hùng Quảng Trị), Hồ Anh Tuấn (Hải Phòng tháng tư), Nguyễn Khoa Điềm (Xuống đường), Nguyễn Ích (Ngã ba đường vào Tân Lâm);

Thơ công binh: Trần Quang Vinh (Bài ca phá bom), Minh Tiến (Hiệp đồng), Diên Hồng (Xưa, nay);

Truyện ngắn: Nguyễn Thị Kim Thanh (Hoàn);

Ký: Trang Nghị (Hà Nội sơ tán, Hà Nội chiến đấu);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (8/ Một tên Việt gian đại ác, một nhà nho thâm thúy và một nhà nho vô sỉ);

Văn thơ đả kích: Đặc Công (Thang), Người Du Kích (Cờ không có quân), Ngô Linh Ngọc (Vỏ cứng nhũn nhùn), Nguyễn Đình (Một cú Quảng Trị trị hai chủ bài);

Tiểu luận: Phạm Huy Thông (Tìm hiểu thời Hùng Vương dựng nước: một hành trình khoa học đầy thơ mộng);

Văn: Blaga Dimitrova, Bulgaria (Ngày phán xử cuối cùng, Phan Hồng Giang dịch, tiếp);

Nghệ thuật: Tất Thắng (Xem vở kịch ‘Âm mưu và hậu quả’);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Bức chạm ‘Bốn nụ cười’, thế kỷ XVII, đình Hương Lộc, Nghĩa Hưng, Nam Định);

– Ngày 12: tuần báo Văn nghệ  s. 448:

‘Tiếng nói chúng tôi’: Hoài Thanh (Cái mới của ‘học thuyết Nich-xơn’);

‘Thế giới ủng hộ chúng ta’: P.T. (Triển lãm ‘Đông Dương nhất định thắng’ ở Chile);

Trang đặc biệt về mặt trận Quảng Trị: ghi chép: Cao Cân (Ở một góp rừng Quảng Trị), thơ: Nguyễn Duy (Cát trắng; Nụ cười; Bà mẹ Triệu Phong; Cô gái Hải Lăng; Em bé lạc mẹ; Chiếc mũ ‘tai bèo’; Đêm trăng Thạch Hãn);

Thơ: Lương Xuân Đoàn (Tiếng chim lạ trong nhạc xe đêm ấy), Văn Lợi (Bình minh phía trước), Trần Nhật Thu (Nhịp cầu em gái), Hoàng Vũ Thuật (Núi voi);

Ca dao: Nguyễn Văn Dinh (Tay thoi tay súng; Tên lửa, mác lào; Đèo Ngang; Lòng ta nhớ hoài);

Sổ tay người yêu thơ: Nguyễn Đức Quyền (‘Nhớ’ của Hồng Nguyên);

Phê bình: Nhật Quang (‘Chặng đường hành quân’, tập thơ Xuân Miễn), Nguyễn Năm (Đọc ‘Ký sự Xiêng Khoảng’ của Bùi Bình Thi);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (9/ Trước lầm đường, sau tỉnh ngộ);

Văn thơ đả kích: họa thơ ‘Nhắn Ních-xơn’: Chu Hà (Thế bí của Nich-xơn), Phạm Khắc Hòe (Đầu voi, búa tạ), Sầm Phố, cụ bà 88 tuổi (Nắng héo Hoa Kỳ); Tú Mỡ (Tặng Hoàng Xuân Lãm, con người hùng); Tầm Vông (sưu tầm ‘Nụ cười đả Mỹ’); Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Dọa nổi ai…), Huy Cận (Biển của ta), Nguyễn Đình (Thả mìn… mất mạng), Phú Xuân (Huế đại hỗn loạn); 

Tiểu luận: Phạm Huy Thông (Tìm hiểu thời Hùng Vương dựng nước: một hành trình khoa học đầy thơ mộng, tiếp);

Văn: Blaga Dimitrova, Bulgaria (Ngày phán xử cuối cùng, Phan Hồng Giang dịch, tiếp);

Nghệ thuật: N.T. (Những ngày đi quay phim ở mặt trận Điện Biên); Nguyễn Đức Quỳ (Xem kịch ‘Đôi mắt’); Peter Seeger (Kỹ nghệ nhạc Mỹ và nhạc Mỹ chân chính, trích dịch);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (8/ Hình tượng hái dừa, chạm gỗ thế kỷ XVII, đình An Hòa, Thanh Liêm, Hà Nam);

– Ngày 19: tuần báo Văn nghệ  s. 449:

Nghị luận: Vũ Khiêu (Vấn đề thể hiện đạo đức Hồ Chí Minh trong nghệ thuật);

‘Bác Hồ của chúng ta’: Hoài Thanh (Nhớ lại một vài lần được gặp Bác), Nguyễn Hữu Phách (Bác Về thăm Côn Sơn), thơ Đoàn Minh Tuấn (Bàn tay Bác Hồ);

Ký: Võ Huy Tâm (Những ngày ở Hải Phòng);

Truyện ngắn: Lê Minh Khuê (Cao điểm mùa hạ);

Thơ: Thanh Tùng (Kẻ thù đáng sợ), Vân Long (Ngày chủ nhật, máu và chiến công), Quế Lâm, VNGP (Bài thơ về rau ‘tàu bay’), Minh Huệ (Tiếng máy bồi hồi);

Sổ tay người yêu thơ: Tống Khắc Hoài (Cốt cách vĩ đại, về bài ‘Không đề’, tháng 3/1968 của Hồ Chí Minh);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Một bài văn và bốn bài thơ của Phan Đình Phùng vừa được phát hiện);

Văn thơ đả kích: Phạm Công (Tổng Ních ra tòa), Thợ Rèn (Hóa kiếp), Vĩnh Xương (Chuyện mụ đầm già Ăng-lê), Phú Xuân (Tình nghĩa ác ôn), Lê Kim (Ngụy …tự túc);

Văn: Blaga Dimitrova, Bulgaria (Ngày phán xử cuối cùng, Phan Hồng Giang dịch, tiếp);

Nghệ thuật: Phạm Sĩ Lộc (‘Tiếng hát công binh’, tập bài hát, Bộ tư lệnh công binh xb.);

– Ngày 26: tuần báo Văn nghệ  s. 450:

Bút ký: Vũ Hữu Ái (Bến cảng những ngày tháng tư);

Thơ: Tế Hanh (Câu chuyện chiếc mũ sắt), Lê Đình Cánh (Trước đền Lê Lai), Ninh Dung Quý (Phiếu xuất hàng), Hoa Lê (Nhớ mẹ), Nguyễn Tất Luyện (Em tôi đã về);

Trang thiếu nhi: kịch: Tô Hoài (Tích tịch tình tang, trích), thơ: Định Hải (Tiếng chim chích chòe), Quang Huy (Bé ngoan; Bé ngồi trước cửa nhìn ra), Thái Hoàng Linh (Tay bạn), Quang Minh (Thơ đố: cá gì?);

Truyện ngắn: Huy Thành (Con đường thoát khỏi ‘thung lũng tử thần’);

Phê bình: Xuân Tửu (Đọc ‘Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ Hồ Chí Minh’ phê bình tiểu luận, Hồng Chương); Hoàng Như Mai (Đọc ‘Thử thách thầm lặng’, tập truyện Vũ Tú Nam);

Văn nghệ (Tổng kết cuộc họa thơ đả kích ‘Nhắn Ních-xơn’: Nâng cao hơn nữa cây ‘đòn bút’…);

Văn thơ đả kích: Đặc Công (Ních hoảng), Trần Quê (Bốn cái mạnh, bốn cái bại), Nguyễn Đình (Vỡ mõm vỡ mồm), Tầm Vông sưu tầm (Nụ cười đả Mỹ);

Thơ: Blaga Dimitrova (Con bò, Tế Hanh dịch);

Nghệ thuật: Charles Fourniau, Pháp (Điện ảnh VN, điện ảnh của một dân tộc đang chiến đấu, bản dịch); Văn Giáo (Tấm lòng của giới mỹ thuật đối với Bác);

– Trong tháng 5: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 5/72 (s. 185):

Hồi ký: Võ Nguyên Giáp (Những năm tháng không thể nào quên, Hữu Mai ghi); Nguyễn Thành Vân (Nghĩ về một người anh hùng);

Truyện ngắn: Vũ Thị Thường (Chắt); Nguyễn Đình Tiên (Chuyện ở chiến trường);

Thơ: Vũ Ngàn Chi (Quảng Trị; Khi trận đánh bắt đầu), Tô Hà (Thăm một làng biển cũ), Ngọc Bái (Trên đỉnh 689), Nguyễn Hoa (Tiếng cười), Đỗ Quang Hưng (Trái lại), Văn Thảo Nguyên (Nhật ký dũng sĩ), Phụng Sơn (Con mèo phơi nắng), Bàng Sĩ Nguyên (Ý tiếp vận trên Trường Sơn), Bằng Việt (Trong chiều yên);  

Bình luận văn nghệ: Huỳnh Lý (Đọc những bài viết đầu tiên của Bác); Xuân Sách (Đọc ‘Kỷ niệm trận địa’); Phạm Sĩ Lộc (Suy nghĩ nhỏ qua mấy bài hát viết về Bác); Đoàn Công Tính (Những bức ảnh đầu tiên của một phóng viên mặt trận); P.V. (Văn nghệ khắp nơi);

Tháng 6:

– Ngày 2: tuần báo Văn nghệ  s. 451:

‘Bác Hồ của chúng ta’: Vũ Năng An (Được đi chụp ảnh về Bác), Hồ Khải Đại ghi (Bác Hồ dạy chúng tôi cất cao tiếng hát);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Mộng Sơn (Một vài suy nghĩ nhỏ);

Ghi chép: Trần Đức Lợi (Tiền tuyến đang chờ);

Truyện ngắn: Nguyễn Khắc Thiều (Cô gái tóc cháy);

Thơ: Hải Lê (Bài ca chiến thắng, trích), Ngô Văn Phú (Gửi Tây Nguyên), Hữu Thỉnh (Ngã ba Chân Vạc), Hồ Minh Hà (Trên đèo mây), Đặng Hấn (Niềm vui bác thợ cạo), Bùi Công Bính (Trên đất quê mình);

Sổ tay người yêu thơ: Huỳnh Lý (Hò Huế, Trị Thiên);

Đọc sách: Định Nguyễn (‘Thơ người ra trận’, của Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng); Hồ Xuân Sơn (‘Nước nguồn’, truyện, Lê Khắc Đường);  

Tạp văn: Đặng Thai Mai (Chuyện phiếm văn nghệ: Viết khó viết dễ);

Văn thơ đả kích: Chính Nghĩa (Chính danh thủ phạm), Nguyễn Đình (Dại khôn), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Sách báo cho thiếu nhi ở Sài Gòn);

Thơ: Felix Pita Rodriguez, Cuba (Nếu thế giới này tạo được nhiều Việt Nam, bản dịch);

Nghệ thuật: Sỹ Tiến (Thương tiếc nghệ sĩ Trần Phềnh); Nguyễn Vũ (Vài nét về hát xoan Vĩnh Phú); Nguyễn Văn Tỵ (Cảnh vật Yên Bái trên 200 ký họa);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (9/ bức chạm ‘Quan ghẹo gái’ , thế kỷ XVII, đình Tiên Chưởng, Vụ Bản, Hà Nam);

– Ngày 9: tuần báo Văn nghệ  s. 452:

Nghị luận: Phạm Văn Đồng (Hiện thực của đất nước ta giàu và đẹp lắm, ngành điện ảnh phải sáng tạo nhiều phim tốt);

Thơ: Nguyễn Viết Lãm (Khi tiếng khóc trẻ thơ trở thành dao sắc), Hoài Anh (Hà Nội hôm nay), Hoàng Tố Nguyên (Ních-xơn tinh khôn như chó sói), Thọ Vân (Thành phố sóng), Anh Thơ (Căm với yêu), Trần Lưu (Hải Phòng lửa 1972);

Tiểu thuyết: Hà Khánh Linh, miền Nam (Nửa ngày Huế, trích);

Truyện ngắn: Hướng Dương (Bài ca chiến thắng);

Tùy bút: Hải Như (Cây cơm nguội trên đường phố thủ đô);

Phê bình: Trang Nghị (Một tác giả trẻ trên chiến trường Trị Thiên-Huế, - về Nguyễn Khoa Điềm), Lê Đình Kỵ (Thơ của các em,- đọc tập ‘Em kể chuyện này’);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Mò kim đáy biển), Huy Cận (Vòng hoa vấy máu), Đặc Công (Ngao du kết thúc), Nguyễn Đình (Năm tuổi Kissinger), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: tiểu thuyết sáo mòn);

Nghệ thuật: Hoàng Châu Ký (Xem vở ‘Tín hiệu trái tim’ của đoàn ca kịch Trị Thiên-Huế);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (10/ Bức chạm gỗ ‘Gia đình’, thế kỷ XVII, đình Thạch Lỗi, Cẩm Giàng, Hải Dương);

‘Thế giới ủng hộ chúng ta’: Minh Hải (Ngôi sao điện ảnh hay là các gai nhọn ở Mỹ, -về Jane Fonda);

– Ngày 16: tuần báo Văn nghệ  s. 453:

Nghị luận: Nguyễn Thành Long (Bình Định ngực đầy chiến công);

Ký: Võ Huy Tâm (Những ngày ở Hải Phòng: Vườn hoa chéo);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Xuân Thiêm (Chúng tôi vào đợt chiến đấu mới);

Tiểu thuyết: Hà Khánh Linh (Nửa ngày Huế, trích, tiếp);

Thơ: Bảo Định Giang (Gửi Angela Davis), Nông Quốc Chấn (Tiếng cồng và tiếng súng), Trần Thị Việt Anh (Viên gạch trong trận bom), Yên Đức (Ơi anh kỹ sư khai thác; Với tình yêu như thế);

Sổ tay người yêu thơ: G.  Hà, H. Lý (‘Tre Việt Nam’ của Nguyễn Duy);

Tiểu luận: Phong Hiền (Văn học Sài Gòn những tháng gần đây); Vũ Ngọc Bình (Chặng đầu của nền văn học viết cho thiếu nhi);

Đọc sách: Tế Hanh (Đọc lại ‘Đất rừng phương Nam’, truyện, Đoàn Giỏi);

Công chúng với văn nghệ: Phạm Duy Khang (Lửa trong thơ);

Văn thơ đả kích: Tú Mỡ (Bất tử), Đặc Công (Bài rủa tên cố vấn Mỹ Giôn Pôn Van), Nguyễn Đình (Ních khóc Van), Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Chết, sống; Tớ vượt thầy…); 

Nghệ thuật: Trịnh Lại (Suy nghĩ về sáng tác bài hát cho thiếu niên nhi đồng); Mai Thúc Luân (Mấy suy nghĩ về nghệ thuật thể hiện một hình tượng anh hùng, -về nhân vật Lý Tự Trọng trong phim ‘Người cộng sản trẻ tuổi’);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (11/ Bức chạm ‘Hái nụ hái hoa’, thế kỷ XVII, đình Liên Hiệp, Hà Tây);

– Ngày 23: tuần báo Văn nghệ  s. 454:

Thơ: Trần Đăng Khoa, 14 tuổi (Lời một bạn gái 12 tuổi), Bàng Sĩ Nguyên (Mũi thuyền trên kênh rạch), Trần Văn Ninh (Lái máy cày trên quê mẹ), Phan Trác Hiệu (Bài thơ tặng con), Huy Cận (Bảo vệ môi trường sinh sống);

Tiểu thuyết: Hà Khánh Linh (Nửa ngày Huế, trích, tiếp);

Truyện: Lê Lựu (Mùa sau sẽ đến);

Bút ký: Hà Minh Tuân (Sức mạnh vô tận);

Giới thiệu: Hồ Sĩ Vịnh (Những vần thơ về quê mẹ, Quảng Trị anh hùng);

Đọc sách: Nguyễn Ngọc Hà (Bích Thuận với tập truyện ‘Mùa dưa hấu’), Xuân Cang (Một cây bút lái xe: Trần Công Nghị);

Sổ tay người yêu thơ: Xuân Thiêm (về bài ‘Em biết là anh đang ở đâu’ của Phạm Hổ);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Phạm Hổ (Với một kẻ thù như Nixon);

Văn thơ đả kích: Vũ Tú Nam (Thời sự ‘địa ngục số 13’: Những kẻ mới đến), Tú Mỡ (Ác giả ác lai, một tháng chết hai tướng giặc), Người Du Kích (Ních thò lò), Đặc Công (Điểm mặt tướng ngụy: Nguyễn Văn Thiệu, Ngô Quang Trưởng);

Nghệ thuật: Thái Hanh (Hoạt động mỹ thuật địa phương đang trên đà lớn mạnh); Bùi Ngọc Trác (Vài ý nghĩ về vở kịch ‘Cửa mở hé’, - kịch bản Lộng Chương, đạo diễn Trần Hoạt, đoàn kịch Hải Phòng);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (12/ Bức chạm gỗ ‘Nam nữ vui đùa’, thế kỷ XVII, đình Đông Viên, Hà Tây);

– Ngày 30: tuần báo Văn nghệ  s. 455:

