2001
Tháng 5: -- Ngày 3: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 15 /2001: Truyện ngắn: Nguyễn An Cư (Đổi giọng); Truyện dài: Lê Thành Chơn (Vụ án chiếc trực thăng UH-1, tiếp); Ký: Trần Minh Thới (Những người tìm mộ), Nguyễn Minh Ngọc (Những cánh bay anh hùng); Võ Trần Nhã (Cờ Đảng tung bay, tiếp, hết); Thơ: Bùi Đức Long (Em bây giờ ở đâu?), Trúc Chi (Đông Bắc), Trần Hội Nhân (Từ miệt biển phía Nam), Nguyễn Thị Bích Phụng (Trả lại), Nguyên Linh (Hoa Pơ-lang); CLB thơ Đường luật: Thơ: Nguyễn Tế Nhị (Tân Tỵ xuân xưa), Văn Bích (Cây vú sữa vườn Bác), Nguyễn Kỳ Anh (Nỗi buồn nông sản), Phạm Khánh Toàn (Bóng mạ, bóng cò), Trần Văn Hưng (Kiếp con trâu), Đỗ Hữu Thiều (Nhớ Tản Đà); Tưởng nhớ Trịnh Công Sơn: Hồ Thanh Danh (Anh đã đi rồi), Từ Duy (Cánh vạc lên tiên), Hồ Thanh Hà (Ngậm ngùi); Trao đổi: Người Giữ Vườn (Những điều bị quên,- về niêm luật, chủ đề, v.v.); “Văn nghệ Trẻ”: Văn: Nguyễn Mỹ Nữ (Khúc tưởng niệm); Thơ: Vương Huy (Con đường của nắng); Nghệ thuật: họa sĩ Huỳnh Thị Nhung (Bâng khuâng Hội An, Thúc Phương hỏi chuyện), Thường Đoan (Xem tranh thêu nghệ thuật của Nguyễn Đức Diệu Trinh), Ẩn Lang (Sẽ thuyết phục hơn nếu diễn viên giỏi hơn,- vở “Nguồn sáng”, kịch Lưu Quang Vũ, đạo diễn Trần Ngọc Giàu, nhà hát kịch Sân khấu nhỏ Tp.HCM.); Văn nghệ nước ngoài: Hoa Lan (Bản lĩnh đàn bà của Lưu Hiểu Khánh /Liu Xiaoqing, 1955-); Hinh Phượng (Louis Armstrong, tiếng kèn bất khuất,- về nghệ sĩ kèn trumpet và nhạc jazz Mỹ, 1901-1971); Thảo Tuyền (Nữ chiến binh Amazon); Trào phúng: Văn: Tiểu phẩm: Pằng Chíu Chíu (Ám hiệu); -- Ngày 5: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 18 /2001 (s.2155): Truyện ngắn: Thu Loan (Điện thoại), Nhất Phượng (Chú Được), Tô Đức Chiêu (Xóm Cò); Tùy bút: Từ Quốc Hoài (Ngày mới của đất nước ngày mới của cuộc đời); Truyện ký: Lê Thành Chơn (Vụ án “Tản thất quân dụng” /về chiếc trực thăng UH-1 bị mất cắp/, tiếp); Ký: Thái Nguyễn Bạch Liên (Tham quan cải cách hành chính ở Trung Quốc, tiếp, hết); Thơ: Tạ Hữu Yên (Hạ về; Trở rét; Một thời), Vũ Xuân Quản (Thu Sa Pa), Văn Công Hùng (Bỗng chiều…; Vọng Huế), Nguyễn Tấn Việt (Trước khi ta cầm đũa; Chỉ có ở con người); Phê bình: Hồng Diệu (Có một đội ngũ nhà văn quân đội,- về bộ tuyển tác phẩm của 303 tác giả từng là quân nhân), Trịnh Quốc Thắng (Một vài ý kiến về “Tuyển tập thơ Việt Nam 1975-2000”, 3 tập, Nxb. Hội Nhà văn, 2000); P.V. (Hội thảo thơ Hải Phòng); Chân dung-tiểu sử: Bùi Việt Thắng (Ba gương mặt nhà văn nữ,- đọc 3 tập truyện ngắn của 3 hội viên mới: Nguyễn Thị Phước với “Chuyến tàu tháng bảy”, Trần Thị Huyền Trang với “Một lứa bên trời”, Nguyễn Thị Anh Thư với “Không nhan sắc”); Phan Hoàng (Thanh Châu, lặng lẽ đời văn đời người); Phỏng vấn: Gs. Lê Thi (“Cấu trúc gia đình hiện đại”, yếu tố thúc đẩy sự phát triển xã hội, Quỳnh Nhi thực hiện); Thương tiếc nhà văn Hoài An (7.6.1926 – 24.4.2001): Văn nghệ (Tin buồn), Hữu Thỉnh (Thương tiếc nhà văn Hoài An, trích điếu văn), Võ Khắc Nghiêm (Nhớ mãi phong cách và tấm lòng