1993

 

Tháng 11:

Ngày 5: tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam, Viện Văn học, trường Viết văn Nguyễn Du, Hội Văn học nghệ thuật Hưng tổ chức kỷ niệm 90 năm ngày sinh Nguyễn Công Hoan[1];

Ngày 6: tại Hà Nội, báo Văn nghệ, s.45/1993 (s.1765) [báo in lầm là s.1785]:

Nghị luận: Hoàng Cầm (Thử tìm một phương pháp cho giải thưởng văn học quốc gia);

Ký: Quang Cần (Những khoảng vượt), Tô Đức Chiêu (Belarusia thanh bình); Lê Minh Khuê (Ngôi nhà của Kê-vin);

Truyện ngắn: Triệu Huấn (Yêu pháp), Nguyễn Văn Vinh (Bớt son);

Thơ: Ngân Vịnh (Làng quê; Rượu ủ kín trong vò; Nhớ ghi; Đêm cuối sông; Cuối này), Hoàng Hưng (Sốt; Sơn dầu; Thuốc nước; Đêm du lịch; Mưa đêm);

Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ VII: Xuân Cang (Nhà văn và bạn đọc: Nhà hoạt động công đoàn và nhà văn, trả lời bạn đọc Đinh Công Khôi), Nguyễn Lân Dũng (Trí tuệ cán bộ công đoàn);

Phê bình-tiểu luận: Lê Lựu, Võ Khắc Nghiêm, Phạm Hoa, Vũ Tú Nam (Trao đổi về văn xuôi những năm gần đây, trích ý kiến tại Hội thảo về văn xuôi, còn tiếp);

Văn học và học văn: Văn Tâm (Về một số nhận định, quan niệm trong SGK môn văn);

Văn học Nga: Viktor Rozov, 1913-2004 (50 năm sau mọi chuyện sẽ tốt…, Bùi Anh Tuấn dịch), T.C. (Một  Solzhenitsyn mới lạ!), Tường Anh (V. Lakshin /1933-93/, một nhà văn, nhà khai sáng; Sergey Bondarchuk: làm bằng được “Sông Đông êm đềm”), Lê Xuân Sơn (Để nhà văn phải chia tay, lẽ nào?); thơ Vladimir Vysotsky, 1938-80 (Anh hề Enguibarov nhìn từ khán giả, Thanh Thảo dịch), Bella Akhmadulina, 1937-2010 (Nhà hát, Thanh Hiền dịch), Boris Slutsky, 1919-86 (Những người im lặng, Thanh Hiền dịch);

Văn thơ trào phúng: Dương Quang (Nhà văn hóa quê tôi), Sĩ Giang (Ông đừng quá lo);

Nghệ thuật: Thái Phiên (Cuộc hội tụ của những giọng ca đẹp…), Vũ Phương (Mùi đu đủ xanh, phim của đạo diễn Trần Anh Hùng);

Ngày 13: tại Hà Nội, báo Văn nghệ, s.46/1993 (s.1766):

Nghị luận: Hồ Ngọc Đại (Lợi ích: 2 – Ý thức);

Ký: Hoàng Nhâm Văn (Tản mạn về người nước ngoài ở Vũng Tàu);

Truyện ngắn: Lê Đạt (Đối tác), Hồ Ngạc Ngữ (Phía sau vầng trăng), Trần Đức Tiến (Nhà trên núi), Trần Quang Vinh (Tiền định);

Thơ: Phạm Tiến Duật (Chiều hôm nay như thể mọi chiều; Anh không nói rằng; Chợ lao động; Áo váy xênh xang; Bên cạnh gốc hoàng lan ngày trước), Hoàng Trung Thủy (Cõi người; Gởi bà Tú Xương), Trần Trung Phụng (Đường thẳng; Nhủ lòng), Trương Xuân Hoàng (Hoa sứ; Tặng hoa bất tử), Phạm Văn Đoan (Thợ lặn);

90 năm sinh Nguyễn Công Hoan (1903-77): V.N. (Hội thảo kỷ niệm 90 năm ngày sinh Nguyễn Công Hoan, ngày 5.11.1993); Vũ Tú Nam, Trần Độ, Võ Nguyên Giáp, Vũ Cao, Tế Hanh, Mai Hương, Trần Văn Giàu, Dạ Ngân, Phong Lê, Vũ Dong, Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Tài (Một nhân cách, một sự nghiệp và những bài học lớn, trích ý kiến);