Bút ký: Tuấn Vinh (Gặp những người đánh Dốc Miếu);

Ghi nhanh: Minh Huệ (Những tia sáng bình dị), Anh Tuấn (‘Vượng đồng’);

Truyện ngắn: Nguyễn Phan Hách (Hạt gạo đỏ);

Thơ: Tế Hanh (Gửi Bình Định), Nguyên Hồng (Hà Bắc quê hương các con), Hoàng Minh Châu (Giành lại Huế cho em!), Thùy Anh (), Lương Xuân Đoàn (Kỷ niệm về một bức tranh);

Tiểu luận: Vũ Khiêu (Kỷ niệm 150 năm sinh Nguyễn Đình Chiểu: Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu trong văn học Việt Nam); Vũ Đình Liên (Nguyễn Đình Chiểu với quan niệm trường kỳ kháng chiến);

Sổ tay người yêu thơ: Hoài Thanh (‘Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc’, một trong những bài văn hay nhất trong văn học Việt Nam);

Tư liệu văn hoc: M.N. (Thăm lại chiến trường Cần Giuộc xưa);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Lại đến lượt A…), Người Trực Chiến (Chùm thơ trực chiến: Hà Nội vui; Ước; Trời Sơn La; Hà Nội của chúng ta), Đặc Công (Điểm mặt tướng ngụy: Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Văn Minh), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Sách và nhà trường);

Nghệ thuật: Hồ Bắc (Những tiếng hát mừng miền Nam thắng lớn); Nguyễn Long (Những bức ảnh từ tiền tuyến lớn); Bằng Lâm (Vẽ các chiến sĩ hải quân); Xuân Bình (Những ngày đáng ghi nhớ,- nhóm ca hát thủ đô đi phục vụ mặt trận);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (12/ Bức chạm gỗ ‘Mèo ngoạm cá’, thế kỷ XVIII, đình Bình Lục, Đông Triều, Quảng Ninh);

 

– Trong tháng 6: tạp chí Tác phẩm mới  s. 19 (tháng 5&6/1972):

Hồi ký: Dương Đại Lâm (Bác Hồ về bản tôi, Lữ Huy Nguyên ghi);

Ký sự: Cao Tiến Lê (Ở một bộ tư lệnh mặt trận);

Truyện ngắn: Tô Hải Vân (Ghi chép của thư ký tổ bộ môn về những vấn đề khoa học; Việc thực hiện một sáng kiến);

Truyện cho thiếu nhi: Vũ Tú Nam (Ong bắt dế; Con nhện vằn; Trận đầu; Biển đẹp);

Thơ: Blaga Dimitrova, Bulgaria (Gốc rễ; Những em bé Hải Phòng, Tế Hanh dịch), Vương Anh (Điều bắt đầu của mùa hè kỳ lạ), Nguyễn Đàn (Bác Hồ sống mãi mãi), Nguyễn Đức Mậu (Dòng sông chảy ngược; Những ngôi nhà bỏ không), Lưu Quang Vũ (Gần Huế), Phạm Đình Ân (Đi dọc miền Trung; Phi lao), Trần Huyền Thanh (Đêm trắng; Cùng sức mạnh khối não), Nguyễn Hải Trừng (Túp lều rơm), Yiannis Ritsos, Hy Lạp (Cái cây ở nhà tù và các chị em, Tế Hanh dịch);

Tiểu luận-phê bình-phát biểu: Hà Minh Đức (Vẻ đẹp trí tuệ trong thơ Bác); Tô Hoài (Cuộc vận động sáng tác đề tài công nhân tiến sang một bước mới); Nguyễn Hồng (Về những truyện và ký vào chung khảo tặng thưởng văn học công nhân); Xuân Diệu (Đọc một số thơ của công nhân và thơ về công nhân); Vũ Hữu Ái (Những suy nghĩ bước đầu); Yên Đức (Bước đầu); Trần Thị Mỹ Hạnh (Cảm tưởng của tôi về làm thơ công nhân); Nguyễn Sơn Hà (Tôi học cách sống trước);

Nói chuyện nghề nghiệp: Nguyễn Tuân (Đi để rồi viết);

Nghệ thuật: Nguyễn Văn Y (Gốm của bốn nghìn năm);

Tùy bút ngôn ngữ học: Hoàng Tuệ (Cuộc sống ở trong từ);

– Trong tháng 6: Tạp chí Văn học  s. 3 (tháng 5&6/1972) (s. 135):

Lê Hậu (Ánh sáng, ước mơ, lòng tin và hiện thực trong tiểu thuyết);

Vũ Đức Phúc (Sự say mê nhìn cuộc sống và nghệ thuật viết truyện);

Trần Trọng Đăng Đàn (Bàn về đề tài và chủ đề trong tiểu thuyết hiện đại của chúng ta);

Tô Hoài (Suy nghĩ về hình thức truyện dài Việt Nam);

Nguyễn Đình Thi (Mấy ý kiến trao đổi chung quanh một quyển tiểu thuyết);

Đặng Nghiêm Vạn (Về truyện ‘Quả bầu mẹ’ ở Việt Nam);

Phan Nhật (Tìm hiểu quá trình hình thành truyện thơ ‘Tiếng hát làm dâu’);

Hà Minh Đức (Truyện ngắn miền Nam trên đà phát triển của cách mạng);

Khái Vinh, Hữu Nhuận (Về một số truyện ngắn in trên báo ‘Văn nghệ’ mấy năm gần đây);

Đỗ Đức Dục (Chủ nghĩa hiện thực phê phán phương Tây từ nửa sau thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX);

Hoàng Trinh (Bước đầu phê phán chủ nghĩa cấu trúc trong phê bình văn học);

Đọc sách: Đỗ Đức Hiểu (‘Phương Tây, văn học và con người’, t. 2, của Hoàng Trinh); Lê Bá Hán (‘Phê bình và tiểu luận’, t. 3, của Hoài Thanh);

Sinh hoạt văn học: B.T. (‘Tạp chí văn học’ ra số đặc biệt về truyện); V.T. (Tiến tới kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng);

– Trong tháng 6: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 6/72 (s. 186):

Ký sự: Nguyễn Minh Châu (Tiếng gọi của hai bờ đất), Vũ Bão (Một ngày ở chốt); Truyện: Nguyễn Khắc Tơ  (Nhiệm vụ), Cao Cân (Bóng dáng con đường);

Thơ: Phạm Ngọc Cảnh (Từ những chiến công này), Nguyễn Thành Vân (Lê Hồng Gấm), Hồng Chinh Hiền (Cầu thang lên rông), Trang Nghị (Mùa xuân ở ngoại ô Sài Gòn), Hoàng Nhuận Cầm (Người cắt dây thép gai), Anh Chi (Với nó), Định Hải (Cây dừa; Bài toán đố), Nguyễn Viết Dinh (Din), Vũ Đình Văn (Nửa sau khoảng đời);

Bình luận văn nghệ: Thiếu Mai (Tuổi trẻ và cách mạng); Vũ Ngọc Bình (Đất trời sáng lắm hôm nay); Bích Tiên (Đọc ‘Mặt trời quê hương’); Huy Chinh (Thế nào là múa?); Lê Văn Đạm (Những ngày chiến đấu khẩn trương); P.V. (Văn nghệ khắp nơi);

Tháng 7:

– Ngày 7: tuần báo Văn nghệ  s. 456:

Bút ký: Minh Lợi, miền Nam (Câu chuyện ngày về);

Truyện ngắn: Nguyễn Thị Cẩm Thạnh (Sau cơn mưa), Trần Kim Thành (Chuyện chép ở Bình Nguyên) ;

Thơ: Cảnh Trà (Chiều biển vui; Nắng miền Trung; Mặt mùa hè), Hải Bằng (Võng đưa), Nguyễn Đình Thi (Câu chuyện với người yêu);

Đọc sách: Ngô Linh Ngọc (‘Cướp cũ cướp mới’, tập thơ đả kích của Xích Điểu); Đinh Tiếp (‘Con sông chảy từ lòng phố’, thơ Trần Lưu, Thanh Tùng); Mai Liên (Đọc ‘Thơ Lục Du’, bản dịch, Nxb. Văn học);

‘Tiếng nói chúng tôi’: Phan Huỳnh Điểu (Phải chặn bàn tay đẫm máu của Nixon lại);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Mặt dày hơn cả da voi…), Trần Quê (Mỹ ngụy chạy thi), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Một ít tư liệu về hội họa Sài Gòn);

Truyện ngắn: Ruvim Fraerman, 1891-1972, LX. (Du khách đã đi bộ ra khỏi thành phố, Nguyễn Đắc Việt dịch);

Nghệ thuật: Phạm Đình Sáu (Qua cuộc vận động sáng tác bài hát công nhân); H.C. (Phòng triển lãm tranh tượng của công nhân thủ đô 1972);

‘Vốn nghệ thuật dân tộc’: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (13/ Bức chạm thi võ, thế kỷ XVIII, đền Vua Bà, Nam Đàn, Nghệ An);

 

– Ngày 14: tuần báo Văn nghệ  s. 457:

Truyện ngắn: Cao Duy Thảo, VNGP (Ngọn đèn), Trần Mai Hưởng, VNGP (Mẹ Tư);

Bút ký: Tuấn Vinh (O giao liên Gio Linh);

Thơ: Hải Lê, VNGP (Dựng lại nhà), Trần Thanh Lâm, VNGP (Khi hải cảng đã về ta), Nguyễn Xuân Sanh (Con đò con mắt), Vĩnh Mai (Cô gái Vân Kiều), Lý Vinh Quang (Dấu vết người thân trên những nhành cây), Lâm Quang Ngọc (Chiến sĩ đồn công an cửa sông);

Sổ tay người yêu thơ: Đào Xuân Quý (‘Nếu thế giới này tạo được nhiều Việt Nam’, thơ Felix P. Rodriguez);

Tường thuật: Khái Vinh (Kỷ niệm 150 năm sinh Nguyễn Đình Chiểu);

Tiểu luận: Khương Minh Ngọc (Nét mới trong truyền thống anh hùng qua các tác phẩm văn xuôi miền Nam);

Đọc sách: Hồ Hoa (‘Khúc hát về một dòng sông’, tập thơ Nguyễn Thành Vân, Thanh Giang, Nxb. Giải phóng);

Văn thơ đả kích: Vũ Tú Nam (Thời sự ‘địa ngục số 13’: Chuyện phiếm ở phòng chờ), Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Bóng mây xám trên tòa nhà trắng…), Tú Mỡ (Giặc Mỹ nói lơn), Xích Điểu (Khách sạn Hilton);

Nghệ thuật: Từ Lương (Vở kịch ‘Con tôi cả’ của Arthur Miller, đoàn kịch Hà Nội, đạo diễn Vũ Đình Phòng); Trần Hải (Phim tài liệu ‘Anh bộ đội xe tăng’, xưởng phim Quân đội);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (14/ bức chạm gỗ ‘Hội làng’, thế kỷ XVII, đình Ngọc Canh, Vĩnh Tường, Vĩnh Phú);

– Ngày 21: tuần báo Văn nghệ  s. 458:

Chủ tịch Tôn Đức Thắng (Lời kêu gọi nhân ngày 20/7);

Tin (Nữ nghệ sĩ Mỹ Janne Fonda đến Hà Nội);

Thơ: Gérard Guillaume, Pháp (Việt Nam hồn tôi, Xuân Diệu dịch), Hiền Lương (Lòng mẹ), Lâm Thị Mỹ Dạ (Chuyện của một người thương binh), Trần Nhật Thu (Mạ Nến), Hoàng Cát (Những niêu cơm), Huyền Sâm (Dòng suối yêu thương);

Sổ tay người yêu thơ: Nguyễn Thị Duy Nhất (‘Một khúc ca tặng Tô Vĩnh Diện’, thơ F.P. Rodriguez, Xuân Diệu dịch);

Bút ký: Hoài An (Ở phía sau mặt trận);

Truyện ngắn: Lê Thụy (Vợ chồng ông chủ tịch), Giang Phong (Con một gia đình liệt sĩ);

Giới thiệu: Lê Sơn (Tiếng cười Gogol,- đọc ‘Bức chân dung’, tập truyện Petersburg của N. Gogol, bản dịch, Nxb. Văn học); Phùng Văn Tửu (‘Phương Tây, văn học và con người’, tập 2, Hoàng Trinh, Nxb. KHXH);

Đọc sách: Hà Nguyên Định (‘Đồng tro’, tập truyện ngắn Đinh Quang Nhã, Nxb. Giải phóng);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Thế yếu lên gân), Huyền Thanh (Quân sư quạt mo), Nguyễn Đình (Chờ vùi ó thêm);

Nghệ thuật: Trần Việt Sơn, VNGP (Đi vẽ Tây Nguyên); Yên Nguyên (Bộ phim ‘Người thầy giáo thương binh’);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (15/ Bức chạm gỗ cưỡi ngựa đấu giáo, Nghè Giám, Cẩm Sơn, Cẩm Giàng, Hải Dương);

– Ngày 28: tuần báo Văn nghệ  s. 459:

Fidel Castro, Cuba (Trích các phát biểu về Việt Nam);

Thơ Cuba: N. Guillen (Bài thơ nhỏ tặng Việt Nam…, Xuân Diệu dịch), B. Biếc-nê (Lá cờ của tôi, Bùi Hồng Hải dịch), Fa-đát Ha-mét (Toàn dân ca, Bùi Hồng Hải dịch);

Thơ Chile: H. Ca-nhát-xơ (Bác Hồ ơi, triệu cháu đang nhớ tới Người), E.M. Rê-bô-zê-đô (Bà San);

Truyện ngắn: Baldomero Lillo, Chile (Lò quỷ, Hoàng Tám dịch);

Thông tin: Đoàn Đình Ca (Việt Nam, hoa cô-pi-uê của Chile);

Văn: T.H.M. (Thơ của một người phiên dịch);

Tiểu thuyết: Nguyễn Khải (Chiến sĩ, trích);

Giới thiệu: Đào Xuân Quý (‘Những người của bãi biển Hiron’, của R. De Cascoro, bản dịch, Nxb. QĐND);

Phê bình: Khái Vinh (‘Vùng trời’, tiểu thuyết Hữu Mai);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (1/ Ông hoàng Liên Bạt);

Thơ đả kích: Đặc Công (Tổng chối bai bải), Trần Quốc Minh (Ních bom, bom Ních);

Nghệ thuật: Lê Quốc Lộc (Giới thiệu tập tranh ‘Việt Nam nhất định thắng’ của một họa sĩ Cuba); Từ Lương (‘Từ Trường Sơn’, vở diễn của đoàn kịch Hà Nội); Jane Fonda (‘Thắng lợi của các bạn là thắng lợi của chúng tôi’,- bài viết cho tuần báo ‘Văn nghệ’); Hải Âu (Jane, tôi nghe chị hát);

– Trong tháng 7: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 7/72 (s. 187):

Ký sự: Nguyễn Văn Chương (Trận đánh trên đồi 500);

Truyện: Chu Văn Mười (Mắt biển), Nguyễn Thiều Nam (Khúc sông);

Truyện ký: Hà Dương (Tấn công);

Thơ: Xuân Sách (Những ngọn cờ trong trận đánh), Huy Cận (Đêm nay; Đường giao liên của Lê Thị Hồng Gấm), Trinh Đường (Tuyến một), Quang Huy (Một khẩu súng và một màu xanh lá), Vũ Chấn Nam (Đến Nà Lừa), Trường Giang (Thư Hà Nội), Chu Thăng (Ga), Thúy Bắc (Dốc năm cô), Ngô Văn Phú (Những ngày xanh thần thánh);

Bình luận văn nghệ: Nguyễn Huệ Chi (Con đường thơ của Nguyễn Đình Chiểu, con đường không ngừng chiến đấu); Phan Cự Đệ (Hiện thực cách mạng miền Nam và sự phát triển của thể loại tiểu thuyết); Lê Đình Kỵ (Thử tìm hiểu sắc thái riêng của một số thơ ca cách mạng miền Nam); Ánh Kỳ (Vài nét về đoàn văn công Hải quân); VNQĐ (Vài nét tình hình 1971 của cuộc vận động ghi chép về đề tài chống Mỹ cứu nước); PV. (Cuộc thi thơ của tuần báo ‘Văn nghệ’); P.V. (Tin văn nghệ khắp nơi);

Tháng 8:

– Ngày 4: tuần báo Văn nghệ  s. 460:

Nguyễn Văn Bổng (Nguyễn Thái Bình, tuổi trẻ VN yêu nước trên bờ bên kia Thái Bình Dương);

Thơ: Bảo Định Giang (Bên những nghĩa sĩ Cần Giuộc vô danh), Phạm Hổ (Bài thơ về quả bom hồng), Nguyễn Văn Tâm (Ca ba Trường Sơn), Trần Mai Hương (Giếng nước dưới địa đạo), Bùi Nhị Lê (Hầm chữ A), Ngô Cẩn (Quả bom xuyên), Biên Thùy (Đêm hành quân), Hoài Anh (Niềm vui trong), Lương Sĩ Đoàn (Bức tượng mẹ Việt Nam), Trịnh Công Lộc (Đồi đất mỏ);