ấy), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Có người của một thời như thế); Sử học: Thiết Sử (Hội thảo nhân cuốn sách “Nguyên nhân suy vong và quật khởi của Việt Nam thế kỷ XIX - thế kỷ XX” của Gs. Trần Văn Giàu); Tạp văn: Hồ Ngọc Đại (Người tự sinh ra mình), Chu Hảo (Nhân tài trong thời đại mới); Trần Hiệp (Phải bảo vệ quyền lợi cho người lao động); Nghệ thuật: Tư liệu: Lưu Hữu Phước (Thư gửi từ chiến trường, Bảo Định Giang, nguyên trưởng tiểu ban văn nghệ miền Nam thuộc Hội LHVHNTVN và Bộ Văn hóa lưu giữ); Văn nghệ, báo chí nước ngoài: Hồi ký: Tướng Sergei Rudenko, 1904-90, LX. (Bay tới Berlin, Lê Sơn giới thiệu và trích dịch); Hồi ký: Anatoly Dobrynin, 1919-2010, cựu đại sứ LX tại Mỹ (Đặc biệt tin cậy, Trịnh Trang dịch, tiếp); Hồng Hạnh lược dịch (Cuộc diễu binh chưa từng có, Moskva, 24.6.1945); Truyện ký: Vladimir Uspenski, 1927-2000 (Gorki và chiếc máy bay mang tên ông, Đỗ Quyên dịch); Bình luận: Minh Tâm (Xúc động đến từ nước Mỹ); Thông tin: Lã Thanh Tùng (Giải Pulitzer năm 2001); Ý kiến Bạn đọc: Cao Tiến Cổn (Về truyện ngắn “Chuyện riêng của chị”, tác giả Nguyễn Thị Vân Anh), Đỗ Xuân Ngân (Về bài của Gs. Hoàng Tụy), Lê Thanh Đức (Về một số sai sót trong một số bài báo); Thơ trào phúng: Ngũ Liên Tùng (Tượng chùa bay), Sĩ Hồ ( Hát bằng …tay); Thông tin: Văn nghệ (Thông báo tặng thưởng bài đăng tháng 4/2001: Nguyễn Khải: truyện ngắn “Má hồng”; Gs. Hoàng Tụy: bài “Đổi mới tư duy để vảo kinh tế tri thức”; Trịnh Trang: bản dịch “Đặc biệt tin cậy”; Phan Hoàng: bài về Cao Xuân Hạo; 2 dịch giả Đức Thuần, Ngọc Điền: bản dịch bài của E. Ligachev và E. I. Kopushev; Thái Bá Tân: bài “Điệu nhảy chậm”; Dương Tất Từ: sưu tầm chùm tranh vui nước ngoài); -- Ngày 10: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 16 /2001: Truyện ngắn: Lương Minh Hinh (Dưới bóng vườn xanh); Ký: Ngọc Vinh (Những con người anh hùng trên mảnh đất anh hùng), Thơ: Phan Cao Toại (Dâng Bác chút tình quê), Bùi Nguyễn Trường Kiên (Buổi sáng), Xuân Đam (Nhớ Nam Cao), Nguyễn Tất Hanh (Phía sau điệu Lý), Hà Thiên Sơn (Tiễn bạn), Trương Công Thuốt (Chưa biết buồn), Bình Nguyên Trang (Cô đơn); “Văn nghệ Trẻ”: Tạp văn: Nguyễn Ngọc Tư (Đôi bờ thương nhớ); Thơ: Hà Huy Tuấn (Ngợi ca); Phê bình: Trương Võ Anh Giang (Nhiều sai sót đối với tiểu sử văn nghệ sĩ và nhân vật hiện đại Nam Bộ trong cuốn “Từ điển Tác gia Việt Nam”, soạn giả Nguyễn Q. Thắng, Nxb. Văn hóa thông tin, 1999); Hoàng Trinh (Đọc “Văn học, tình yêu của tôi”, tập tiểu luận phê bình, Nguyễn Kim Hoa, Nxb. Khoa học xã hội, 2001); Chân dung-Tư liệu: Lan Phương (Viết về các bạn văn bút của Lan Khai); Nghệ thuật: PN. Thường Đoan (Ca nhạc rộn ràng), Thúc Phương (Triển lãm mỹ thuật Tp.HCM. tháng Tư: Có ý thức đi vào chiều sâu quá khứ), Đông Lan (Nhà hát ca múa nhạc dân tộc Bông Sen nhận Huân chương Lao động hạng Nhất); Văn nghệ nước ngoài: Văn: Konstantin Simonov, 1915-79 (Những trích đoạn về chiến tranh: Ngày và đêm; Người lính đã cất bước; Những người sống và những người chết, Cao Thụy