Phê bình-tiểu luận (trao đổi về văn xuôi những năm gần đây): Chu Văn (Tôi mong đợi nhiều tiếng cười trong văn xuôi của chúng ta), Đào Vũ (Cái hồn của tác phẩm, cái tâm của người viết cần được hiểu thấu đáo, còn tiếp); Xuân Sách, Trần Đức Tiến (Cát bụi chân ai, -về hồi ký Tô Hoài, Nxb. Hội Nhà văn, 1993);

Nhà văn và bạn đọc: Lý Biên Cương (“Đã mang lấy nghiệp vào thân…”, trả lời một số bạn đọc);

Tiểu luận: Thúy Toàn (Vài nét về đời sống văn học Nga), Tạ Ngọc Liễn (Một nhà sử học Trung Quốc viết về “Nhật ký trong tù”, -về Hoàng Tranh);

Truyện ngắn: Camilo José Cela, 1916-2002, Tây Ban Nha (Vong linh anh bạn cao kều, Nguyễn Trung Đức dịch); thơ Tây Ban Nha /Linh Uyên dịch/: Rafael Morales, 1919-2005 (Bò đấu), Juan Ramón Jiménez, 1881-1958 (Ban mai), Federico García Lorca, 1898-1936 (Máu chảy);

Qua báo chí nước ngoài: Nguyễn Trung Đức (Công nghệ sách ở Tây Ban Nha), Nguyễn Trung (Alfonso Sastre /1926-/ đoạt giải quốc gia về kịch, nhà soạn kịch Tây Ban Nha);

Văn thơ trào phúng: Biêm Sắc (Văn chương “pê đê”???), Đại Kiện (Với ông);

Nói và viết: Hồ Sĩ Thoại (Vẫn sính chữ Tây!);

Nghệ thuật: Minh Huệ (Bộ ảnh di tích lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du, của Nguyễn Đăng Việt);

P.V. (Kết quả cuộc thi thơ hay năm 1993 của tuần báo Văn nghệ Tp.HCM.);

Ngày 19: tại Hà Nội, Bộ văn hóa thông tin, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Trung tâm KHXH&NV quốc gia tổ chức Hội thảo khoa học 50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) của TƯ ĐCS Đông Dương[2].

Ngày 20: tại Hà Nội, báo Văn nghệ, s.47/1993 (s.1767):

Nghị luận: Vũ Hạnh (Tiền bạc có đối lập với văn chương?); Mai Lý (Trò chơi tàn bạo); Nguyễn Lân Dũng (Ba điều ước);

Ký: Nguyễn Trúc (“Cò học”); Quang Cần (Những khoảng vượt); Tô Đức Chiêu (Belarusia thanh bình);

Truyện ngắn: Đặng Anh Đào (Làng nổi), Lam Sa (Khi đường chia lối nhỏ);

Truyện phim: Phạm Chí Dũng (Máu của tình yêu);

Thơ: Dương Kiều Minh (Phượng hoa đề; Mùa thu; Chốn cũ), Bằng Vũ (Vùng lẻ dấu chân), Hữu Việt (Tím màu mưa chiều thu; Hoa lạc tiên; Phố rộng; Phố Hàng Mã; Chiều Quán Sứ);

70 năm sinh Văn Cao (1923-95): Đinh Cường (Tranh Văn Cao), Nguyễn Thụy Kha (Một bản lĩnh thơ), Hoàng Phủ Ngọc Tường (Cảm nhận Văn Cao), Thanh Thảo (Thơ Văn Cao), Trịnh Công Sơn (Anh đi qua cuộc đời và hát), Đàm Linh (Anh Văn ở Tây);

Thơ Văn Cao (Mùa xuân, em…; Người đi dọc biển; Cạn; Không đề);

Tiểu luận-phê bình: Hà Minh Đức (Kỷ niệm về một người thầy, về GS. Hoàng Xuân Nhị); Trần Bảo Hưng (Đọc “Heo may gió lộng”, tập truyện ngắn Ma Văn Kháng);