Truyện ngắn: Nguyễn Thành Long (Núi Đỗ Quyên);

Tiểu thuyết: Nguyễn Khải (Chiến sĩ, trích, tiếp);

Tiểu luận: Trương Chính (Hải Triều);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (2/ Đám cưới lạ lùng);

Văn thơ đả kích: Art Buchwald, Mỹ (Nước Mỹ thiếu bom, Đặng Hoài Phương dịch), Nguyễn Đình (Việt Thái Bình, Việt bất bình);

Nghệ thuật: Trần Văn Cẩn (Món quà nghệ thuật nhân 20/7 năm nay,- việc Hội VNGP tặng Hội LHVHNTVN và Hội mỹ thuật VN trên 200 bức tranh của các họa sĩ GP miền Nam);  Lê Quốc Lộc (Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh 80 tuổi); Trần Chung (‘Từ trận đầu đánh thắng’, phim về không quân, xưởng phim QĐ);

– Ngày 11: tuần báo Văn nghệ  s. 461:

Nghị luận: Nguyễn Xuân Khoát (Mỗi người một vị trí chiến đấu);

Bút ký: Dân Hồng (Mái gianh nho nhỏ);

Ghi chép: Trần Hữu Tòng (Xuất kích);

Tiểu thuyết: Nguyễn Khải (Chiến sĩ, trích, tiếp);

Thơ: Mai Thanh Thụ (Bài ca chiếc máy tăng âm), Anh Ngọc (Cây xấu hổ), Nguyễn Duy (Nhật ký Quảng Trị), Chế Lan Viên (Nghĩ về thơ, nghĩ về nghề, nghĩ…),  

Sổ tay người yêu thơ: Đào Bích Nguyên (Về bài ‘Đơn vị ngủ rừng theo đội hình đánh giặc’ của Nguyễn Đức Mậu);

Tiểu luận: Cao Huy Đỉnh (Đời sống, tiếng nói và thơ ca dân gian);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (3/ Ba người bạn, ba xu hướng);

Văn thơ đả kích: Vũ Tú Nam (Thời sự ‘địa ngục số 13’: Phẫn nộ), Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Gà rù vớ được mề-đay…), Nguyễn Đình (Con dê và thằng hèn), Phú Sơn (Cắm cờ…cắn mồ), Đặc Công (Đôn quân);

Vốn nghệ thuật dân tộc: Trần Mạnh Phú, Hà Chân (16/ bức chạm gỗ ‘Thuyền buồm’, thế kỷ XVII, đình Ngọc Canh, Vĩnh Tường, Vĩnh Phú);

Nghệ thuật: Nguyễn Văn Mười (Triển lãm hội họa miền Nam lần 8: Những nét mới trong tranh của các họa sĩ); Hoa Cương (Phim phóng sự ‘Quảng Trị ngày đầu giải phóng);

– Ngày 18: tuần báo Văn nghệ  s. 462:

Ký: Nguyễn Tuân (Lại tiếp tục đánh Mỹ nữa, Hà Nội ta càng đánh giỏi), Nguyễn Văn Bổng (Quảng Trị gần, Cà Mau gần), Hải Như (Hà Nội hoa và súng), Vũ Bão (Đất đầu sóng);

Hồi ký: Nguyên Hồng (Con đường đến trường học);

Truyện ngắn: Hoàng Quốc Hải (Tiếng ma-níp);

Thơ: Bế Kiến Quốc (Một giờ sáng), Thái Công Trung (Ra trận…), Trần Ninh Hồ (Bác đến), Phạm Hồng Nhật (Nhà máy trong rừng), Hoàng Trung Thủy (Câu chuyện nhỏ ở một trạm bưu điện), Bích Thảo Am (Chú bồ câu ra ràng), Khương Hữu Dụng (Đường tiên; Điều kỳ diệu; Nhớ Maiakovski);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Những bài thơ thế giới viết về Bác Hồ);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (4/ Khóc Phan Đình Phùng);

Văn thơ đả kích: Nguyễn Đình (Thiệu tự đào mồ), V.T.N. (‘Biên bản một cuộc họp báo ở Paris’);

Nghệ thuật: Nguyễn Chí Anh, Huy Thơ, VNGP (Quảng Trị giải phóng, qua ống kính những chiến sĩ nhiếp ảnh); Trương Tùng (Tuần phim Việt Nam ở Pháp); Hà Chân (Tập tranh đả kích Nixon);

– Ngày 25: tuần báo Văn nghệ  s. 463:

Truyện ngắn: Vũ Lê Mai (Mây đáy nước);

Thơ: Nguyễn Đức Mậu (Theo những con đường; Nơi em ở nhiều bom đến nỗi…; Nằm hầm; Lời đồng chí quay phim);

Bút ký: Ngô Ngọc Bội (Trở lại một vùng sau lũ lụt), Thái Võ (Đánh giặc giữ đê), Nguyễn Khoa Đăng (Ở trận địa pháo);

Trang thiếu nhi: truyện: Văn Thiên (Cây mướp đắng), E. Snegirev (Con bồ nông, Hoàng Anh dịch), thơ: Ngọc Chính (Cây dừa miền Nam), Phan Thị Thanh Nhàn (Làm anh);

Thông tin: Phùng Bảo Thạch (Qua việc đọc báo chí xuất bản ở Sài Gòn);

Phê bình: Nguyễn Xuân Nam (‘Và cây đời mãi mãi xanh tươi’ của Xuân Diệu);

Đọc sách: Vũ Ngọc Bình (‘Kỷ niệm ngày sinh’, tập văn của thiếu niên, Nxb. Kim Đồng);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (5/ Tự phân tích);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Chiến thuật chặn họng…);

Thơ vui: Hữu Tâm (Nhắn ông thạo tin … vớ vẩn);

Nghệ thuật: Tô Sanh ghi (‘Chúng tôi xây dựng nghệ thuật múa rối giải phóng’); Huy Hồng (Nghệ thuật múa rối và thiếu nhi); Huy Liên (Nhân xem những vở kịch gần đây về đề tài miền Nam);

– Trong tháng 8: tạp chí Tác phẩm mới  s. 20 (tháng 7&8/1972):

Ký sự: Đỗ Văn Thức (Trong khói súng);

Truyện ngắn: Vũ Thị Thường (Cái bi kịch của một ông chủ nhiệm), Hoàng Phủ Ngọc Tường (Như con sông từ nguồn ra biển);

Truyện dài Xuân Thiều (Thôn ven đường, trích);

Thơ: Hoàng Cát (Trà), Thanh Quế (Bám đất), Phạm Văn Ký (Đường về nước), Anh Thơ (Phòng hạnh phúc; Trận đầu), Lê Thị Mây (Khúc hát rừng; Rừng hoa trắng), Trần Đăng Khoa, 14 tuổi (Tiếng đàn bầu và đêm trăng; Câu cá; Hương đồng), Khương Hữu Dụng (Gửi Dostoievski; Gửi Nekrasov), Huy Cận (Những nét thư trên tường Hải Phòng; Cô khẩu đội trưởng pháo dân quân thổi sáo hay ở vùng biển An Thụy), Trường Giang (Tiếng đêm), Bế Kiến Quốc (Hồ Suối Hai), Đào Nguyên Bảo (Rét biên phòng), Xuân Đài (Bài ca thanh niên mở đường Trường Sơn), Võ Văn Trực (Máy cày về trên vùng chiêm trũng);

Tiểu luận: Xuân Diệu (Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu); Bùi Thanh Ba (Hiện thữ và trữ tình trong ‘Ngư Tiều vấn đáp’);

Phê bình: Huyền Kiêu (Phong cách viết người thực việc thực trong tiểu thuyết ‘Hoàng Văn Thụ’ của Tô Hoài);

Nói chuyện nghề nghiệp: Nguyễn Tuân (Đi, đọc để rồi viết);

Nhà văn và tác phẩm: Hữu Mai (Nói về công việc viết tập ‘Vùng trời’ của mình);

Tìm hiểu văn học tư sản phương Tây: Hoàng Trinh (Về trào lưu ‘phê bình mới’ hiện nay);  

– Trong tháng 8: Tạp chí Văn học  s. 4 (tháng 7&8/1972) (s. 136):

Kỷ niệm 150 năm sinh Nguyễn Đình Chiểu:

Hà Huy Giáp (Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn yêu nước chống xâm lăng, một tâm hồn vằng vặc nhân nghĩa, một tấm gương kiên trung và bất khuất);

Nguyễn Khánh Toàn (Nguyễn Đình Chiểu, nhà trí thức miền Nam yêu nước vĩ đại);

Vũ Đức Phúc (Mở rộng việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu);

Ca Văn Thỉnh (Truyền thống quật cường của Nam Bộ và Việt Nam với tinh thần đấu tranh của Nguyễn Đình Chiểu);

Cao Huy Đỉnh (Đồ Chiểu với sự chuyển mình của văn hóa dân tộc);

Nguyễn Quang Vinh (Truyện thơ ‘Lục Vân Tiên’ với văn hóa dân gian);

Nguyễn Văn Hoàn (Từ ‘Lục Vân Tiên’ đến ‘Dương Từ-Hà Mậu’);

Vũ Đình Liên (Từ nhân sinh quan đến thẩm mỹ quan của Nguyễn Đình Chiểu);

Trần Nghĩa (Mấy ý kiến về công tác văn bản nhân đọc cuốn ‘Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu’);

Thạch Phương (Nguyễn Đình Chiểu và những người cầm bút ở các thành thị miền Nam);

Nguyễn Đức Đàn (Chủ nghĩa nhân đạo và một số khuynh hướng văn học công khai trong vùng tạm bị chiếm miền Nam);

Phong Lê (Nguyễn Trung Thành và những trang về miền Nam đất lửa);

Nguyễn Huệ Chi (Tìm hiểu ‘Trích diễm thi tập’, bộ sách kết thúc một giai đoạn nghiên cứu sưu tầm thơ văn Lý-Trần);

Sinh hoạt văn học: P.V. (Mit-tinh trọng thế kỷ niệm 150 năm sinh Nguyễn Đình Chiểu); P.V. (UBKHXHVN và các hội nghị khoa học kỷ niệm 150 sinh Nguyễn Đình Chiểu); P.V. (Báo chí, đài phát thanh, các trường đại học kỷ niệm 150 sinh Nguyễn Đình Chiểu); Nhị Hoàng (Hai tấm bia tồn tại non 9 thế kỷ); P.V. (Tặng thưởng văn học đề tài công nhân 1969-71);

– Trong tháng 8: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 8/72 (s. 188):

Bút ký: Lê Quốc Minh (Vào trận), Vương Trí Nhàn (Sự tiếp xúc đầu tiên);

Truyện: Ma Văn Kháng (Một mùa hè đáng nhớ), Hoàng Gia Điền (Chuyện người thợ săn làng Sa Vân), Bùi Bình Thi (Người trên đỉnh đèo);

Thơ: Nguyễn Đức Mậu (Viết trong đêm đào hầm vây ép; Tiếng nói của đoàn trinh sát), Hữu Thỉnh (Ý nghĩ không vần; Chuyện bố con người thợ xây), Xuân Sơn (Ngọn tháp bên công sự), Phạm Phú Nhân (Nơi chân cầu), Vũ Dũng (Chuyện nhỏ Quảng Bình), Quang Hà (Tình bạn nơi chiến trường), Khuất Quang Thụy (Đi trên Trường Sơn);

Sinh hoạt văn nghệ: Mai Liên (Thơ từ chiến trường Trị Thiên của Nguyễn Khoa Điềm); Tất Thắng (Thành công bước đầu của một tác giả trẻ); Ngô Thảo (Đọc kịch ngắn bộ đội); Thùy Chi (Diễn viên và vai kịch); Phạm Ngọc Cảnh (Một vài ý kiến xem vở kịch ‘Đôi mắt’); P.V. (Tin văn nghệ khắp nơi);

– Ngày 30: buổi tối, Nhà xuất bản Kim Đồng và tuần báo Văn nghệ  họp mặt với các nhà văn nhà thơ: Nguyễn Văn Bổng, Tô Hoài, Phạm Hổ, Lê Minh, Vũ Tú Nam, Bùi Huy Phồn, Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông, Đào Vũ, … bàn luận về vấn đề: làm thế nào để có thêm nhiều sách hay sách đẹp cho các em? [4]

Tháng 9:

– Ngày 2: tuần báo Văn nghệ  s. 464:

Xã luận (2/9 nhìn lại); thơ: Đan Quế, cụ bà 80 tuổi (Nhớ Bác Hồ), hồi ức Gs. Trần Hữu Tước (Kỷ niệm về Bác, Hồng Thanh ghi);

Truyện ngắn: Ma Văn Kháng (Màu chàm xanh giản dị);

Thơ: Tế Hanh (Sông Đáy), Huy Cận (Ra khơi), Hà Phạm Phú (Đôi dép Bác Hồ), Hồ Minh Hà (Cây phong lan Trường Sơn), Nguyễn Trọng Tạo (Gửi bạn làm thợ rừng);

Ca dao: Hoàng Long (Hàn đê), Nguyễn Thị Kim Ngân (Mở đường), Nguyễn Ái Mộ (Hòn đá mồ côi), Phan Sa Kim (Dặn nhau), Phạm Đức Nghiệm (Gạch nung);

Phê bình: Hà Minh Đức (‘Ra trận’, khúc ca chiến đấu);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Không lực chống biểu tình…), Đặc Công (Ăn đạn, ăn xin);

Trích tạp chí ‘Thế hệ’ của sinh viên VN ở Canada: truyện ngắn: A. Laurinciukas (Làn ám khói chiến tranh, bản dịch), thơ: Phù Sa Phương (Quê hương tôi bây giờ);

Ký: Sara Lidman, Thụy Điển (Việt Nam: Hy vọng của một nhân loại mới);

Trang thơ thế giới về VN. (Xuân Diệu, Tế Hanh dịch): Christo Radevski, Bulgaria (Việt Nam), E. Evtushenko, LX. (Nhắn từ Việt Nam…), Lat-xi Xin-khô-nen, Phần Lan (Cái mặt xẻ đôi), A-ri-e Đê-ka, Israel (Nếu cây kể lại…);

Nghệ thuật: Phạm Kỳ Nam (Nhớ lại những ngày làm phim ‘Vài hình ảnh về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch’); Vĩnh An (Bác Hồ với vốn văn nghệ dân tộc); Nguyễn Phan Chánh kể (Về những bức tranh lụa của tôi);

– Ngày 4: buổi tối, Nhà xuất bản Kim Đồng họp mặt với các cây bút quê miền Nam: Thu Bồn, Nguyễn Văn Bổng, Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Giỏi, Lưu Quý Kỳ, Lâm Phương, Lê Khâm, Nguyễn Quang Sáng,… mời bàn luận thăm dò xem những loại sách nào của Nhà xuất bản Kim Đồng có thể đáp ứng nhu cầu của bạn đọc trẻ tuổi ở miền Nam.[5]

– Ngày 8: tuần báo Văn nghệ  s. 465:

Phóng sự: Trang Nghị (Trên những đoạn đường Nghệ An);

Truyện ngắn: Lý Biên Cương (Hồ quang), Xuân Toàn (Ở trọng điểm), Phan Duy Kha (Bà mẹ Nghệ Tĩnh);

Thơ: Lê Quang Miện (Từ Hải Phòng), Vũ Tuấn Nam (Trong ánh chớp bom), Nguyễn Đình Hồng (Việt Nam từ cửa biển này), Yên Đức (Sau lúc giao ca), Nguyễn Hùng (Khi những gương lò vắng gió), Đặng Hấn (Mùa bão mùa măng; Qua bãi nổi; Tâm sự người đi);

Đọc sách: Tôn Gia Ngân (‘Thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh’, Ninh Viết Giao sưu tầm, Hội VN Nghệ An xb.), Vũ Tú Nam (‘Dấu chân người lính’, tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu, Nxb. Thanh niên), Trịnh Xuân An (‘Hương cau hoa lim’, tập truyện Chu Văn, Nxb. Văn học);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (6/ Khứ quốc);

Văn thơ đả kích: V. T. N. (Một trăm bộ mặt của Richard Nixon), Hoa Lục Bình (Văn nghệ trong ‘thế giới tự do’: Âm nhạc thảm sầu của Sài Gòn), Trần Châu (Kỷ lục ‘lớn’ về hội họa Mỹ);

Điện ảnh: Đào Lê Bình (Ghi lại tội ác Nixon đánh đê);

Q.K. (Nixon qua báo chí Sài Gòn);

Nghệ thuật: Hoàng Vân (Về tập bài hát ‘Người là niềm tin tất thắng’); Trí Trung (Đào Mộng Long với vở kịch ‘Xâm lược’); Trung Hà (Những bức ảnh về vùng mỏ);

– Ngày 15: tuần báo Văn nghệ  s. 466:

Lê Khâm (Nhớ vùng núi Quế);

Truyện ngắn: Hoàng Văn Lương (Giọt mưa), Vũ Hương Giang, HS lớp 8 (Chuyện nhỏ nơi sơ tán);

Bút ký: Hồng Phi (Cửa khẩu vào mưa);