dịch); Thông tin: Carol J. Williams (Văn học Bắc Âu, Hoàng Vũ Nguyên dịch); Thông tin: Thảo Tuyền (Triển lãm Nhị Niên ở Cuba); ? ? ? (Sự hình thành và ý nghĩa của bức tranh “Guernica”); Trào phúng: Văn: tiểu phẩm: Tinh Tâm Nhất, Nhật Bản (Thoát lưới sắt, Minh Vũ dịch), Hắc Cô Nương (Ba cuộc nhậu); Tứ Quý st (Nụ cười); Thơ châm: Nguyễn Tiến Bình (Lễ nhiều ghê); -- Ngày 12: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 19 /2001 (s.2156): Truyện ngắn: Nguyễn Thị Minh Ngọc (Chờ duyên), Việt Hòa (Cố nhân), Học Phi (Thiên nhãn) Ký: Nguyễn Quanh Hà (Góc khuất rừng ban), Văn Chinh (Một Bí thư tỉnh ủy gần dân), Thanh Thảo (Tháng Tư trở lại Trường Sơn); Truyện ký: Lê Thành Chơn (Vụ án “Tản thất quân dụng” /về chiếc trực thăng UH-1 bị mất cắp/, tiếp); Thơ: Nguyễn Bao (Soạn “Toàn tập Xuân Diệu”; Giá như), Văn Lợi (Hoa sứ; Mẹ), Hoàng Vũ Thuật (Mùa xưa; Ánh sao), Nguyễn Vũ Tiềm (Chọn cây thế), Đỗ Trọng Khơi (Trong mưa lạnh cảm xúc về chim và hoa), Nguyễn Ngọc Quế (Ở làng lấn biển Nga Sơn; Người anh hùng ngày ấy); Tiểu luận: Cao Xuân Hạo (Về tính hiếu học của người Việt xưa và nay); Tư liệu: Phan Bội Châu, 1867-1940 (Công dụng và giá trị của văn chương); Phê bình: Trần Mạnh Hảo (Trúc Thông, “một ngọn đèn xanh” chín lửa,- về “Một ngọn đèn xanh”, thơ Trúc Thông, Nxb. Hội Nhà văn, 2000); Thảo luận (về bài Lê Thanh Hiền, V.N. s. 10/2001 cho rằng câu ca dao Việt là dịch từ thơ Đường Trung Hoa): Nguyễn Văn Dân (Một nhận định khó nghe), Lê Xuân Vũ (Ca dao Việt Nam hay thơ Đường?); Chân dung-tiểu sử: Anh Chi (Nhà văn Vũ Trọng Can, 1915-43); Hồi ức-tư liệu: Vũ Sắc (Một bài báo của nhà văn Nam Cao,- xuất xứ bài “Hội nghị nói thẳng”); Tạp văn: Hồ Ngọc Đại (Nhân phẩm), Lữ Giang (Ma túy ở bên ta); Văn hóa-nghệ thuật: Nguyễn Thiện Tố (Địa đạo Vịnh Mốc, dự án sai lầm hay thông tin bịa đặt?); Nguyễn Tý (Tản mạn về sân khấu thành phố Hồ Chí Minh); Văn nghệ, báo chí nước ngoài: Tản văn Trung Hoa (Dương Quốc Anh dịch): Tôn Phương Hữu, 1950- (Bá vương biệt cơ), Hãm Lôi (Như thật mà lại giả); Hồi ký: Maria Zhukova, Nga (Nguyên soái Zhukov là bố tôi,- về Georgy Zhukov, 1896-1974, Đỗ Quyên dịch); Tướng Sergei Rudenko, 1904-90, LX. (Bay tới Berlin, Lê Sơn giới thiệu và trích dịch, tiếp, hết); Hồi ký: Anatoly Dobrynin, 1919-2010, cựu đại sứ LX tại Mỹ (Đặc biệt tin cậy, Trịnh Trang dịch, tiếp); Thông tin: Hàn Thủy Giang lược dịch (Những chặng đường văn học Triều Tiên); Bình luận: Minh Tâm (Liệu có tỉnh ra?); Nghệ thuật: Quỳnh Nhi (Mỹ thuật đương đại Hàn Quốc: Sự lưỡng lự của các họa sĩ châu Á,- nhân triển lãm tranh đương đại Hàn Quốc tại Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội, 5.4.2001); Ý kiến Bạn đọc: Nguyễn Thị Mai Hiền (Còn nhiều sai quá,- trên sách báo in); Dọn vườn: Mãn Đông (Lỗi biên tập chăng?); Trào phúng: Thơ: Trần Quang Thịnh (Chuyện về tham nhũng), Hồ Văn Khuê (Quan đánh bạc); Văn: Chuyện vui nước ngoài (Mắt từ bi; Đeo kính nhỏ; Cầm tay; Nhà văn với cá; Xe chạy quá chậm, bản dịch?); -- Ngày 17: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 