Văn học nước ngoài: Hà Phạm Phú (Lưu Chương, một số phận văn chương,- Liu Zhang, ?-177 tr.CN, nhà thơ Trung Quốc), P.V. (Trao đổi về vấn đề “Vương Bột tử nạn nơi nào?”, nhân đoàn nhà văn Trung Quốc thăm Việt Nam, 18 – 30.10.1993);

Văn thơ trào phúng: Ngũ Liên Tùng (Trần trụi núi Trầm);

Nói và viết: Hồ Anh Thái (Chữ tác đánh chữ tộ);

Nhiều tác giả (Hoạt động của các hội văn học nghệ thuật địa phương);

Ngày 27: tại Hà Nội, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức Hội thảo Một số vấn đề lý luận văn học hiện đại[3];

Ngày 27: tại Hà Nội, báo Văn nghệ, s.48/1993 (s.1768):

Nghị luận: Hồ Ngọc Đại (Lợi ích: 3 – Tư hữu); Mai Lý (Trò chơi tàn bạo);

Ký: Nguyễn Hoài Nhơn (Tận diệt!); Vũ Duy (Trong lửa đỏ và nước lạnh); Hoàng Nhâm Văn (Tản mạn về người nước ngoài ở Vũng Tàu);

Truyện ngắn: Trịnh Đình Khôi (Một mình), Vũ Bão (Phó tiến sĩ không hữu nghị), Nguyễn Hữu Nhàn (Tiếng dế), Ngô Quân Miện (Căng-gu-ru!);

Thơ: Thái Thăng Long (Mùa thu nhớ; Vườn cũ; Trở về với cánh rừng), Phạm Khắc Lưu (Gửi bạn; Đêm), Trần Khắc Tám (Đà Nẵng mùa hạ), Phạm Quang Đẩu (Vần này lục bát), Tạ Minh Châu (Khoảnh khắc), Phạm Đình Ân (Cô họa sĩ; Thương), Dương Thuấn (Con gấu), Hoài Khánh (Đèo Hải Vân), Trương Xương (Con nàng Tô Thị), Y Phương (Đậu trồng trên rẫy cằn; Gió phủ trùng; Quà tặng; Con ốc đồng; Bắt được em rồi em ở đâu);

80 năm sinh Vũ Đình Liên (1913-96): Trần Lê Văn (Nhà thơ Vũ Đình Liên: ông già phúc hậu), Vũ Mạnh Tần (Lặng lẽ Vũ Đình Liên);

Phê bình-tiểu luận (Trao đổi về văn xuôi những năm gần đây, tiếp, hết): Thu Huệ, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều (Trách nhiệm nhà văn, Phạm Thanh Ba ghi), Xuân Thiều (Cảm nhận về định hướng văn học);

Đọc sách: Mai Quốc Liên (Trần Nhật Thu và “Con mắt của cánh buồm”), Lã Thị Bắc Lý (Đỗ trắng đỗ đen, thơ Phạm Hổ, Nxb. Giáo dục, 1991);

Văn học và học văn: Nguyễn Thị Thanh Hương (Bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm), Trương Minh Đức (Góp ý với SGK văn lớp 10);

Văn học nước ngoài: Tiểu luận Denise Levertov, 1923-97, Mỹ (Nhà thơ trong thế giới, Ngân Xuyên dịch), Charles Simic, 1938-, Mỹ gốc Serbie (Thơ và nhà thơ, Nguyễn Quang Thiều trích dịch); Thơ Tess Gallagher, 1943-, Mỹ (Khi chúng ta chết tất cả đều là vua Ai Cập, Hoàng Lê dịch), Everlyn Lang, Mỹ (Màu xanh, Hoàng Lê dịch), Pablo Neruda, Chile (Đối thoại giữa Pablo và Armadulina, Mạnh Tứ dịch), Chu Nam, Trung Quốc (Có một số lời; Ánh mắt, Chu Công dịch);

Văn thơ trào phúng: Sĩ Hồ (Cái vòng luẩn quẩn), Sĩ Giang (SIDA?);

Nhà văn và bạn đọc: Phong Lê (Phê bình e khó thành nghiệp! Văn chương có hay và dở, có mới và lạ…, trả lời thư bạn đọc Quách Thiên);