Thơ: Phạm Đức (Đỉnh cao; Rừng sau mưa; Em gái đánh mìn và tiếng mìn phá đá), Cẩm Thơ, HS lớp 6 (Em lại đi sơ tán), Trinh Đường (Cái hầm kỳ lạ; Bánh xe lăn), Xuân Quỳnh (Thơ dọc triền sông);

Sổ tay người yêu thơ: Đào Bích Nguyên (Học người trước);

Phê bình: Song Thành (‘Dấu chân người lính’, tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu), Hồ Sĩ Vịnh (‘Người trong trận’, tập thơ Hoàng Minh Châu);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (7/ Một bài thơ vui);

Văn thơ đả kích: Chu Hà (Hịch đánh Nich-xơn), Bách Lý (Một từ có lắm nghĩa nhất thế giới,- từ ‘Ních’), Văn Tương (Quá ngũ nguyệt hạ cửu tướng), Nguyễn Đình (Đường nào);

Nghệ thuật: Cao Nhị (Xem phim ‘Hải Phòng rực lửa căm thù’); Trần Mạnh Phú, Hà Chân (Hai tháng chưng bày chuyên đề ‘Điêu khắc gỗ dân gian VN thế kỷ XVI-XVIII’ tại Bản tàng Mỹ thuật, Hà Nội); T. L. (Thăm đoàn chèo trung ương);

– Ngày 22: tuần báo Văn nghệ  s. 467 (số Trung Thu 1972):

Thơ: Trần Đăng Khoa (Thư, thơ), Trần Văn An (Múa sư tử), Xuân Tửu (Con vịt), Vĩnh Mai (Con đại bàng của tôi), Định Hải (Mèo con và chuột nhắt, hoạt cảnh thơ), Vương Trọng (Địa chỉ của chú; Ao hợp tác), Nguyễn Như Mai (Con mắt), Thanh Tân (Chú đom đóm), Nguyễn Hữu Niên (Nắng điện), Vũ Ngọc Thạch (Thơm vườn);

Truyện ngắn: Bùi Hiển (Nhớ về một mùa thị chín và những tia lạc), Hồng Nhu (Gió vườn xào xạc);

Trích truyện Hà Khánh Linh (Chị em);

Trương Đình Bảng (Gđ. Nxb. Kim Đồng), Tô Hoài, Phạm Hổ, Vũ Tú Nam, Nguyễn Xuân Sanh, Đào Vũ, Nguyễn Văn Bổng (Để cho những tết trung thu ngày thêm tươi đẹp, - trích ý kiến trong các cuộc họp của Nxb. Kim Đồng với các nhà văn vào các ngày 3/8, 4/9, 5/9);

Đặng Thu Hương, Nguyễn Hồng Hải, Lê Hồng Mai, Đặng Đức Mai, Tôn Quang Toàn (Bạn đọc trẻ tuổi nói về sách Kim Đồng);

Trích hồi ức: I. Gagarin (Anh phi công dũng cảm); truyện ngắn: Albert Maltz, Mỹ (Gánh xiếc đến thành phố, Võ Ngọc Thạch dịch); thơ: Jaques Prévert, Pháp (Bài ca những con ốc sên đi đưa đám tang, Tế Hanh dịch);

Hà Chân (Tin vui: tại Paris, Pháp, vào tháng 10 tới sẽ có triển lãm tranh vẽ của thiếu nhi Hà Nội);

– Ngày 29: tuần báo Văn nghệ  s. 468:

Ký: Tô Hoài (Hà Nội của chúng ta như thế đấy!);

Ghi chép: Cao Cân (Câu chuyện một ngày chiến đấu);

Bút ký: Hoài An (Hơi thở của đất);

Truyện ngắn: Đỗ Kha (Ông già gác đường tàu);

Thơ: Lương An (Đất đỏ vùng Cùa), Mai Ngọc Thanh (Trên bãi bom B.52), Phạm Lê Văn (Phố thợ dệt), Đào Xuân Quý (Ai qua Phủ Lý), Nguyên Hồng (Ngày mai con nghĩ), Hoàng Nhuận Cầm (Anh bộ đội và tiếng nhạc la; Những câu thơ viết đợi mặt trời; Thư mùa thu; Nhật ký);

Đọc sách: Người Đọc Sách (‘Đánh mạnh thắng to’, Nxb. QĐND; ‘Bên hàng rào Tà Cơn’, kịch Chu Nghi, Xuân Đức, Hải Hồ, Nxb. QĐND; ‘Mũi nhọn đột kích’, tập truyện đường 9, Nxb. Giải phóng; ‘Lòng dân đô thị’, tập truyện, Nxb. QĐND; ‘Tiếng gọi thiêng liêng’, sưu tập những lời kêu gọi, hịch văn, tuyên bố của các thủ lĩnh trong lịch sử dân tộc, Nxb. QĐND);

Tiểu luận: Nguyễn Biểu (Mười lăm năm thơ cho thiếu nhi);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (8/ Khóc Đỗ Cơ Quang);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Trong tay cộng sản…), Phấn Đấu (Có phép);

Nghệ thuật: Nguyễn Trân (Giới thiệu ‘Bia căm thù giặc Mỹ’, đắp nổi của Trường Sinh); Nguyễn Trinh (Phim tài liệu ‘Thủ phạm là Nixon’ của xưởng phim thời sự tài liệu VN);

– Trong tháng 9: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 9/72 (s. 189):

Truyện: An Liên (Trận đầu của chiến sĩ lái xe tăng);

Truyện ngắn: Trần Ninh Hồ (Từ đấy sang đây và lá thư ngắn ngủi), Bút Ngữ (Người thương binh lành lặn), Đinh Văn Mậu (Tiếng nổ mở đầu trận đánh), Trần Thanh Giao (Trăng lưỡi liềm);

Kịch: Đồng Văn Thuyết (Củ ấu gai); 

Thơ: Phạm Tiến Duật (Bài thơ dưới nắng; Cái đèn nhắm mở), Quang Chuyền (Trong tầm pháo sáng), Nam Hà (Giản dị), Vương Trọng (Ga gần biên giới), Huyền Sâm (Xuống núi), Lâm Thị Mỹ Dạ (Cây buồm), Phạm Gia Đạt (Bếp lửa đèo mây), Nguyễn Văn Chương (Máu lửa thành phố);

Bình luận văn nghệ: Nông Quốc Chấn (Đọc hồi ký ‘Kỷ niệm Cứu quốc quân’ của đồng chí Chu Văn Tấn); Xuân Thiêm (Suy nghĩ về ‘Thơ người ra trận’); Trần Thức (Hình tượng người chiến sĩ võ trang nhân dân trong tranh tượng); Phạm Ngọc Cảnh (Suy nghĩ sau một chuyến đi); T. N. Q. (Tiếng nói, lời văn); P.V. (Tin văn nghệ khắp nơi);

Tháng 10:

– Ngày 6: tuần báo Văn nghệ  s. 469:

‘Những tiếng nói bạn bè từ trên đất Mỹ’: James Baldwin, Richard Ellmann, Kay Boyle, Mark Lane (Trích ý kiến chống chiến tranh của Mỹ ở VN);

Truyện ngắn: Bích Thuận (Bãi còng bãi cái), Cao Tiến Lê (Trong chiến hào);

Ký: Võ Huy Tâm (Buồng lửa), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Tiếng rây nước);

Thơ: Vân Long (Nơi trước kia là một phố đông dân), Đào Cảng (Những người đi cứu biển), Xuân Quỳnh (Những sự vật còn sống), Lưu Trọng Lư (Thủ đô, ngày chủ nhật), Yến Lan (Hà Nội đinh ninh), Lưu Quang Thuận (Đường con đi; Hương bồ kếp);

Ca dao: Nguyễn Thế Hội (Chiến sĩ nuôi quân; Tát nước);

Phê bình: Quan San (Đọc một số bài thơ chào mừng chiến thắng 1972); Tô Hoài (…Hà Nội, Nguyễn Tuân);

Thơ đả kích: Trần Trần (Hóa…họa), Phúc Tân (Sư đoàn thép … rỉ);

Thông tin: Hà Chân (Những bí mật trong các ngôi mộ Hán Trung Quốc); Trần Hữu Du (Giọng ‘lăm’ trầm bổng trên khu giải phóng Lào);

Nghệ thuật: Đinh Đăng Định (Nghĩ về những tấm ảnh gần đây);

– Ngày 13: tuần báo Văn nghệ  s. 470:

‘Những tiếng nói bạn bè từ trên đất Mỹ’: Haakon Chevalier, Nat Hentoff, S. N. Behrman, Denise Levertov (Trích ý kiến chống chiến tranh của Mỹ ở VN);

Truyện ngắn: Chu Văn Mười (Bến Bùn), Nguyễn Chí Trung, VNGP (Bão lớn);

Ký: Nguyễn Khắc Phê (Quanh một bến phà);

Thơ: Hoàng Phủ Ngọc Tường, miền Nam gửi ra (Ngủ dưới sao), Phạm Thế Mỹ, miền Nam gửi ra (Mùa thu nào lại tới), Y Linh, dân tộc Ê-đê, miền Nam gửi ra (Nó là con sên con vắt, Học Giới dịch), Thu Bồn (Hai hố bom), Trúc Thông (Mẹ dắt trân đạp lúa ban trưa), Nguyễn Hải Trừng (Chiều nay tôi đến thăm anh), Vương Thừa Việt (Từ một cổng trường ấy ta đi; Thư con), Cao Khắc Tưởng (Ngủ), Hồng Ba (Đầm Moong);

Phê bình: Phong Lan (‘Trong gió lửa’, tập thơ Hoàng Trung Thông); Đỗ Quang Hưng (‘Người đãi vàng’, tập truyện Lý Biên Cương);

Đọc sách Kim Đồng: Vũ Ngọc Bình (‘Tôi lên bảy’, truyện Bích Thuận; ‘Con mèo rét’, truyện Lê Minh), Trúc Thủy (‘Đi tìm ngọc’, truyện Trần Thanh Giao), Quan San (‘Người cá’, truyện dịch của  A. R. Belaev, LX.);

Sổ tay người yêu thơ: Đào Xuân Quý (‘Hãy sống lại, Walt Whitman’, thơ của một nhà thơ Ý viết về VN: Eduardo Gallegot Mancera);

Văn thơ đả kích: V.T.N. (Chuyện Mỹ-ngụy: Giôn-xơn nói có lý…), Đặc Công (Ních lại bán rao);

Nghệ thuật: Đức Dụ (Ở Trường Sơn, vẽ Trường Sơn); Trương Qua (Mấy vấn đề của phim hoạt họa); Phương Lịch (Đoàn cải lương Kim Phụng); Đông Phát (Đoàn chèo Hà Nội); Hà Chân (Lại nói thêm về nghệ thuật cổ trong mộ Hán Trung Quốc);

– Ngày 20: tuần báo Văn nghệ  s. 471:

Hội LHVHNTVN (Lời kêu gọi gửi các văn nghệ sĩ, nhà văn hóa trên thế giới);

Chính luận: Nguyễn Văn Bổng (Mùa khô đang đến, mùa của nắng ấm, của tương lai);

Thơ: Yến Lan (Bốn nghìn chiếc, em ơi), Ngô Văn Phú (Thằnng giặc lái rơi trên đồi đá sỏi), Tô Hà (Bạn tôi), Yên Đức (Hòn Gai của tôi), Vũ Ngọc Phác (Cống Phủ Lý), Lê Quang Vinh (Chiếc cầu trên đường độc đạo), Tường Lan (Người đồng hương);

Truyện ngắn: Chu Văn (Bố con người xạ thủ), Phạm Đức (Tình yêu cô tổng đài), Hoàng Tuyết Nhung (Hương lá);

Đọc các tập thơ văn chiến đấu: T.H.G. (‘Hát trong chiến hào’, thơ, nhiều tác giả, Nxb. Giải phóng), V.M. (‘Ngày hội tòng quân’, tập truyện, Nxb. Thanh niên), Trần Sang (‘Mùa xuân em tiễn anh đi’, ký sự về Hòa Xá của Hoàng Khắc Bá, Nxb. Thanh niên), Võ Hữu (‘Cửa khẩu’, tập ký sự của Thao Trường, Khuất Quang Thụy, Xuân Sách, Ngô Văn Phú, Nxb. QĐND);

Phê bình: Phương Lựu (Anh hùng, nghệ sĩ,… triết gia,- về tập tiểu luận ‘Anh hùng và nghệ sĩ’ của Vũ Khiêu);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (9/ Những cánh chim hồng bay từ viễn xứ);

Thơ đả kích: Đặc Công (Bom quá thông minh, Ních quá ngu), Linh Kha (Cánh cụp cánh xòe), Bút Trận (4.000 – con số chiến công);

Thơ: Felix Pita Rodroguez, Cuba (Không chỉ còn là riêng Việt Nam, Bùi Hồng Hải dịch);

Nghệ thuật: Phạm Ngọc Trương (Trưởng thành cùng nhân vật, - về nữ diễn viên điện ảnh Trà Giang); Đào Mộng Long (Mấy ý kiến về ca vọng cổ trên đài phát thanh);

 

– Ngày 25: các nhà thơ họp mặt tại báo Văn nghệ  trao đổi về một vấn đề: Thơ thời sự; đến dự có đông đảo anh em làm thơ viết văn trong cơ quan báo Văn nghệ và Hội nhà văn: Chế Lan Viên, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Xuân Miễn, Nguyễn Xuân Sanh, Yến Lan, Trinh Đường, Phạm Ngọc Cảnh, Văn Thảo Nguyên, Trần Nhật Lam, Bế Kiến Quốc, Nguyễn Đình Hồng,… Sau khi Nguyễn Văn Bổng thay mặt tòa soạn báo VN gợi vài ý kiến mở đầu, Chế Lan Viên nêu vấn đề: con người xưa kia có thể chỉ xúc cảm với khu vườn, ngọn núi của mình, con người của thế kỷ XX sống là sống với tổ quốc, nhân dân, với các dân tộc, với cả trái đất, ta sống cùng ánh nắng, tình yêu, nhưng cũng sống cùng thời sự; thơ thời sự là thơ chính thống cùng với các thứ thơ khác. Hoàng Trung Thông cho rằng: nói rộng ra, thơ nào cũng có tính chất thời sự, tính thời sự không hề làm mất tính nghệ thuật của thơ. Tế Hanh nhấn mạnh sự tích lũy từ bên trong của người cầm bút để khi có vấn đề thời sự xảy ra, thơ cũng sản sinh mà không hời hợt. Nguyễn Xuân Sanh nói thêm về “phong cách tư liệu” ngày càng được đẩy lên trong thơ, Yến Lan, Xuân Miễn nhận xét chất thời sự tiềm tàng trong thơ của ta. Nhiều ý kiến khác nêu kinh nghiệm, nhận xét, góp ý với tòa soạn Văn nghệ để kịp thời có nhiều thơ thời sự hay.[6]   

– Ngày 27: tuần báo Văn nghệ  s. 472:

Tế Hanh (Giới thiệu Nguyễn Dân Trung);

Thơ: Nguyễn Dân Trung (Sống trong mồ, trích), Đào Ngọc Chung (Người mẹ ấy), Trà Lý (Những ngôi sao của anh, những ngôi sao của em), Nguyễn Thị Hồng Ngát (Gửi người bạn cùng quê), Nguyễn Thị Hỏi (Đêm qua phà);

Ký: Trang Nghị (Sự diễn biến của một tội ác, - bom Mỹ đánh vào trường Đại học Xây dựng), Võ Huy Tâm (Cây cột vượt);

Ghi chép: Đặng Nhật Minh (Đêm thông đường);

Phê bình: Triêu Dương (Ông ‘Chủ tịch huyện’ của Nguyễn Khải); Trần Hữu Tá (Vài nét về những tên Mỹ xâm lược trong văn học vùng tạm chiếm miền Nam); Anh Ngọc (‘Vũ trung tùy bút’, bản dịch, Nxb. Văn học);

Sổ tay người yêu thơ: Trần Cư (Yêu thương và căm thù,- một bài ca dao mới);

Văn thơ đả kích: Vũ Tú Nam (’Thời sự địa ngục số 13’: Bi ca), Đặc Công (Cứ lồng lộn nữa đi);

Thơ: Blaga Dimitrova, Bulgaria (Đi sơ tán với nụ cười, Mai Thanh dịch);

Truyện ngắn: Mark Twain, Mỹ (Tranh cử thống đốc, Đắc Lê dịch);

Nghệ thuật: Sơn Ca, Mai Hiền (Tiếng đàn tiếng hát ra trận); Bùi Quang Ánh (Bộ đội hậu cần làm tranh in lưới); Yên Thế (Những tác giả phim ‘Đường về quê mẹ’ đang làm phim mới ‘Chùm hoa thiên lý’);

 

– Trong tháng 10: tạp chí Tác phẩm mới  s. 21 (tháng 9&10/1972):

Ghi chép: Bùi Bình Thi (Thấy ở Quảng Trị); Blaga Dimitrova, Bulgaria (Bầu trời dưới lòng đất, Nguyễn Chí Thành dịch);

Truyện ngắn: Trọng Hứa (Ngã tư); Nguyễn Khắc Viện (Bé Trâu đánh Cọp);