17 /2001: Truyện ngắn: Tạ Duy Thông (Bên rạch cỏ hoang), Bạch Mai (Chuyện đời); Ký: Phạm Thị Ngọc Điệp (Người đàn bà làng biển); “Văn nghệ Trẻ”: Lâm Nguyên (Một “sân chơi” cần thiết); Tản văn: Phương Thảo (Những linh hồn đi đâu?); Thơ: Phan Trung Thành (Một buổi trưa ở quê; Thế kỷ cho em); Thơ: Lê Anh Thu (Về với Thạnh Phong), Cao Tất Tịnh (Ngôi nhà), Hoàng Bình Trọng (Ngẫu hứng), Lê Văn Thiềng (Bạch chùa), Phạm Duy Cường (Thăm mộ Bích Khê), Nguyễn Quốc Văn (Bấy lâu); Phê bình: Trần Hữu Dũng (Chùm thơ “Đăng sơn” của Hồ Chí Minh); Nguyễn Xuân Lạc (Sử thi và ân tình cách mạng,- về trường ca “Theo chân Bác” của Tố Hữu); Tiểu luận: Võ Vĩnh Khuyến (Hai nhân cách văn hóa: Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh); Hồi ký, hồi ức: Phạm Hữu Tùng (Từ làng văn đến sân khấu); Anh chị em đoàn kịch nói Nam Bộ (Còn đâu Kim Cúc “Chuyện bây giờ mới kể”?); Tư liệu: Lan Phương (Viết về các bạn văn bút của Lan Khai, tiếp); Nghệ thuật: họa sĩ Diệp Minh Châu (Tôi say sưa vẽ Bác với lòng đam mê thật sự, Thúc Phương ghi), Đông Lan (Những tấm lòng “Hương cỏ”), PN. Thường Đoan (Cải lương có thể tìm lại khan giả sau vở “Đêm phán xét”), Thanh Thảo (Ban nhạc gõ Phù Đổng sẽ có bước chuyển mới?, - hỏi chuyện nhạc sĩ Đức Dũng); Văn nghệ nước ngoài: Thông tin: Nguyễn Anh Phương (Các nữ đạo diễn điện ảnh); Tr. Lệ Tài (Mấy năm ngắn ngủi của trường phái Dã thú, Fauvism); Trào phúng: Văn: tiểu phẩm: Tiếu Ngọc Dung (Qủy cũng còn phải sợ); Thơ châm: Cà Kê (Tấm danh thiếp); -- Ngày 19: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 20 /2001 (s.2157): Truyện ngắn: Nguyễn Ngọc Tư (Người xưa), Võ Nguyên (Ngàn năm mây trắng); Ký: Nguyễn Văn Thực (Người giải thoát đời tôi); Tạ Doãn Địch kể (Cuộc hội ngộ của hai chị em Bác Hồ, Thế Trường ghi); Nguyệt Tú (Làm phóng viên chụp ảnh Bác); Mai Quốc Liên (Phạm Văn Đồng /1.3.1906 – 29.4.2000/, con người của lịch sử); Phan Quang (Nguyên mẫu ông già trong “Ông già và biển cả” của Hemingway); Phạm Sông Hồng (Chiều Moskva,- các cựu lưu học sinh Việt tại LX. họp mặt đón Tổng thống V. Putin tại Hà Nội, 2.3.2001); Dương Tất Từ (Dịch giả Czech lên Điện Biên,- hỏi chuyện Lukas Sluka, Petr Komers); Truyện ký: Lê Thành Chơn (Vụ án “Tản thất quân dụng” /về chiếc trực thăng UH-1 bị mất cắp/, tiếp); Thơ: Hồ Hồng Trâm, 1948 - 19.4.2001 (Vơ vẩn trong đêm; Xin cha về ăn tết; Cõi ta), Lê Duy Phương (Con người: Khúc I; Khúc II; Khúc IV; Khúc cuối); Sổ tay thơ: Lê Hồng Khánh (Về một bài thơ dịch của Bích Khê: “Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn”); Phỏng vấn: Phan Cự Đệ (Về một nền lý luận, phê bình mác-xít trong thế kỷ XX, P.V. thực hiện); Phê bình: Lê Xuân Đức (Hiểu thế nào cho sát đúng bài thơ “Phỏng Khúc Phụ” của Hồ Chí Minh); Bùi Văn Trọng Cường (Đọc “Lịch sử bốn nền văn học Thụy Sĩ”, Trần Đương dịch, Nxb. VHTT, 2001); Chân dung-tiểu sử: Trương Quang Đệ (Đôi chút kỷ niệm về nhà văn Nguyễn Khắc Thứ); Tư liệu: Phan Bội Châu, 1867-1940 (Công dụng và giá trị của văn