Nghệ thuật: Thế Hùng (Bốn thế hệ thầy trong một phòng tranh), Nguyễn Ngọc Quỳnh (Ông già hát);

Ngày 29/11-1/12: tại Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu văn hóa quốc tế (RICC) thuộc Khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (Giám đốc: Gs. Phan Cự Đệ) tổ chức Hội thảo: Sự đóng góp của Bắc Âu cho văn học thế giới[4];


 


 

Ngày 30: tại Đà Nẵng, tuần báo Văn nghệ khai trương Văn phòng đại diện miền Trung, do nhà văn Thanh Quế phụ trách, trụ sở 34 Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng[5];

Trong tháng 11: tại Hà Nội, Văn nghệ quân đội, s.11 (tháng 11/1993):

Bút ký: Khuất Quang Thụy (Việc nghĩa);

Truyện ngắn: Phạm Ngọc Tiến (Không thời gian), Phạm Duy Tường (Một quãng đời và cả cuộc đời), Trần Thị Trường (Gian dối có khuôn mặt môn đệ), Đỗ Viết Nghiệm (Suối đổ về biển mặn), Lý Biên Cương (Thu cảm), Dương Hướng (Sân khấu cuộc đời);

Thơ: Lê Thành Nghị (Moskva, không tin những giọt nước mắt), Bạch Lê Văn Nguyên (Ánh trăng), Bùi Việt Mỹ (Ngày về), Phạm Công Trứ (Khoảng trời tuổi thơ), Hoài Vũ (Chiều trên biển Cần Giờ), Vương Duyệt (Ảo giác về trăng), Phạm Văn Từ (Hang Thâu), Lý Hoài Xuân (Giữa hai người), Nguyễn Cảnh Tuấn (Những đứa trẻ ở Đèo Ngang), Bùi Đắc Ngôn (Bữa cơn dưới trăng), Lưu Quang Vũ (Quả dưa vàng; Gửi);

Hồi ký M. Kalashnikov, Nga (Nhà sáng chế súng A.K. kể chuyện mình, trả lời phỏng vấn tạp chí Ngọn lửa nhỏ, Trần Nho Thìn trích dịch);

Thơ Yiannis Ritsos, 1909-90, Hy Lạp (Hòa bình, Ngân Xuyên dịch), Gyorgy Somlyo, 1920-2006, Hungary (Bên lề hội nghị vì hòa bình, Ngân Xuyên dịch);

Tiểu luận-phê bình: Nguyễn Bá Thành (Tư duy thơ thời kỳ đổi mới đặt ra vấn đề gì?); Trần Bảo Hưng (“Chuyện làng cuội”, cách nghĩ và tầm nhìn của nhà văn,- về tiểu thuyết Lê Lựu, Nxb. Hội Nhà văn, 1993), Trần Đăng Khoa (Tản mạn xung quanh giải thưởng Hội Nhà văn 1993);

90 năm sinh Nguyễn Công Hoan (1903-77): Lê Thị Đức Hạnh (Qua một số ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thời kỳ trước cách mạng);

trang dành cho bạn đọc trẻ: Ngô Tự Lập (Hỏi chuyện Thúy Toàn), Hoài Sơn (Marina Tsvetaeva), Hoàng Ngọc Hiến (Tôi nghiên cứu và dịch thơ Maiakovsky);

mỗi tháng một chuyện: Phạm Ngọc Luật (Nhỏ to bên lề trang viết);

đời sống văn nghệ: Ngô Vĩnh Bình (Thăm Trường văn hóa nghệ thuật quân đội);

Bạn đọc với Văn nghệ quân đội: Nhiều tác giả (xung quanh “Những giọt nước mắt không thể lãng quên”, bút ký Minh Chuyên, Văn nghệ quân đội, s.7/1993);

1[]Tạp chí Văn học, s.6/1993 (s.24), tr.58

2[]Văn nghệ, s.49/1993 (s.1769), tr.2; Tạp chí Văn học, s.6/1993 (s.24), tr.59

3[]Văn nghệ, s.50/1993 (s.1770), tr.2

4[]Văn nghệ, s.51/1993 (s.1771), tr.3

5[]Văn nghệ, s.50/1993 (s.1770), tr.13

 

.