Thơ thế giới chống Mỹ với Việt Nam (Xuân Diệu dịch): I. Pruckowski, Ba Lan (Tặng người anh em Việt Nam), Mario Socrate, Ý (Chúng tao gọi là Việt Nam), F. Ô-véc-xti-gen, Hà Lan (Căm thù), Claud Sebastiens, Thụy Sĩ (Bản cáo trạng những tội ác ở Việt Nam), E. C. Valencia, Chile (Đám cháy), Gérard Guillame, Pháp (Thư viết từ Hà Nội);

Thơ: Nguyễn Nhã (Bác ở Tân Trào), Hoàng Tố Nguyên (Thoa, cô cấp dưỡng; Chất hợp kim; Nhật ký ngày mùa), Trần Nhật Lam (Với người anh hùng lái xe), Nguyễn Xuân Thâm (Tình dân), Phạm Thúy Hường (Bắt nắng; Hoa sim tím; Em trai tôi), Nguyễn Hoa (Màu xanh; Chiến sĩ và giàn bí; Mưa; Đợi thù; Chiếc lá), Đào Son (Điếu thuốc; Đứa con trong thư; Máu anh; Thành phố), Hoàng Minh Châu (Chùm thơ Hải Phòng);

Tiểu luận-phê bình: Trương Chính (Cha ông ta với nền văn học bằng ngôn ngữ dân tộc); Lê Đình Kỵ (Đọc ‘Suy nghĩ và bình luận’ của Chế Lan Viên); Nguyễn Đăng Mạnh (Cuộc đời cách mạng thật là sang!), Thạch Hãn (Thử phân tích một bài thơ bốn câu của Bác);

Nói chuyện nghề nghiệp: Chế Lan Viên (Sổ tay thơ); Tô Hoài (Cái truyện ngắn hay nhất);

Tìm hiểu văn học phương Tây: Hoàng Trinh (Sade và những người kế tục triết học Sade);

– Trong tháng 10: Tạp chí Văn học  s. 5 (tháng 9&10/1972) (s. 137):

Vũ Minh Tâm (Văn xuôi miền núi, một thắng lợi mới trong văn học các dân tộc thiểu số);

Văn Hồng (Một số ý kiến về truyện viết cho thiếu nhi);

Nhị Ca (Đóng góp của một mảng văn bộ đội);

Tất Thắng (Dành vị trí trung tâm của sân khấu cho những anh hùng của thời đại);

Hà Châu (Về đặc điểm thẩm mỹ của truyện cổ tích thần kỳ ở Việt Nam);

Đặng Văn Lung (Hò và lao động);

Trần Thị Băng Thanh (Một vài tìm tòi bước đầu về văn bản thơ văn Lý-Trần);

Lê Văn Uông, Vũ Ngọc Khánh (Bước đầu giới thiệu Nhữ Bá Sỹ);

Nguyễn Công Hoan (Về cuốn ‘Thơ văn Nguyễn Khuyến’);

Võ Quang Nhơn (Nền văn học truyền thống Lào);

Nguyễn Hải Hà (Hồ Chủ tịch và một số tác phẩm văn học Nga Xô-viết);

Lê Sơn (Mấy nét tình hình ngành nghiên cứu văn học Liên Xô phê phán chủ nghĩa cấu trúc);

Trao đổi ý kiến: Nam Mộc (Khắc phục tính phiến diện và tính siêu hình trong phương pháp nghiên cứu văn học); Nguyễn Minh (Điều cần chú ý trước hết trong khi vận dụng sáng tạo quan điểm thực tiễn của Lenin);  

– Trong tháng 10: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 10/72 (s. 190):

Văn: Hữu Mai (Ghi chép từ một sân bay); truyện ký Trần Đức Lợi (Xe vượt trận đầu); truyện ngắn Ngô Thực (Dáng núi), Vũ Bão (Chị tôi và em tôi); ghi chép Phạm Khắc Vinh (Người xóm than), Cao Cân (Chép trong thung lũng);

Thơ: Trần Trung Hiếu (Ở lại), Trúc Chi (Nói về một khẩu đội ngã ba sông), Nguyễn Trọng Tạo (Tổ phá bom trên đường Rú Trét), Vũ Quần Phương (Những ngôi nhà đất; Các cụ chép sách trong thư viện), Trần Nhương (Nắng), Võ Văn Trực (Lều trực chiến), Vũ Đình Văn (Đêm hành quân qua phà Long Đại), Trần Nhật Lam (Người dẫn đường), Phác Văn (Cảm xúc trên sân bay);

Sinh hoạt văn học: Lữ Huy Nguyên (Nhân đọc những cuốn lý luận phê bình xuất bản gần đây); Nguyễn Văn Hạnh (‘Chủ tịch huyện’ và nghệ thuật viết truyện của Nguyễn Khải); Anh Ngọc (Nghĩ về thơ ‘Dọc đường hành quân’); Ngô Bằng Vũ (Từ một vùng đất mới); Phạm Ngọc Trương (Trước ống kính: Cuộc chiến đấu tất thắng); Trần Mạnh Phú, Nguyễn Trân (Tính lạc quan chiến đấu, tinh thần thượng võ của nhân dân Việt Nam trong điêu khắc gỗ dân gian); P.V. (Tin văn nghệ khắp nơi);

Tháng 11:

– Ngày 3: tuần báo Văn nghệ  s. 473:

Hưởng ứng tuyên bố ngày 26/10 của Chính phủ VNDCCH: Chế Lan Viên (Tuyên bố của mỗi lòng người, khẩu súng, cành hoa, thơ), Thanh Tịnh (Nắng lửa giữa trưa đông, thơ), Vĩnh Mai (Đất nước Việt Nam này, thơ);  Nguyễn Đình Thi, Trần Văn Cẩn, Kính Dân, Đỗ Nhuận, Diệp Minh Châu, Võ Anh Ninh, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, Hồ Phương (Ý kiến hưởng ứng);

Thơ: Gia Ninh (Mặt đất này), Huy Cận (Phỏng vấn người lính Mỹ phản chiến), Mai Quỳnh Nam (Câu chuyện với người mẹ Campuchia), Hướng Dương (Giữa hai trận đánh; Mía; Trái bom không nổ), Lữ Huy Nguyên (Vào Bắc Sơn; Làn chèo quê);

Truyện ngắn: Bùi Bình Thi (Miền đồi tranh hoang vu);

P.V. (Thơ nóng bỏng với thời sự,- tường thuật thảo luận về thơ ngày 25/10/1972 tại báo ‘Văn nghệ’);

Sổ tay người yêu thơ: Kaisyn Kuliev, LX. (Thơ đạt tới niềm vui, Nhị Ca dịch);

Đọc sách: Thiếu Mai (‘Từ đất này’, tập thơ Lưu Trọng Lư), Nguyễn Pha (‘Chuyện nhỏ giữa rừng’ của Hải Hồ);

Điểm sách: Nguyễn Pha (‘Truyền thống phụ nữ VN’, Nxb. Phụ nữ), T.K. (‘Dâu hiền trăm họ’, thơ Trinh Đường, Nguyễn Đình, Nxb. Phụ nữ);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Về Nguyễn Thông: 1/ Mộ chí hay là một thiên tự truyện);

Thơ đả kích: Bút Trận (Hãy ký mau mà cút thẳng), Búa Tạ (Chữ ký);

Truyện ngắn: B. Polevoi (Chuyện cổ tích, Đặng Ngọc Long dịch), thơ A. Nikolaev (Con suối Lenin, Thúy Toàn dịch);

Nghệ thuật: Nguyễn Trân (Ba công trình nghệ thuật ghi tội ác Hitler và chiến công giữ nước của Liên Xô); Lê Thi (‘Xôm Ôcun!’ -ghi lại những ngày làm phim trong vùng giải phóng Campuchia);

– Ngày 10: tuần báo Văn nghệ  s. 474:

Quan San (Tiếng nói chống chiến tranh của văn học Mỹ,- tường thuật buổi nói chuyện của Ts. Muriel Rukeyser tại Hà Nội ngày 2/11/1972);

Nguyên Hồng (Nhiệt liệt hưởng ứng lời tuyên bố ngày 26/10 của Chính phủ ta);

Văn: Denise Livertov (…Ở đây là hương thơm của cuộc sống, - viết riêng cho VN);

Thơ: Muriel Rukeyser (Đọc ‘Truyện Kiều’, Tế Hanh dịch), Denise Levertov (Khoảng cách, N.V.V. dịch);

Truyện ngắn: Triều Dương (Phía núi bên kia), Huy Phương (Hạ thủ tên giặc trời nguy hiểm);

Phóng sự: Nguyễn Thị Ngọc Tú (Ánh sáng trắng);

Thơ: Xuân Miễn (Cái mạnh của xe; Đêm nổi dậy), Phan Xuân Hạt (Ngã ba không có ngã ba), Lê Đình Cánh (Lần đầu phá bom từ trường; Một mình anh đi), Anh Ngọc (Mưa trên mái tôn; Lúa chiêm ở Cùa), Trần Nhương (Tiễn chân em dưới vòm trời Vĩnh Linh), Nguyễn Lê (Những người thợ cầu), Lý Biên Cương (Đồng muối);

Ban sơ khảo (Thông báo về cuộc thi thơ);

Phê bình: Hồ Tuấn Niêm (‘Sáng thơ’, tập thơ Nguyễn Xuân Sanh), Khái Vinh (Tập truyện ‘Tôi là người thợ’ của Lưu Nghiệp Quỳnh);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Về Nguyễn Thông: 2/ Thiếu quê hương);

Văn thơ đả kích: V.T.N. (Chuyện Mỹ-ngụy: Thiệu vất vả…), Đặc Công (Giấu sao nổi mặt sói), Bút Trận (Ních bầu cho ai?);

Nghệ thuật: Duy Minh (Xem triển lãm lưu động tranh đả kích); Hoàng Châu Ký (Mấy ý kiến về đào tạo diễn viên sân khấu); Nguyễn Huy Hoàng (Ảnh tố cáo tội ác giặc Mỹ);

– Ngày 17: tuần báo Văn nghệ  s. 475:

Truyện ngắn: Lê Hữu Thuấn (Phương án thứ hai);

Ký: Bùi Công Bính (Lúa Quảng Nạp), Trần Ngọc Thanh (Những dòng chữ đầu tiên);

Thơ: Anh Chi (Từ lao động; Hát), Phạm Doanh (Công nghiệp về; Tuổi thọ công trình);

Thơ của tuổi trẻ đô thị miền Nam: Hàm Phế (Anh xin được chối từ), Nguyễn Kim Ngân (Người mẹ Bàn Cờ), Cửu Long (Trại giải trí Walton), Đam San (Bài học quê hương), Trần Quang Long (Huế ơi), Lê Văn Ngăn (Sông vẫn đập vào eo biển);

Sổ tay người yêu thơ: Vũ Tú Nam (Hoa và người);

Tiểu luận: Nguyễn Đức Nam (Khuynh hướng trí tuệ trong văn học tiến bộ ngày nay trên thế giới); Mai Anh (Một ít thơ của tuổi trẻ đô thị miền Nam);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Về Nguyễn Thông: 3/ Ca khúc người Yên Triệu);

Văn thơ đả kích: Vũ Tú Nam (Thời sự ‘địa ngục số 13’: Thú-người và người-thú hay là vũ hội hóa trang), Búa Tạ (Danh dự của tổng Ních), Văn Luyến (Trò cờ xí), Bút Trận (Bạc giả lòng gian);

Nghệ thuật: Lưu Trọng Lư (Từ bài thơ đến vở kịch thơ); Phạm Ngọc Linh (Chúng tôi vẫn tiếp tục học tập và vẽ tranh); Đinh Quang Thành (Triển lãm ảnh thời sự nghệ thuật tại Nam Hà);

– Ngày 24: tuần báo Văn nghệ  s. 476:

Trang thơ miền Nam gửi ra: Trần Vũ Mai (Khu Năm), Thanh Quế (Những ngày này không thể nào quên), Hà Phan Thiết (Tên em khuôn mặt em), Nguyễn Chí Hiếu (Đôi chân), Liên Nam (Từ trên Dốc Miếu);

Sổ tay người yêu thơ: Định Nguyễn (‘Con gà đất, cây kèn và khẩu súng’ của Nguyễn Khoa Điềm);

Truyện: Nguyễn Sáng (Cái áo thằng hình rơm, trích);

Truyện ngắn: Mai Văn Tạo (Dưới lớp tro);

Kịch: Nguyễn Vũ (Tình ca);

Phê bình: Lưu Liên (‘Giữa trong xanh’, tập truyện ngắn Nguyễn Thành Long);

Điểm sách: T.M.H. (‘Đồng bằng Cửu Long nổi dậy mạnh mẽ’, Nxb. QĐND), Vũ Mai (‘Miền đông Nam Bộ-Sài Gòn’, Nxb. Quân giải phóng), N.Đ.S. (Sách mới ở các địa phương: ‘Những ngày đất nước hôm nay’, Hội VN Quảng Bình; ‘Thức với miền Nam’, Nxb. Việt Bắc; ‘Đường ra trận’, ‘Cô gái vùng lúa xuân’, ‘Đánh giặc giữ đê’, Hội VN Thái Bình; ‘Ca dao Ninh Bình’, Ty VH Ninh Bình);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Về Nguyễn Thông: 4/ Chuyện văn chương);

Thơ đả kích: Đặc Công (Cắm cờ), Hữu Tâm (Ngỡ rằng thầy quý thầy thương), Đồ Phồn (Lại bàn về chuyện … cái đuôi);

Thơ: Si-ghê-zi Chư-bô-i, Nhật (Cửa; Hát; Ống nhòm, Nguyễn Quý Quý dịch);

Nghệ thuật: Nguyễn Trân (Đồng bằng sông Cửu Long dưới bút vẽ tươi trẻ của Nguyễn Thanh Châu, Phạm Đỗ Đồng); X.T. (Những buổi diễn dưới bom của đoàn văn công Quảng Trị); P.V. (Ghi nhanh về đoàn làm phim ‘Vĩ tuyến 17’ và ‘Độ dốc’);

 

– Trong tháng 11: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 11/72 (s. 191):

Truyện: Cao Tiến Lê (Tốc độ), Đỗ Chu (Đám cháy trước mặt);

Ghi chép: Vương Trí Nhàn (Hình ảnh người Mỹ, hình ảnh nước Mỹ trên đất Quảng Trị), Như Hà (Mùa bắn súng);

Truyện ký: Sơn Phong (Đôi bạn);

Thơ: Tế Hanh (Gửi Quảng Nam-Đà Nẵng), Nguyễn Văn Dinh (Lời thơ trên võng), Hoài Anh (Bức tượng đài nhà máy), Hoàng Cát (Hành quân vượt thác ông Keo), Liên Nam (Ngã ba trọng điểm), Văn Thảo Nguyên (Bến đò yên tĩnh; Qua đất Trung Giang), Hoàng Phụng Sơn (Từ một bãi sông xa), Cao Minh Trai (Sức sống mùa hè), Phạm Ngọc Cảnh (Giấc ngủ);

Bình luận văn nghệ: Nhị Ca (Cuộc sống kêu gọi qua một tập thơ ‘Ra trận’); Trần Cư (‘Vùng trời’, một bước tiến đáng kể của Hữu Mai); Lê Nhật (Cái riêng cái chung trong thơ); Ngô Thảo (Lại gặp các diễn viên); P.V. (Tin văn nghệ khắp nơi); 

Tháng 12:

– Ngày 1: tuần báo Văn nghệ  s. 477:

P.V. (Đối thoại trong tình hữu nghị,- gặp gỡ đoàn nhân sĩ CHLB Đức), Chế Lan Viên (Đối thoại mới về câu chuyện cổ, thơ), Dorothy D. Stefanski (Một sự so sánh, Tế Hanh dịch);

Thơ: Nguyễn Dân Trung (Phải chặn ngay bàn tay tội ác), Lê Duy Phương (Nơi dấu xe), Nguyễn Khắc Thái (Ngã tư B. 52), Duy Phi (Bài ca trên những chiếc guồng), Nguyễn Cảnh Tuấn (Tổ cày chúng tôi), Biển Hồ (Mít Thanh Chương), Vũ Duy Thông (Tiếng ru);

Sổ tay người yêu thơ: Đào Bích Nguyên (Các nhà hoạt động sân khấu nói về thơ);  

Truyện ngắn: Sỹ Hồng (Điều giản dị);

Truyện: Nguyễn Sáng (Cái áo thằng hình rơm, trích, tiếp);

Trang thiếu nhi: truyện Vũ Tú Nam (Cái đồng hồ), Đỗ Chu (Bạn mới), thơ Chu Hồng Quý (Em yêu phù sa sông Hồng); thông tin: Phan Huy (Hai bức tranh được giải thưởng của báo ‘San-ca’ Ấn Độ,- tranh của Đặng Mai Hương, 8 tuổi, Nguyễn Bích Ngọc, 10 tuổi); VN (Triển lãm tranh thiếu nhi VN tại Pháp);

Tiểu luận: Tô Hoài (Phong trào văn nghệ ở Thanh Hóa);

Đọc sách: Võ Hữu (‘Đất ta dậy rồi’, tập truyện Đào Vũ, Nxb. Phổ thông);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Về Nguyễn Thông: 5/ Không phải chỉ là chuyện văn chương);