chương, tiếp); Tạp văn: Hồ Ngọc Đại (Một bước tiến); Võ Khắc Nghiêm (Khi toàn dân đội mũ nhựa?); Nghệ thuật: NSND Nguyễn Văn Thông (Tôi đã viết kịch bản phim “Con chim vành khuyên” như thế nào?); Tin văn nghệ: T.D. (Hội thảo toàn quốc báo chí viết về Đảng CSVN và công tác xây dựng Đảng), Đ.N. (Giải thưởng VHNT Trịnh Hoài Đức lần 1, Đồng Nai), P.V. (Giải thưởng cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi 1999-2000; Gặp gỡ giới thiệu cuốn “Văn nghệ, một thời để nhớ”, tập thư, ảnh kỷ niệm, các nhà văn đi B những năm 1958-75, Bảo Định Giang sưu tầm, lưu trữ, Nxb. Văn nghệ Tp.HCM., 1996); Văn nghệ, báo chí nước ngoài: Phỏng vấn: Valentina Ivanovna Matviyenko, 1949-, phó thủ tướng LB Nga (Gương mặt nữ đầu tiên, duy nhất trong nội các Nga, V. Starkov thực hiện, Tấn Việt dịch); Trích tiểu luận: P.B. Shelley, 1792-1822, Anh, Pierre Reverdy, 1889-1960, Pháp (Nghĩ về thơ, Ngô Quân Miện dịch); Hồi ký: Anatoly Dobrynin, 1919-2010, cựu đại sứ LX tại Mỹ (Đặc biệt tin cậy, Trịnh Trang dịch, tiếp); Thông tin: Igor Volgin (Dịu dàng Dostoievski, Hồng Hạnh dịch); Xuân Thạch (Một vài gương mặt văn chương Đức đương đại, lược dịch báo Pháp); T.T. (Octavio Paz trong lòng đồng nghiệp); Bình luận: Minh Tâm (Những cái đầu nóng bỏng); Dọn vườn: Đông Viên (Đừng sửa những ý đẹp lời hay!); Ý kiến Bạn đọc: Trần Ngọc Vinh (Bài thơ “Trở lại thiên thai”, Nguyễn Thị Mai, VN. s. 8-2001), Lê Văn Tẩu (Truyện ngắn “Điện thoại”, Thu Loan, VN s. 18-2001), Võ Thị Hạnh Thủy (Truyện ngắn “Dì Phượng”, Nguyễn Uyển, VN s. 17-2001), PGs.Ts. Võ Nhật Thăng, Nguyễn Cảnh Tuấn (Cần có một đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp); Trào phúng: Thơ: Lê Quang Gánh (Loạn …”Bia hơi Hà Nội”!), Đặng Thu Hương (Khó thay); Văn: Chuyện vui nước ngoài (“Cộp cộp cộp”, “cách cách cách”; Đối câu đối; Ông anh cả điếc; Nhận thay; Đâu có say, Sĩ Vinh dịch); -- Ngày 24: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 18 /2001: Hồi ức: Trang Thế Hy (Một nghệ sĩ buồn thích đùa); Ký: Nguyễn Quang Minh (Chợ “di động” ở miền xa); Truyện ngắn: Nguyễn Thị Bích Phụng (Đôi mắt biển); Thơ: Phạm Minh Giang (Đảng), Hoàng Hương Trang (Hoa nắng), Nguyễn Văn Chương (Về sông Hậu), Đặng Hữu Ý (Trước tình yêu và cát); Đạm Thạch (Tháng Chạp, câu thơ còn xuôi ngược), La Quốc Tiến (Khúc vĩ thanh số 1), PN. Thường Đoan (Nửa tình ru ta), Huỳnh Mạnh Tiên (Liu điu hỡi liu điu), Phạm Nguyên Thạch (Trên nền cũ), Mai Văn Phấn (Từ mái nhà…); Sổ tay ngôn ngữ: Huyền Viêm (Về hai chữ “trúc mai”); Tư liệu-chân dung: Nguyễn Mẫn (Một chút tình riêng của Thẩm Thệ Hà); Tiểu luận-phê bình: Hoài Anh (Thơ với hội họa, nhiếp ảnh); Ngô Khắc Tài (Đọc “Cỏ đêm”, tập thơ, Trương Công Thuốt, Nxb. Văn nghệ Tp.HCM., 2001); Văn hóa-Nghệ thuật: PN. Thường Đoan (Ảnh phong cảnh,- đề tài dễ cảm); Tam Tam (Sách thiếu nhi, nỗi buồn còn đó), Nguyễn Duy (Một cuộc chơi ngẫu nhiên không định trước,- về “triển lãm thơ và ảnh nghệ thuật”, với thơ viết trên chiếu lát, tre nứa, mo quạt…Thúc Phương hỏi chuyện), Ánh Tuyết (Kinh