Thơ đả kích: Đặc Công (Danh dự gì?), Phú Sơn (Dài lưỡi ngắn tay), Búa Tạ (Cũng là một cha), Sông Ba (Tài nói phét của đài Huê Kỳ);

Nghệ thuật: Ngọc Cầu (Thủ pháp ước lệ và kịch nói); Công Vũ (‘Người Vân Kiều’, phim thời sự tài liệu);

– Ngày 8: tuần báo Văn nghệ  s. 478:

Truyện ngắn: Nguyễn Phan Hách (Vợ chồng chị đội trưởng);

Truyện: Nguyễn Sáng (Cái áo thằng hình rơm, trích, tiếp);

Bút ký: Phượng Vũ (Dũng sĩ 10 tấn), Thanh Châu (Một chặng đường);

Thơ: Cảnh Trà (Cơn bão vào mũi Trèo; Mẹ địu con đi), Trần Nhật Thu (Bám trụ; Tiếng gọi nhau sau trận bom B.52; Ngủ hầm), Huy Cận (Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa), Trần Hữu Thung (Bến Thủy), Văn Thảo Nguyên (Tháng tư), Trần Nhật Lam (Người bạn thân của Thái Văn A);

Nói chuyện ngôn ngữ: Hoàng Tuệ (Ngữ pháp và phong cách);

Đọc sách: Xuân Tùng (‘Đường lửa mùa xuân’, tập truyện, nhiều tác giả, Nxb. Văn học); Thiếu Mai (‘Ra tiền tuyến’, tập thơ, nhiều tác giả, Nxb. Thanh niên);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Về Nguyễn Thông: 6/ Mối tình Nam Bắc);

Văn thơ đả kích: Người Du Kích (Chuyện Mỹ-ngụy: Phá công thức…), Bút Trận (Cộng hòa vạn vạn tuế!), Châm Ngôn (Mỹ về, Thiệu níu);

Nghệ thuật: Trương Vân Quyền (Kịch hát bài chòi tại vùng giải phóng miền nam Trung Bộ); Phạm Kỳ Nam (Phim ‘Không nơi ẩn nấp’ với thể loại phim an ninh);

– Ngày 15: tuần báo Văn nghệ  s. 479:

N.V.B. (Một bản nhạc, một bức vẽ, một bài báo, - về bản nhạc ‘Hận Côn Nôn’, bức vẽ của Bửu Chỉ, bài báo viết về Bửu Chỉ, họa sĩ ở Huế);

Thơ: Dương Hương Ly (Cơn bão lớn của nhân dân vô địch), Trần Dương (Trưa rừng Trường Sơn), Triệu Nguyễn (Ở đâu tôi cũng gặp em; Buổi sớm ở mục trường), Nguyễn Trọng Tuất (Đường ngầm; Đêm), Phan Nghĩa An (Ngọn lửa những làng vùng cao miền Trung);

Truyện ngắn: Trần Mai Hạnh (Nắng Thu Bồn), Minh Lợi (Phong lan rừng cháy);

Sổ tay người yêu thơ: Trà Lê (‘Cấy đêm’, của Lê Anh Xuân);

Tiểu luận: Từ Sơn, VNGP (Suy nghĩ về một vài khía cạnh làm nên chiều sâu của tác phẩm,- qua một số tập văn xuôi ở vùng giải phóng miền Nam);

Đọc sách: Quan San (‘Nổi dậy Nguyễn Thái Bình’, Nxb. Thanh niên);

Tư liệu văn học: Lê Thước, Trương Chính (Về Nguyễn Thông: 7/ Bị tội vì không chịu ‘làm tiền’ dân);

Nói chuyện ngôn ngữ: Trương Quân (Không phải chuyện vặt);

Văn thơ đả kích: Đặc Công (Ông Ma-lích, ông ma gì?), Lâm Đồng (Trong ‘thế giới tự do’: Lừa đảo);

Truyện ngắn: V. Baratashvili, LX. (Lối sống của những người ở phố Spreck, Mai Nhi dịch);

Nghệ thuật: N.T. (Từ chiếc máy Kodak 16 ly đầu tiên…- về Mai Lộc); Đoàn Minh Tuấn (Về những thước phim chiến thắng của Phạm Khắc); Nguyễn Văn (Mấy hiện tượng trong âm nhạc thế giới tư bản hiện nay);

 

– Ngày 22: tuần báo Văn nghệ  s. 480:

Ký: Đoàn Giỏi (Mùa thu thăm một vài nơi kỷ niệm), Ngô Văn Phú (Một trận đánh bờ phía nam sông Mỹ Chánh);

Truyện ngắn: Huỳnh Tâm Trí (Hoa trên đồi cát);

Thơ: Lương An (Hỏi đường đến Hồng Trường), Tế Hanh (Mùa thu Yanta), Phạm Khoa Văn (Giờ học binh khí súng trường), Nguyễn Trung Thu (Đường dây vượt đỉnh Ta Păng), Bùi Công Bính (Một vùng quê đất nước);

Giới thiệu: Thanh Lộc (‘Mùa hè kỳ lạ’ của K. Fedin, bản dịch, Nxb. Văn học);

Phê bình: Phan Cự Đệ (Về những tiểu thuyết chống Mỹ gần đây của các nhà văn quân đội);

Nói chuyện ngôn ngữ: Trương Quân (Viết hoa, dấu nối);

Thơ đả kích: Nguyễn Đình (Giáng đòn chí tử), Đặc Công (Ì cũng không xong);

Thơ: Hertor de Artura, Cuba (Vấn đề giờ đây không phải chỉ của Việt Nam, Mạnh Tứ dịch);

Thơ Liên Xô (Xuân Diệu dịch): Grigore Vieru (Những bàn tay…), M. Isakovski (Tiếng phong cầm ai đó…), M. Shevchenko (Những kẻ đi xâm lược);

Nghệ thuật: Mai Thúc Luân (Từ một điều suy nghĩ của Lenin,- về điện ảnh Liên Xô với Việt Nam); Trung Sơn (Giây phút bấm máy,- về bức ảnh ‘Chiếm căn cứ Đầu Mầu’ của Đoàn Công Tính, Huy chương vàng quốc tế ‘Ảnh thời sự 1972’ tại Sofia, Bulgaria); Đức Dụ (Vẽ ở một tiểu đội công binh ‘trọng điểm’);

– Trong tháng 12: tạp chí Tác phẩm mới  s. 22 (tháng 11&12/1972):

Truyện: Nguyễn Sáng (Cái áo thằng hình rơm, trích);

Truyện ngắn: Quốc Trụ (Chẽ sông), Lê Văn Thảo (Chuyện một cô thanh niên xung phong);

Tùy bút: Lưu Trọng Lư (Những bước đi, - đôi nét tự truyện về những bước đầu sáng tác);

Thơ từ hải ngoại: Võ Quế (Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa), Nguyễn Kim Ngân (Quê nhà; Lá thư lửa), Nguyễn Thạch Lan (Đứa bé và ổ bánh mỳ buổi sáng), Nguyễn Thị Hồng (Lời chim), Nguyễn Nam Trân (Biển);

Thơ: Hữu Thỉnh (Câu cá bên bờ sông Sê-pôn; Qua sông; Đồng chí chở đò trên sông Ta-lê; Sau trận đánh), Xuân Quỳnh (Thành phố ở ngoại ô), Trần Thanh Địch (Sân; Chuyện con ễnh ương; Đôi tai mèo), Nguyễn Thanh Châu (Xe tăng qua cầu; Đường ta xây), Hải Lê (Người em gái; Những giọt máu);

Chùm thơ Bangladesh (Đào Xuân Quý phỏng dịch qua tiếng Pháp): Omar Ali (Dũng cảm), De Vavrata Chow Dhung (Người thành phố), Coolam Sarovar (Hãy đứng dậy), Al. Mahmad (Chiếc khuyên vàng), Al. Mahmud (Con sông xưa), Sukumar Barua (Mở cửa ra, Sesame), Nirmalendu Gun (Trở về, trích);   

Tiểu luận-phê bình: Tô Hoài (Nguyễn Thành Long, cây truyện ngắn); Phan Hồng Giang (Vài nhận xét về phong cách Nguyễn Khải qua ‘Chủ tịch huyện’); Nguyễn Đăng Mạnh (Tiếng hát của thời đại);

Nói chuyện nghề nghiệp: Xuân Trình (Suy nghĩ sau một chuyến đi); Huy Phương (Viết về người công nhân trong nhà máy);

Vốn cổ: Trương Chính (Bài thơ tuyệt mệnh của Nguyễn Cao);

Tìm hiểu văn học tư sản phương Tây: Hoàng Trinh (Nền ‘văn học sẽ đến’ và nền văn học đang đến);

– Trong tháng 12: Tạp chí Văn học  s. 6 (tháng 11&12/1972) (s. 138):

Phan Nhật (Tìm hiểu ‘Thạch Sanh’ ở Cao Bình, Hòa An, Cao Bằng);

Vũ Tố Hảo (Hình tượng Chàng Lía qua một số tư liệu thành văn và truyền miệng);

Phong Châu (Bàn về vấn đề văn bản truyện cổ dân gian Việt Nam);

Bùi Văn Nguyên (Mấy vấn đề cần được xác minh thêm trong văn thơ Nguyễn Trãi);

Triêu Dương (Về cuốn ‘Thơ văn Nguyễn Khuyến’ và bài tiểu luận của Xuân Diệu);

Lê Sơn (Sự phát triển của nền văn học nhiều dân tộc Xô-viết);

Trần Trọng Đăng Đàn (Từ lai lịch một vài truyện ngắn, suy nghĩ về mối liên quan giữa sự thực ngoài đời và hư cấu nghệ thuật trong truyện);

Đông Hoài (Để đảm bảo tính thực tiễn và tính chiến đấu của lý luận phê bình nghiên cứu văn học);

Phong Lê (Chung quanh vấn đề ‘Vỡ bờ’);

Trao đổi ý kiến: Vũ Tuấn Anh (Mối quan hệ giữa động cơ sáng tác của nhà văn và hiệu quả của tác phẩm,- Giá trị tác phẩm văn học ở khâu tiếp thu của người đọc); Nguyễn Văn Hạnh (Một số điểm cần nói rõ thêm về vấn đề nghiên cứu văn học);

Đọc sách: Thành Duy (Đọc ‘Anh hùng và nghệ sĩ’ của Vũ Khiêu);

Sinh hoạt văn học: P.V. (Hội LHVHNTVN kêu gọi văn nghệ sĩ, nhà văn hóa thế giới lên án Mỹ ném bom VN); P.V. (Về dự kiến tặng thưởng văn học 1955-72 của Hội nhà văn VN); L.B. (‘Tạp chí Văn học’ trong 12 ngày Hà Nội bị máy bay B 52 Mỹ ném bom);

– Trong tháng 12: tạp chí Văn nghệ quân đội  s. 12/72 (s. 192):

Văn: truyện Tô Đức Chiêu (Chớp xanh); ký sự Minh Lợi (Vùng sóng đỏ); ghi chép Văn Thảo Nguyên (Về một vùng cát); truyện ngắn Trần Quốc Khải (Việc xảy ra ở một bến phà);

Thơ: Nghiêm Sĩ Thái (Đêm đồng bằng), Doãn Yến (Trận địa Lê Cảnh Hai), Quảng Hà (Người con gái ấy), Vũ Đình Văn (Gặp lại; Trận địa ở Tây Trạch; Lán trong rừng), Nguyễn Hoa (Tôi trở thành đồng đội), Vũ Đình Vinh
(Khoảng trời ấy), Hoàng Bình Trọng (Người địa chất đi bộ đội), Từ Nguyên Tĩnh (Thơ trên bích báo), Phạm Đức (Quảng trị đất hồ tiêu);

Sinh hoạt văn học: Nguyễn Đăng Mạnh (Vài suy nghĩ nhỏ về đội ngũ phê bình văn học hiện nay); Ngô Thảo (Mấy suy nghĩ về truyện anh hùng); Vương Trí Nhàn (Sau một ít bài viết buổi đầu); Nguyễn Long (Hình ảnh người chiến sĩ võ trang trong ảnh nghệ thuật quân đội); P.V. (Tin văn nghệ khắp nơi);

Trong năm 1972 đã xuất bản:

TIỂU THUYẾT, TRUYỆN

Bên dòng Păng-pơi (truyện) Trần Hữu Tòng (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Chủ tịch huyện (truyện) Nguyễn Khải (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Chỗ gặp nhau (tập truyện ngắn) Trần Công Tấn (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Chuyến xe ra (tập truyện ngắn) Nguyễn Kiên (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Chuyện bên sông nhỏ (tập truyện) Đỗ Thị Thu Hiền, Hữu Mai, Ngọc Dĩnh,.... (Nam Hà: Ban vận động sáng tác văn học 27-7 Nam Hà xb., 1972)

Chuyện ở xóm Lèn (truyện) Quang Huy (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Con của Pú Hồ (tập truyện) Mai Thanh, Đào Quang Thép, Trúc Hà,... (H.: Thanh niên, 1972)

Dấu chân người lính  (tiểu thuyết) Nguyễn Minh Châu (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Dòng sông  (tập truyện ngắn) Đỗ Bảo Châu  (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Dòng sông phía trước  (tiểu thuyết) Mai Ngữ (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Đêm Tháp Mười  (tập truyện ngắn) Lê Văn Thảo (Kđ. : Nxb. Giải phóng, 1972)

Điểm cao (tập truyện) Mai Ngữ (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Đỉnh cao người thợ (tập truyện và ký) Đoàn Trúc Quỳnh, Xuân Cang, Ngọc Thạch,...  (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Đồng tro  (tập truyện ngắn) Đinh Quang Nhã (Kđ: Nxb. Giải phóng, 1972)

Giữa trong xanh (tập truyện ngắn) Nguyễn Thành Long (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Hoa và thép (tập truyện ngắn) Bùi Hiển (H.: Nxb. Văn học, 1972) 

– Khi có một mặt trời  (truyện) Hồ Phương (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Lá thư Ấp Bắc (tập truyện và ký) Võ Trần Nhã (Kđ: Nxb. Giải phóng, 1972)
Mặt biển mặt trận (tập truyện và ký) Chu Cẩm Phong (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1972)

Mẫn và tôi  (tiểu thuyết) Phan Tứ (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Một nhà (tập truyện ngắn) Trần Dũng, Nhật Tuấn (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Mùa mận hậu (tập truyện ngắn) Ma Văn Kháng (H.: Nxb. Phổ thông, 1972)

Nắng  (tiểu thuyết) Nguyễn Thế Phương (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Người đãi vàng (tập truyện ngắn) Lý Biên Cương (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Người ven thành  (ký và truyện) Tô Hoài (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Những người mở đường (truyện) Vũ Hữu Ái (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Ở một cung đường (tiểu thuyết) Xuân Sách (H.: Nxb. Phụ nữ, 1972)

Ở thành phố bờ biển (tập truyện) Nguyễn Thị Như Trang (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Phía mặt trời (tập truyện) Lê Lựu (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Rể làng Hà (tập truyện ngắn) Đặng Ái Sơn, Hữu Tâm, Thạch Anh, ... (Thanh Hoá: Hội văn nghệ Thanh Hoá xb., 1972)

Tầng sâu đất nước (tập truyện) Xuân Toàn, Hoàng Quốc Hải, Vương Hồng,....  (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Tiếng nói của biển (tập truyện ngắn) Nguyên Hồng, Vũ Hữu Ái, Nguyễn Văn Chuông,...  (Hải Phòng: Hội văn nghệ Hải Phòng xb., 1972)

Tổ quốc kêu gọi  (tiểu thuyết lịch sử) Hà Ân (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Tôi là người thợ (tập truyện ngắn) Lưu Nghiệp Quỳnh (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Trái cam  (tập truyện và ký) Bùi Huy Phồn (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Trong làng nhỏ (tập truyện ngắn) Nguyễn Kiên, Lê Lựu, Nguyễn Phan Hách, Triều Dương, Tuấn Vinh  (H.: Nxb. Phụ nữ, 1972)

Truyện ngắn được giải báo ‘Văn nghệ’ 1970-1971 (tập truyện) Tô Ngọc Hiến, Lê Khánh, Triều Dương, Trần Ninh Hồ, Bùi Bình Thi, … (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Vuông cỏ (tập truyện ngắn) Nguyễn Thành Long (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Vũ khí xung trận của tôi  (tập truyện) Trần Quốc Khải, Ngô Văn Phú, Hồng Nhu, Văn Tùng (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Vùng trời, t. 1 (tiểu thuyết) Hữu Mai (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Vườn mai  (truyện) Ngô Văn Phú (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

TÁC PHẨM THỂ KÝ

Ánh lửa niềm tin (tập hồi ký của công nhân trong kháng chiến) Nguyễn Truyền, Chu Thăng, Trần Văn Mão (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Bầy cọp núi (truyện chống biệt kích) Trần Hữu Tòng (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Bước tiếp chặng đường (tập tuỳ bút) Lưu Quý Kỳ, Xuân Thiều, Nguyễn Thi, ... (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Chân móng  (truyện ký) Nguyễn Khoát (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Chỉ một con đường  (hồi ký, Tôn Thị Quế) Ninh Viết Giao ghi (Nghệ An: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ An xb., 1972)

Con đường sáng tạo (tập truyện ký) Phạm Ngọc Toàn, Thế Trường (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Con đường sống duy nhất  (hồi ký, Nguyễn Công Hoà) Mai Quân ghi (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Cô gái vùng lúa xuân (tập truyện ký) Nguyễn Minh Kính, Bùi Công Bính, Đức Hậu, ... (Thái Bình: Hội văn nghệ; Hội liên hiệp phụ nữ Thái Bình xb., 1972)

Dưới cờ trung hiếu  (tuỳ bút) Hữu Mai (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Đánh giặc giữ đê (truyện ký) Nguyễn Văn, Thái Võ, Nguyễn Xuân Phú, ... (Thái Bình: Ty thông tin văn hoá; Hội văn nghệ Thái Bình xb., 1972)

Đi chiến đấu (chuyện thanh niên xung phong tòng quân) Trần Truyền, Nguyễn Minh, Quang Cảnh, ... (H.: Nxb. Phổ thông, 1972)

Đường lửa mùa xuân (tập truyện và ký) Hữu Thỉnh, Lữ Huy Nguyên, Hoàng Lại Giang, Hồng Phi (H.: Nxb. Văn học)

Đường vào khoa học, t. 2 (chuyện sáng chế, phát minh) Phạm Ngọc Toàn, Nguyễn Long, Nguyễn Phúc Giác Hải (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Đường vô Huế  (ký) Nguyễn Quang Trúc (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972. - In lại của Nxb. Quân giải phóng)

Giao ca (tập truyện ký) Lê Xuân Khoa, Ngọc Thạch, Anh Chính,... (H.: Lao động, 1972)

Giữ đường (truyện ký) Thạch Giản (Thanh Hoá: Ban vận động thành lập hội văn nghệ Thanh Hoá xb., 1972)

Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (tùy bút) Nguyễn Tuân (H.: Hội văn nghệ Hà Nội xb., 1972)

– Hôm nay chúng ta ra trận (tuỳ bút) Khánh Vân (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Không có gì quý hơn độc lập tự do  (tập tuỳ bút) Chế Lan Viên, Lưu Quý Kỳ, Hoài Nam,...  (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Lửa tầm cao (truyện anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) Nguyễn Trí Huân, Dương Duy Ngữ, Thao Trường (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Lưu lượng lớn nhất của dòng chảy (truyện và ký) Bá Dũng, Ngô Thực, Cảnh Nguyên, ... (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Một bước trưởng thành (tập truyện dũng sĩ đường số 9,- In lại của nhà xuất bản Quân giải phóng) (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Mùa xuân em tiễn anh đi (ký sự Hoà Xá) của Hoàng Khắc Bá (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Ngày hội tòng quân  (chuyện thanh niên lên đường diệt Mỹ) của Hồ Xuân Sơn, Lưu Nghiệp Quỳnh, Bằng Dung,...  (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Người con trai họ Hạng  (tập truyện ngắn) Ma Văn Kháng (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Người Quảng Nam  (tập truyện ký) Lê Hữu Thuấn, Lê Sĩ Oanh, Tô Nhuận Vỹ,.... (Thanh Hoá: Ủy ban Mặt trận tổ quốc và Ban vận động thành lập Hội văn nghệ Thanh Hoá xb., 1972)

Nhật ký giữ đường (tập truyện và ký) Nguyễn Hoàng Giang, Nguyễn Xuân Luật, Phạm Tấn Dũng, ... (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1972)

Nhớ ơn thương binh liệt sĩ (truyện ký) tác giả (Cao Bằng: Ty thương binh xã hội Cao Bằng xb., 1972)

Những người gái đảm Hà Tây, T. 2 (truyện ký) Nguyễn Đức Thà, Trần Thị Hằng, Nguyễn Trọng Đắc, ... (Hà Tây: Tỉnh hội liên hiệp phụ nữ Hà Tây xb., 1972)

Nổi dậy của Nguyễn Thái Bình (ký, tài liệu dịch) Phượng Kim, Việt Thái Bình, Jane Fonda, Hồng Điểu (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Nữ bác sĩ Trinh  (tập truyện và ký) Mai Văn Tạo (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Say đất (tập truyện ký) Hoài An, Ngọc Toàn, Ngọc Thạch (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Sơn La nở hoa chiến thắng (những tấm gương tiêu biểu của Sơn La trong kháng chiến chống Mỹ) nhiều tác giả (Sơn La: Ty thông tin Sơn La xb., 1972)

Trận địa đường phố  (tập truyện ký) Ngọc Châu, Lê Tri Kỷ, Phùng Thái,...  (H.: Hội văn nghệ Hà Nội và Sở công an Hà Nội xb., 1972)

Trọn vẹn (truyện ký về thương binh và gia đình bộ đội) Nguyễn Quang Thân, Vũ Lê, Tăng Thị Xuân Mịn, ... (Hải Phòng: Hội văn học nghệ thuật Hải Phòng xb., 1972)

Vòm trời biên giới  (truyện tuổi trẻ Lê Quảng Ba) Đỗ Quang Tiến (Việt Bắc: Nxb. Việt Bắc, 1972)

KỊCH BẢN 

Bà mẹ Phù Đổng (kịch thơ) Phạm Ngọc Điển, Định Tiến Trọng, Trương Quang Khiên, ... (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1972)

Bên hàng rào Tà Cơn  (tập kịch ngắn) Chu Nghi, Xuân Đức, Hải Hồ (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Bước chân  (kịch nói) Nguyễn Vũ (Kđ: Nxb. Giải phóng, 1972)

– Chào Quảng Trị giải phóng (tập tiết mục nhỏ) Bút Trực Chiến, Văn Sử, Hải Nhân,...  (Hải Hưng: Ty văn hoá Hải Hưng xb., 1972)

Giữa mùa tiêu chín (hoạt cảnh, tấu, vè) nhiều tác giả (Vĩnh Linh: Ty văn hoá thông tin Vĩnh Linh xb., 1972)

Hát mừng chiến thắng, T. 3 (chèo) Văn Xuyến, Tống Minh Anh, Xuân Yên, ... (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1972)

Hoa phong lan (tập kịch chèo) Bùi Thế Căn, Hùng Việt, Trần Trung (Hà Bắc: Ty văn hoá Hà Bắc xb., 1972)

Mai  (kịch 4 màn) Học Phi (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Mừng ngày dựng nước nô nức tòng quân (tập bài hát chèo) nhiều tác giả (Hải Hưng : Ty văn hoá Hải Hưng xb., 1972)

Nắng xuân (kịch nói) Nguyễn Vượng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Người tạc tượng  (nhạc kịch ba màn) Đỗ Nhuận (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Những người mở bến (tập kịch ngắn) Vương Lan, Mỵ Lan, Như Bình,...  (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Phía trước  (kịch) Tùng Bách (Kđ: Nxb. Giải phóng, 1972)

Sợi mây vàng (tập chèo và tấu) Phạm Hổ, Vũ Hàn, Hồng Đức (Hải Hưng: Ban vận động sáng tác văn học 27-7 Hải Hưng xb., 1972)

Sợi tơ vàng (kịch bản chèo) Việt Dung (H.: Hội văn nghệ Hà Nội xb., 1972)

Thủ kho  (kịch vui) Nguyễn Minh Ngự, Nguyễn Ái Mộ, Xuân Chiểu (Hà Tây: Ty văn hoá thông tin Hà Tây xb., 1972)

Tiếp sức cho đất  (hoạt cảnh chèo) Phạm Tuất (Yên Bái: Ty văn hoá Yên Bái xb., 1972)

Vào mùa nước lớn (tập kịch bản chèo) Hoàng Nam, Ngọc Thiện, Phương Thảo,.... (Hải Hưng: Ty văn hoá Hải Hưng xb., 1972)

THƠ, TRUYỆN THƠ

Bác để lại (tập thơ) Tố Hữu, Hưởng Triều, Nguyễn Thành Vân, Thu Bồn, Hồng Chinh Hiền (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Bài ca chiến đấu  (gồm 2 phần: Người con gái Rạch Gầm; Đường ra trận ) Lưu Trùng Dương, Nguyên Hồ (H.: Nxb. Phổ thông, 1972)

Bài ca Quảng Trị (thơ ca, hò vè) Nguyễn Phương Thy, Hải Hiền, Hoài Nam, ...  (Vĩnh Linh: Ty văn hoá thông tin Vĩnh Linh xb., 1972)

Bài ca tháng bảy, T. 2 (thơ ca) Minh Huệ, Lý Anh Nghĩa, Nguyễn Thị Bích Đào, ... (Thái Bình: Ban thông tin văn hoá thị xã Thái Bình, 1972)

Bàn tay ta  (tập thơ) nhiều tác giả (H. : Nxb. Thanh niên, 1972)

Bắn nữa đi, đồng chí (thơ) Nguyễn Khoa Đăng, Tường Lan, Kim Chuông, ... (Thái Bình: Ty thông tin văn hoá Thái Bình xb., 1972)

Ca dao chống Mỹ (sưu tập) Đặng Ai, Bút Chiến, Búa Đanh, ... (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1972)

Ca dao chống Mỹ, T. 3 (ưu tập) Đỗ Minh Tâm, Văn Thịnh, Mai Ngọc (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1972)

Ca dao chống Mỹ, T. 4 (sưu tập) Lê Thị Oanh, Bút Chiến, Nguyễn Thị Thu Hà (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1972)

Ca dao Ninh Bình (tập ca dao chống Mỹ và thực hiện nếp sống thời chiến) Xuân Lâm, Văn Tâm, Ngọc Mai, ... (Ninh Bình: Ty văn hoá Ninh Bình xb., 1972)

Cam đầu mùa. Rừng xuân (tập thơ) Quốc Anh, Trần Hậu Tân (Hà Tĩnh: Hội văn nghệ Hà Tĩnh xb., 1972)

Chào anh giải phóng quân  (tập thơ) Tố Hữu, Lê Anh Xuân, Lưu Trọng Lư, Nam Hà, Lê Chí, Thu Bồn,… (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Chị em mình đảm đang chung thuỷ  (thơ, ca dao) Triệu Thị Thục Đức, Trần Thị Mỹ Quyên, Lý Phương Liên, ... (H.: Sở văn hoá thông tin Hà Nội xb., 1972)

Chỗ đứng người thợ (tập thơ) Vương Đình Trâm, Trần Hữu Thung, Thạch Quỳ,....  (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Con sông chảy từ lòng phố (tập thơ) Trần Lưu, Thanh Tùng (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Cô gái Mèo (tập thơ) Huy Cận (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Dâu hiền trăm họ (tập thơ) Trinh Đường, Nguyễn Đình (H.: Nxb. Phụ nữ, 1972)

Đất này … năm tháng (tập thơ) Đào Xuân Quý (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Đất ngoại ô  (tập thơ) Nguyễn Khoa Điềm  (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1972)

Đêm Quảng Trị  (tập thơ) Vũ Ngàn Chi (Kđ: Nxb. Văn nghệ giải phóng, 1972)

Đỉnh Hàm Rồng (thơ) Nguyễn Hoa, Huyền Kiêu, Văn Đắc, ... (Thanh Hoá: Ty văn hoá; Ban vận động thành lập Hội văn nghệ Thanh Hoá xb., 1972)

Đông xuân chiến thắng (tập thơ, ca dao) Đức Xuân, Giang Tâm, Đào Xuân Ngà, ... (Lai Châu: Ty thông tin văn hoá Lai Châu xb., 1972)

Hương đồng, ca dao 1967-1971 (sưu tập) soạn giả (Nghệ An: Ty văn hoá Nghệ An xb., 1972)

Hương rừng  (truyện thơ) Văn Khánh (Hà Giang: Ty thông tin văn hoá tỉnh Hà Giang xb., 1972)

Hương thơm mùa gặt (thơ) Mai Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Thu Hương, Đặng Ái, ... (Thanh Hoá: Ty văn hoá; Ban vận động thành lập Hội văn nghệ Thanh Hoá xb., 1972)

Khúc hát về một con đường (tập thơ) Ngô Văn Phú (H.: Nxb. QĐND, 1972)

Lên đường (thơ) Phạm Trọng Thanh, Tân Thanh, Hoài Giang, ... (Nam Hà: Bộ chỉ huy quân sự; Ty văn hoá Nam Hà xb., 1972)

Lửa hàn ngõ thợ  (tập thơ) Yên Đức, Đào Ngọc Vĩnh (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh, 1972)

Mạch sống, T. 1: Bài ca giao thông vận tải 1972 (diễn ca) Xuân Tiến (Nghệ An: Ty giao thông vận tải. Ty văn hoá Nghệ An xb., 1972)

Mặt đất không quên (tập thơ) Thu Bồn (H.: Nxb. Phổ thông, 1972)
Một đường đi  (tập thơ) Từ Ngôn (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Mùa hè rực sáng (tập thơ) Đỗ Kha, Trần Bình Minh, Chử Văn Long, ... (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh xb., 1972)

Mùa nước nổi (tập thơ) Diệp Minh Tuyền (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1972)

Mùa xanh (tập thơ) Cẩm Lai (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Mùa xanh đến  (thơ 1965-1972) Minh Huệ (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Mùa xuân ra trận  (tập thơ) nhiều tác giả (Thanh Hoá: Ty văn hoá Thanh Hoá xb., 1972)

Mùa xuân ra trận (thơ ca) Dương Vương Bình, Nguyễn Văn Dinh, Mỹ Dạ, ...  (Quảng Bình: Ty văn hoá Quảng Bình xb., 1972)

Mừng chiến thắng (thơ) Tường Thu, Quỳnh Anh, Đông Quan (Thái Bình: Ty văn hoá Thái Bình xb., 1972)

Nay mình hái quả (tập thơ) Bàng Sĩ Nguyên (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Ngày mai (tập thơ) Dương Đình Hy (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Ngọn cờ năm tấn (diễn ca, tấu) Phạm Văn Khuyến, Nguyễn Văn Dinh (Quảng Bình: Ty văn hoá Quảng Bình xb., 1972)

Ngọn đèn làng học (tập thơ) nhiều tác giả (Hà Tĩnh: Ty giáo dục và hội văn nghệ Hà Tĩnh xb., 1972)

Nhà Trắng đến hồi đen (thơ đả kích Mỹ Ngụy) của Trần Ân, Vũ Mộng Bảng, Trần Bình,.... (H.: Nxb. Phổ thông, 1972)

Những bài thơ đánh giặc  (tập thơ) Chế Lan Viên (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Ô cửa mới (tập thơ) Lê Văn Sang, Ngô Lâm, Long Chiểu, Đoàn Chung,... (Quảng Ninh: Hội văn nghệ Quảng Ninh xb., 1972)

Pác Bó (thơ) Hồ Chí Minh, Dương Đại Long, Nông Quốc Chấn, ... (Cao Bằng: Ty thông tin văn hoá Cao Bằng xb., 1972)

Quả nhỏ  (tập thơ) Khương Hữu Dụng (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Ra tiền tuyến (tập thơ) Châu La Việt, Kiều Thị Minh Tơ, Nguyễn Đăng Chương,...  (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Ra trận (tập thơ) Tố Hữu (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Rừng núi sang xuân (thơ) Thu Hiền, Nguyễn Tri Tâm, Vũ Mộng Bảng, ... (Lai Châu: Ty thông tin văn hoá Lai Châu xb., 1972)

Tâm tình (tuyển ca dao 1952-1958) Minh Hiệu tuyển (Thanh Hoá: Ban vận động thành lập Hội văn nghệ Thanh Hoá xb., 1972)

Thơ người ra trận (tập thơ) Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Thức với miền Nam  (tập thơ) Song Anh, Ngọc Bảo, Lê Hồ Bạn,... (Việt Bắc: Nxb. Việt Bắc, 1972)

Tiếng hát lên cao (tập thơ công nhân) Nguyễn Anh Bình, Đặng Thế Bồng, Huy Chính,...  (Việt Bắc: Nxb. Việt Bắc, 1972)

Tôi yêu (tập thơ) Anh Chi (Thanh Hoá: Ty văn hoá và ban vận động thành lập Hội văn nghệ Thanh Hóa xb., 1972)

Trận địa quê hương (tập thơ) Võ Văn Trực (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Trận mới (tập thơ) Duy Khán (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Trước chân trời tiền duyên (tập thơ) Hồng Chinh Hiền (K.đ.: Nxb. Giải phóng, 1972)

Trước giờ ra trận (tập thơ) Nguyễn Thiều Nam [= Xuân Thiều] (Kđ.: Nxb. Văn nghệ giải phóng, 1972)

Từ đất lửa Hàm Rồng (thơ, ca, tấu, chèo) Minh Hiệu, Hoài Nguyễn, Minh Văn, ... (Thanh Hoá: Ty văn hoá Thanh Hoá xb., 1972)

Xin gửi về Nam (tập thơ chào mừng chiến thắng xuân hè 1972) Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, … (H.: Nxb. Văn học, 1972)