doanh ca nhạc, khó hay dễ?, Đông Lan hỏi chuyện); Văn nghệ nước ngoài: truyện ngắn: Guy de Maupassant, 1850-93, Pháp (Trở về, Hinh Hương dịch); Bình luận: Nguyễn Xuyến (Pablo Neruda, nhà thơ trữ tình chính trị lớn nhất của nhân dân Chile và Mỹ Latin), Hồng Thanh (Áp lực kinh phí, - về chương trình ca nhạc-thời trang “Cung đàn mùa xuân” do Hội Âm nhạc Tp.HCM. và HTV tổ chức); Thông tin: Nhị Ngọc (Xứng đôi vừa lứa: Ngôi sao điện ảnh Pierce Brosnan và nhà báo truyền hình K.S. Smith), Nhị Ngọc (Vợ chồng đạo diễn Thụy Điển Ingmar Bergman có con gái trở thành nhà văn,- Linn Ullmann, 1966-); Tr. Lệ Tài (Họa sĩ Toulouse Lautrec: Bất hạnh nhưng vẫn yêu đời); Takeshi Kitano, 1947-, Nhật (Trò chuyện về làm film, Nguyễn Phương Anh dịch, Lê Văn Duy giới thiệu); Nguyễn Thuyên (Những trào lưu lớn trong hội họa hiện đại: /bài 1/: Paul Cézanne, người lĩnh xướng); Trào phúng: Thơ châm: Bảo Kiếm (Tang ma vui!); Văn: tiểu phẩm: Tiếu Nương Nương (Thằng đểu nào kê đơn?), Hoàng Bình Trọng (Có lý!);
-- Ngày 26: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 21 /2001 (s.2158): Sự kiện: P.V. (Khai mạc trọng thể kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa X); Truyện ngắn: Trần Thùy Mai (Thương nhớ Hoàng Lan), Hà Khánh Linh (Lên đồng); Ký: Hoàng Phủ Ngọc Tường (Sử thi và dòng sông), Nguyễn Trọng Tín (Những ông Hai Lúa miền Tây); Hồi ức: Nguyễn Duy (Ngày sau sỏi đá,- về các bạn văn xứ Huế, Trịnh Công Sơn); Truyện ký: Lê Thành Chơn (Vụ án “Tản thất quân dụng” /về chiếc trực thăng UH-1 bị mất cắp/, tiếp); Thơ (tuyển thơ về Huế): Tố Hữu (Nước non ngàn dặm, trích), Nguyễn Khắc Thạch (Trước vườn xưa), Thanh Hải (Mùa xuân nho nhỏ), Nguyễn Trọng Tạo (Ấn tượng Huế), Nguyễn Khoa Điềm (Chiều Hương Giang), Lâm Thị Mỹ Dạ (Đi cùng sông Hương), Ngô Minh (Ngựa đá và những bông hoa cỏ), Hồng Nhu (Uống cùng Huế), Hải Bằng (Tiếng chim), Nguyễn Du (Thu chí; Thu đến), Cao Bá Quát (Hiểu quá Hương Giang; Buổi sáng qua sông Hương); Tiểu luận-nghiên cứu: Vũ Quần Phương (Tâm huyết Trúc Khê trong công việc biên khảo,- nhân 100 năm sinh Trúc Khê Ngô Văn Triện, 22.5.1901-26.8.1947); Ngô Minh (Huế thơ); Hoài Việt (Học suốt đời); Chân dung-tư liệu: Trần Thanh Đạm (Nhà văn Huỳnh Lý, đôi dòng tưởng nhớ); Tư liệu: Phan Bội Châu, 1867-1940 (Công dụng và giá trị của văn chương, tiếp, hết); Tạp văn: Hồ Ngọc Đại (Người, thực thể tinh thần); Nhà văn-nhà trường: Nguyễn Cảnh Toàn (Nhiều Đại học ít sinh viên, hay nhiều sinh viên ít Đại học?); Đỗ Trung Lai (Từ một từ nghĩ đến chuyện dạy và học văn); Văn hóa nghệ thuật: Tô Nhuận Vỹ (Nét riêng văn hóa Huế, nhóm PVMN báo Văn nghệ thực hiện); Hoàng Hữu Quế (Âm hưởng ca trù,- tưởng niệm cố NSND Quách Thị Hồ); Văn nghệ, báo chí nước ngoài: Phỏng vấn: Valentina Ivanovna Matviyenko, 1949-, phó thủ tướng LB Nga (Gương mặt nữ đầu tiên, duy nhất trong nội các Nga, V. Starkov thực hiện, Tấn Việt dịch, tiếp, hết); Anatoly Dobrynin, 1919-2010, cựu đại sứ LX tại Mỹ (Đặc biệt tin cậy, Trịnh Trang dịch, tiếp); V.T. (Putin với người thầy thời sinh viên); Thông tin: Randal Johnson, Mỹ (Văn học ở vương quốc bóng đá Brazil, Lã Thanh Tùng dịch); Đỗ Quyên (Bức vẽ bí ẩn của A.S.Pushkin); Trần Hậu (Giải thưởng Aleksandr Blok; “Báo Văn” /Literaturnaya Gazeta/ có tổng biên tập mới, /Yuri Polyakov, 1954-/; Tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” được hãng Granada Televison của Anh chuyển thể lại; Những tác phẩm của B. Pasternak mà thư ký kiêm người tình của ông là Olga Ivinskaya cất giữ được tòa xử bản quyền thuộc con dâu và chaus gái nhà thơ, được chuyển cho Bản tàng văn học quốc gia Nga); Bình luận: Minh Tâm ( Hận thù và bạo lực); Dọn vườn: Duy Nghĩa (Lười suy nghĩ); Ý kiến Bạn đọc: Hồng Duy (Đôi điều mong đợi ở trang thơ), Hoàng Phúc (Truyện ngắn “Thiên nhiên”, Học Phi, VN s. 19-2001), Cao Tiến Cổn (Truyện ngắn “Xóm Cò”, Tô Đức Chiêu, VN. s. 18-2001), Lê Văn Tấn (“Chuyện riêng của chị”, Nguyễn Thị Vân Anh, VN s. 16-2001), Diệp Minh Luyện (Các truyện “Mùa xưa”, “Ánh sao”, Hoàng Vũ Thuật, VN s. 19-2001), Nguyễn Hùng (Về truyện ký vụ án “Tản thất quân dụng”); Nguyễn Đình San (Một việc cần chấm dứt,- hiện tượng tâng bốc quá đà những tác giả ít được nói tới trước thời đổi mới), Vũ Kim Thủy (Nước ta không chỉ dài,- cầu truyền hình còn quanh quẩn ở một vài địa chỉ); Thơ trào phúng: Sĩ Giang (Phớt lờ!), Ngũ Liên Tùng (Dấu tay ném đá); -- Ngày 31: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 19 /2001: Truyện ngắn: Đỗ Quốc Bảo (Sấm rụng); Truyện đồng thoại: Kim Ba (Trâu thi cười; Bóng cọp; “Triết gia”; Điều bí mật; Bà chị họ); Ký: Từ Phạm Hồng Hiên (Nguyên sơ Vàm Hồ); Thơ: Trần Hữu Dũng (Phác thảo chân dung nhà thơ), Trương Nam Hương (Viết ở Nghi Tàm), Cao Xuân Sơn (Tự sự cát), Phạm Ngọc Cảnh (Yêu như anh yêu); Phạm Bội Anh Thuyên (Đoản thi), Hoàng Thị Bích Thuần (Khoảnh khắc), Trần Hữu Quốc Huy (Cát bụi), Phương Quý (Dòng sông xanh), Trịnh Bửu Hoài (Về Pleiku nhớ bạn), Bình Nguyên Trang (Đợi); Tiểu luận: Hoài Anh (Thơ với âm nhạc); Tư liệu-chân dung: Nguyễn Mẫn (Lê Vĩnh Hòa /1932-67/: Nắng xuân và Tiếng sóng phương Nam); Nghệ thuật: Đông Lan (Nét đẹp của người phụ nữ dân tộc thiểu số,- qua triển lãm ảnh); họa sĩ Nguyễn Quân (Mức hưởng thụ nghệ thuật của người dân ta chưa bằng mức hưởng thụ nghệ thuật của các nước tiên tiến, Thúc Phương hỏi chuyện); Thanh Thảo (Ca sĩ Khánh Duy, 10 năm nhìn lại); PN. Thường Đoan (Dư âm tốt từ giải triển vọng Trần Hữu Trang); Văn nghệ nước ngoài: Truyện ngắn: Saki /Hector Hugh Munro, 1870-1916/, Anh (Người đàn ông biết kể chuyện, Ngọc Trí dịch); Thơ: Werner Lambersy, 1941-, Bỉ (Câu chuyện luân hồi về những chiếc bát, Ngô Tự Lập dịch); Thông tin: Hinh Phượng (Nhìn lại chặng đường 5 thập niên giải thưởng LHF Cannes); Mây Biếc (Jane-Hanoi: Có một anh Trỗi ở Mỹ), Nhị Ngọc (Đạo diễn Anh Michael Radford: từ “Giấc mộng đêm hè” đến Che Guevara); Cẩm Thành (Về chuyện dài và ngắn); Thảo Tuyền (Lễ hội hành hương Kumbh Mela ở Ấn Độ); Trào phúng: Thơ châm: Cà Kê (Chỉ mới “lên ngôi”); Văn: giai thoại: Bạch Bích st. (Giai