SÁCH TẬP HỢP NHIỀU THỂ TÀI

Chặng đường mới (tập thơ văn) Nguyễn Hữu Phách, Mai Thanh Chương, Nguyễn Thế Trường,... (Hải Hưng: Ban vận động sáng tác văn học tỉnh Hải Hưng xb., 1972)

Chị em mình đảm đang chung thuỷ  (thơ, ca dao) Triệu Thị Thục Đức, Trần Thị Mỹ Quyên, Lý Phương Liên,...  (H.: Sở văn hoá thông tin Hà Nội xb., 1972)

Chiến thắng miền ngoài chiến thắng miền trong  (thơ ca, tấu, kịch vui) Tạ Tiến, Nguyễn Thế Vĩnh, Vũ Ngọc Phác, ... (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb., 1972)

Chiến trường gần chiến trường xa  (tập thơ ca) Vương Long, Nguyễn Xuân Phầu, Minh Huệ,...  (Nghệ An: Ty văn hoá - Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Đê cao lúa tốt (thơ, chèo) Phạm Hữu Thành, Lưu Thắng, Nguyễn Quỳnh, ... (Thái Bình: Ty thông tin văn hoá Thái Bình xb., 1972)

Đồng tiền tiết kiệm (thơ, văn, tấu, chèo) Nguyễn Văn, Hồng Dương, Phạm Mỹ Khả, ... (Thái Bình: Chi nhánh ngân hàng; Ty thông tin văn hoá Thái Bình xb., 1972)

Đường ra trận. Tập sáng tác số 2 (thơ, văn, ký…) nhiều tác giả (Thái Bình: Hội văn nghệ Thái Bình xb., 1972)

Hạt lúa hậu phương (tập thơ văn)  Trần Công Tấn, Lâm Mỹ Dạ, Trúc Hương,...  (Quảng Bình: Hội văn nghệ Quảng Bình xb., 1972)

Hội lên đường  (thơ, văn, kịch, chèo) Tường Lan, Yên Để, Tường Thu, ... (Thái Bình: Ty văn hoá Thái Bình xb., 1972)

Hội tòng quân (tập văn thơ) Lương Quy Nhân, Nguyễn Trí Tâm, Mạnh Cường, ... (Lai Châu: Ty thông tin văn hoá Lai Châu xb., 1972)

Mặt trời lên (tập thơ văn) Tường Lan, Duy Anh, Nguyễn Văn, Viết Văn, Minh Chanh, Hạnh Nguyên (Thái Bình: Ty thông tin văn hóa Thái Bình xb., 1972)

Mùa chiến công (tập thơ văn) Lê Đình Văn, Đặng Hải Hàm, Khánh Kiểm, ... (Lạng Sơn: Ty văn hoá - Chi hội văn nghệ Lạng Sơn xb., 1972)

Hội tòng quân (tập văn thơ) Lương Quy Nhân, Nguyễn Trí Tâm, Mạnh Cường,... (Lai Châu: Ty thông tin văn hoá Lai Châu xb., 1972)

Lửa tầm thấp, T. 1: tháng 9/1972 (tập thơ văn) nhiều tác giả (Hải Phòng: Sở văn hoá thông tin Hải Phòng xb., 1972)

Phá bờ  (thơ, văn, chèo, kịch) nhiều tác giả (Hải Hưng: Liên hiệp công đoàn Hải Hưng xb., 1972)

Sáng tác Hà Nội, mùa xuân 1972 (tập thơ văn, nhạc…) nhiều tác giả (H.: Hội văn nghệ Hà Nội xb., 1972)

Sáng tác Hà Nội [5 tập] (tập thơ văn, nhạc…) nhiều tác giả (H.: Hội văn nghệ Hà Nội xb., 1972)

Sáng tác Nam Hà (tập thơ văn) nhiều tác giả (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb., 1972)

Sông La, T. 3 (tập thơ văn) Thanh Đức, Vũ Hoàng, Vũ Duy Thông, ... (Hà Tĩnh: Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh xb., 1972)

Sông La, T. 9 (truyện, ký, thơ) Thanh Quang, Lê Thị Minh Khuê, Đỗ Chí Hướng, Huy Cận, ... (Hà Tĩnh: Ty văn hoá Hà Tĩnh; Hội văn nghệ Hà Tĩnh xb., 1972)

Sông Lam (thơ, ký, truyện) nhiều tác giả (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Sông Trà. Xuân 1972 (thơ, văn, kịch…) nhiều tác giả (Thái Bình: Hội văn nghệ Thái Bình xb., 1972)

Thanh Hoá kiên cường, t. 1 (tập thơ văn) Mai Ngọc Thanh, Từ Nguyên Tĩnh, Anh Chi, Lê Đình Cánh,...  (Thanh Hoá: Ty văn hoá và ban vận động thành lập Hội văn nghệ Thanh Hoá xb., 1972) 

Tiếng máy (sáng tác của công nhân và lao động thủ đô) Nguyễn Văn Châu, Huy Tự, Đặng Tất Tế,... (H.: Sở văn hoá thông tin Hà Nội xb., 1972)

Tiếng suối (tập thơ văn chuyên đề miền núi) nhiều tác giả (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Văn nghệ Lai Châu, tháng 5-1972 (thơ văn) Giàng Páo Lý, Đinh Sơn, Đào Xuân Ngà,... (Lai Châu: Ty thông tin văn hoá Lai Châu xb., 1972)

Văn thơ chọn lọc 1964-1972  (tuyển) nhiều tác giả (Lào Cai: Ty văn hoá thông tin và Hội văn nghệ xb., 1972)

Vì tiền tuyến (tập sáng tác văn nghệ, tháng 7-1972) Tiến Chước, Nguyễn Thường Văn, Bùi Đăng Sinh, ... (Vĩnh Phú: Ty văn hoá Vĩnh Phú xb., 1972)

VĂN HỌC CHO THIẾU NHI

Bầu trời của bé Giang (thơ, truyện) Quang Huy, La Quán Miên, Minh Huệ, ...  (Nghệ An: Hội văn nghệ Nghệ An xb., 1972)

Câu chuyện quanh nồi cao voi (truyện) Phạm Tiến Duật (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện) Nguyên Hồng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Chiếc áo màu lửa (tập truyện) Bùi Hiển, Vũ Thị Thường, Trần Huy Quang, Vũ Thị Miền, Hoàng Tuyết Nhung, Tuấn Vinh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Chiến công nối chiến công (tập truyện) Khắc Minh, Lê Tấn, Hoàng Tuấn Phả, ...  (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Chim hoạ mi (truyện) Ma Văn Kháng (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Chú đất nung (truyện) Nguyễn Kiên (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Chuyện ông một (truyện) Xuân Sách (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Con đường ngầm. Những chuyến xe đêm (tập truyện) Trần Nghị, Văn Thiên  (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Con gà vàng (tập truyện thiếu nhi) Nguyễn Quang Lộc, Hữu Anh, Nguyễn Văn Hoan, ... (Nam Hà: Ty văn hoá Nam Hà xb., 1972)

Con gái người anh hùng (tập truyện) Minh Huệ, Thanh Tùng, Triệu Bình Quang, ... (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Con mèo rét (truyện) Lê Minh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Cờ lau Vạn Thắng vương (truyện) Nguyễn Anh (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Đất gọi (truyện anh hùng lao động Dương Văn Nghĩa) Nguyễn Vân Tập (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Đi nữa chú ơi (tập thơ của thiếu nhi) Hoàng Hiếu Nhân, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hồng Kiên (H.: Nxb. QĐND, 1972)

Đi tìm ngọc (truyện) Trần Thanh Giao (H.: Nxb. Kim Đồng, In lần 2 có sửa chữa, 1972)

Măng non trong lửa (chuyện em Mết, dũng sĩ diệt Mỹ 12 tuổi) Phan Tứ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Món quà gửi bạn miền Nam (truyện) Hoàng Anh Đường (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Ngôi sao xanh mầu lá mạ (tập truyện) Ma Văn Kháng, Vi Hồng, Bùi Nguyên Khiết (H.:  Nxb. Kim Đồng, 1972)

Rộng vòng chim bay (tập thơ thiếu nhi) Trần Mai Khanh, Trần Thị Thuý Giang, Nguyễn Hồng Kiên, ...  (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Pháo hiệu trên đường 9 (truyện) Xuân Sách (H.: Kim Đồng, 1972)

Tấm bảng kỳ diệu (truyện) Mộng Lực (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Tên lửa bút chì  (thơ) Thy Ngọc (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Tiếng sáo trúc (truyện) Hoài Vũ  (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Tôi lên bảy (truyện) Bích Thuận (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Trên núi đàn ngựa (tập truyện) Nguyễn Đình Hồng, Ngô Viết Dinh (H.: Nxb. Kim đồng, 1972)

Xin ra trận (truyện) Phạm Hổ (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

***

Dưới gốc nấm (truyện, Vladimir Suteev, 1903-93, Nga, LX.) dịch: Đặng Ngọc Long (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Đội du kích tí hon và bác chăn cừu Pin (truyện, Wellm Alfred; sách được tặng giải thưởng của Bộ văn hoá Đức trong một kỳ thi sáng tác văn học cho thanh thiếu nhi) Hữu Ngọc dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

Người cá (1928, truyện khoa học giả tưởng, Aleksandr Romanovich Belyaev, 1884-1942, Nga, LX.) Lê Phương dịch (H.: Nxb. Kim đồng, 1972)

Ra trận (truyện, Arkady Gaidar, V. Shizhikov, R. Dernova, LX.) Nguyễn Thuý Toàn dịch (H.: Nxb. Kim Đồng, 1972)

PHÊ BÌNH, LÝ LUẬN, NGHIÊN CỨU


Anh hùng và nghệ sĩ (sưu tập các bài tiểu luận) Vũ Khiêu (H.: Nxb. Khoa học xã hội, 1972)

Khuất Nguyên nhà thơ yêu nước  (sách tham khảo; Tủ sách đại học sư phạm) Trần Xuân Đề (H.: Nxb. Giáo dục, 1972)

Lịch sử văn học Việt Nam, t. 1 : Văn học dân gian (giáo trình đại học) Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên biên soạn (H.: Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1972)

Lược truyện các tác gia Việt Nam, T. 2: Tác gia các sách chữ la-tinh, từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 (biên khảo) Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, ... (H.: Khoa học Xã hội, 1972)

Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945-1970 (nghiên cứu) Phong Lê (H.: Nxb. Khoa học xã hội, 1972)

Mười năm văn học chống Mỹ  (sưu tập nghiên cứu phê bình) Bảo Định Giang, Hà Huy Giáp, Hoàng Trung Thông,...  (Kđ.: Nxb. Giải phóng, 1972)

Trên mặt trận văn học (phê bình tiểu luận 1955-1970) Vũ Đức Phúc (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Từ cuộc đời vào tác phẩm (phê bình, tiểu luận) Nhị Ca (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Xung quanh một số vấn đề về văn học và giáo dục (sưu tập tiểu luận, 1947-1972) Nguyễn Khánh Toàn (H.: Nxb. Khoa học xã hội, 1972)

TUYỂN TẬP, SƯU TẬP

Cá gáy hóa rồng  (chuyện dân gian sưu tầm ở Hà Tĩnh) Thái Kim Đỉnh b.s.  (Hà Tĩnh: Ty văn hoá Hà Tĩnh xb., 1972)

Chùa Hương  (sưu tập thơ) Trịnh Sâm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, ...  (Hà Tây: Ty văn hoá thông tin Hà Tây xb., 1972)

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, t. 1: Văn học dân gian (tuyển) Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy biên soạn (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Tang thương ngẫu lục (th.k. XVIII-XIX, tác phẩm chữ Hán của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án) bản dịch Trúc Khê Ngô Văn Triện; Giới thiệu và chú thích: Trương Chính (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Thơ Hải Phòng (1965-1970) Nguyên Hồng, Nguyễn Viết Lãm, Lê Đại Thanh, …  (Hải Phòng: Chi hội văn học nghệ thuật Hải Phòng xb., 1972)

Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (hợp tuyển thơ văn) Chương Thâu, Triêu Dương, Nguyễn Đình Chú biên soạn (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Thơ Vĩnh Phú (tuyển 1968-1970) Nguyễn Đình Ảnh, Đăng Bảy, Giang Châu,…  (Vĩnh Phú: Ty văn hoá Vĩnh Phú xb., 1972)

Truyền thuyết Hùng vương (sưu tầm biên khảo) Nguyễn Khắc Xương (Vĩnh Phú: Chi Hội văn nghệ dân gian Vĩnh Phú; In lần hai, có sửa chữa, 1972)

Truyện cổ dân gian Thanh hoá, T. 1 (sưu tập) soạn giả: (Thanh Hoá: Ty văn hoá Thanh Hoá xb., 1972)

Truyện cổ Tày Nùng (sưu tập) Hoàng Quyết s.t. (Cao Bằng: Ty thông tin văn hoá Cao Bằng xb., 1972)

Việt Nam nghĩa liệt sử (nguyên tác chữ Hán của Đặng Đoàn Bằng, chú thích Phan Thị Hán) Tôn Quang Phiệt dịch (H.: Nxb. Văn học, in lần hai, 1972)

Vũ trung tuỳ bút (trước 1839, tác phẩm chữ Hán của Phạm Đình Hổ) bản dịch Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến;  giới thiệu và chú thích: Trương Chính (H.: Nxb. Văn học, 1972)

DỊCH THUẬT VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Biển lạnh  (truyện phản gián, Viktor Mikhailov, LX.) Đức Thuần, Đào Mai dịch (H. : Nxb. Lao động, 1972)

Chiến dịch hổ phách (truyện phản gián, V. Lit-xtốp, A. Du-bốp, L. Lê-rốp..., LX.)  Trần Huy Học dịch (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Hoa dại  (truyện ngắn các tác giả Mỹ: J. Lodon, O’ Henry, E. Caldwell,...) Đắc Lê dịch (H.: Nxb. Lao động, 1972)

Người tình báo vĩ đại (truyện về anh hùng LX. Richard Sorge, 1895-1944, của S. Goliakov, LX.) Nguyễn Ngọc Ban, Ngọc Kỳ dịch (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Những ngôi sao Ê-ghe, t. 1 – 2  (1901, tiểu thuyết, Gardonyi Géza, 1863-1922, Hungary) Lê Xuân Giang dịch (H.: Nxb. Văn học, 1972)

Những người của bãi biển Hi-rôn (truyện, Raul Gonzalez Cascoro, Cuba, Giải thưởng truyện ngắn năm 1962 cuộc thi văn học Mỹ La Tinh lần thứ 3) Nguyễn Văn Lai dịch (H.: Nxb. Quân đội nhân dân, 1972)

Pháo đài cổ (1935-50, tiểu thuyết 3 tập, V. P. Belyaev, 1909-90, Ukraina, LX.) Nhị Ca dịch (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Thửc thách (tiểu thuyết, Iun-xê-đun, Triều Tiên) Nguyễn Hoàng dịch (H.: Nxb. Thanh niên, 1972)

Viên tướng của đạo quân chết (1963, tiểu thuyết, Ismail Kadare, Albania) Hướng Minh dịch (H.: Nxb. Văn học, 1972)

 

***

 

Mỹ học,  gồm 4 tập.  T.1 (A): Ý niệm và lý tưởng; T. 1 (B) Khảo sát khoa học về ý niệm cái đẹp trong nghệ thuật;  T. 2 (A) Sự hình thành và đặc điểm về cái đẹp trong giai đoạn tiền nghệ thuật; T. 2 (B) Những đặc điểm cơ bản của cái đẹp trong nghệ thuật tượng trưng, nghệ thuật cổ điển và nghệ thuật lãng mạn; T. 3(A): Các nghệ thuật tạo hình: kiến trúc, điêu khắc (tác phẩm của G. F. W. Hegel, 1770-1831, Đức) người dịch: Nhữ Thành (H.: Phòng tư liệu Viện văn học, Tài liệu lưu hành nội bộ, 1972)


 

[1] Thông báo kết quả cuộc thi truyện ngắn 1970-1971 của Tuần báo ‘Văn nghệ’ // Văn nghệ, Hà Nội, s. 437 (25. 2. 1972), tr. 8.

[a] Lưu ý: C.B., T.L., Chiến Sỹ: là những bút danh của Hồ Chí Minh trong cuốn “Nói chuyện Mỹ”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1972. (N. B. S.)

[2] H.T.: Hội nghị văn nghệ các dân tộc thiểu số và các địa phương // Văn nghệ, Hà Nội, s. 445 (21. 04. 1972), tr. 6.

[3] Tặng thưởng văn học về đề tài công nhân 1969-1971 của Tổng công đoàn và Hội nhà văn Việt Nam // Văn nghệ, Hà Nội, s. 445 (21. 4. 1972), tr. 15.

[4] Để cho những Tết trung thu ngày thêm tươi đẹp // Văn nghệ, Hà Nội, s. 467 (22/9/1972), tr.6.

[5] Để cho những Tết trung thu ngày thêm tươi đẹp // Văn nghệ, Hà Nội, s. 467 (22/9/1972), tr.6.

[6] Phóng viên: Thơ nóng bỏng với thời sự (tường thuật) // Văn nghệ, Hà Nội, s. 473 (03/ 11/ 1972), tr. 5.