thoại về A. Dumas); -- Trong tháng 5: tại Hà Nội, tạp chí Nhà văn s. 5/2001: Ký: Thanh Quế (Cảm nhận Điện Biên), Lý Biên Cương (Nẻo trời Vô Tích tôi qua); Truyện ngắn: Võ Hồng Lĩnh (Sự im lặng của ruộng đồng), Bão Vũ (Cây dại bãi tha ma), Võ Thị Xuân Hà (Hoa vu lan); Nguyễn Hồ (Chú bé thổi còi; Mùa mắm còng); Truyện: Đỗ Bích Thúy (Những buổi chiều ngang qua cuộc đời); Thơ: Nguyễn Viết Lãm (Nghe nhạc Chaikovsky; Danub xanh; Sonat Ánh Trăng; Bốn mùa Vivandi); Nguyễn Trọng Tín (Ngủ trọ quê nhà; Chơi núi; Dã quỳ); Thi Hoàng (Giật mình hoa phượng; Trăng ơi; Mưa); Phan Cung Việt (Thủy chung; Bên ngoại; Xóm Khương; Khoảng trống); Nghiên cứu-phê bình: Huỳnh Khái Vinh (Động lực con người và tính xã hội của văn hóa trong chiến lược đổi mới văn hóa của Đảng); Phương Lựu (Tính chỉnh thể của tư duy nghệ thuật); Đỗ Văn Khang (Dấu ấn văn chương cả một thời); Bích Thu (Hữu Mai, người chép sử bằng văn chương); Bão Vũ (Giới thiệu ngắn về nhà thơ Thi Hoàng); Ngô Thảo (Giới thiệu ngắn về nhà văn Nguyễn Hồ /Nguyễn Minh Triết); Trần Văn Mỳ (Giới thiệu ngắn về nhà thơ Phan Cung Việt); Đọc sách: Đỗ Ngọc Yên (Tây Nguyên, nơi tình yêu vẫy gọi); Trao đổi: Phong Lê (Vài lời về bài “Cần nhận định thỏa đáng về một thế kỷ văn học); Chân dung-tiểu sử: Hà Minh Đức (Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê, chân tài); Văn học nước ngoài: Truyện: Viktor Astafyev, 1924-2001, Nga-Xô-viết (Khẩu pháo chiến lợi phẩm; Ngỗng trời bay qua, Đào Tuấn Ảnh dịch và giới thiệu); Bình luận: Đào Tuấn Ảnh (Nhìn lại văn xuôi Nga – Xô-viết viết về chiến tranh);
-- Trong tháng 5: tại Hà Nội, tạp chí Văn nghệ quân đội s. 5/2001: “Đối thoại tháng năm”: Tư lệnh binh Pháp binh, Thiếu tướng Đỗ Quốc Ân (55 năm một chặng đường vẻ vang, tổ phóng viên VNQĐ thực hiện); Tùy bút: Trọng Văn (Trở lại cội nguồn); Ký: Khuất Quang Thụy (Uy danh lừng lẫy), Truyện ngắn: Bùi Thị Như Lan (Núi đợi), Vũ Thảo Ngọc (Búp bê gỗ), Tô Đức Chiêu (Lá bàng xanh ngoài cửa sổ), Trần Thị Trường (Cây lộc vừng nở hoa vông vang), Hồ Tĩnh Tâm (Lính phóng viên mặt trận), Hà Nguyên Huyến (Người thừa kế) Thơ: Nguyễn Đức Mậu (Thăm lữ đoàn Pháo binh), Nguyễn Hữu Quý (Khẩu sơn pháo, hoa vải thiều), Phạm Thanh Quang (Lời ru địa đạo; Cỏ chiến trường), Vũ Quang Tần (Ở ngã ba Đồng Lộc), Phạm Đức (Bom ba càng), Nguyễn Ngọc Oánh (Trở về; Lời ru ban trưa), Nguyễn Trọng Hoàn (Chớp mắt, Cà Mau; Gửi Mã Pì Lèng), Đào Vĩnh (Sông Tô năm tháng), Dương Thuấn (Đêm ngủ Pú Nhung; Cọn nước), Vương Trọng (Giao ca; Nhà quê), Nguyễn Xuân Việt (Cổ sơ), Nguyễn Văn Hùng (Xa xăm), Nguyễn Thế Vinh (Chợ Viềng; Chùa làng); Văn học nước ngoài: truyện ngắn: Maxine Hong Kingston, 1946-, mỹ gốc Hoa (Người đàn bà bèo bọt, Phạm Minh Thảo dịch); Nghiên cứu-phê bình: Thành Duy (Việt Nam - Hồ Chí Minh: nơi giao lưu, hội tụ và phát triển văn hóa Đông - Tây của thế kỷ XX); Nguyễn Văn Long (Thơ Hồ Chí Minh, vẻ đẹp hài hòa trong sự giản dị); Mai Quốc Liên (Hồ Chí Minh - Thơ: Nhân loại - Tự do - Vĩnh cửu); Hồng Diệu (Có gì mới trong “Hồ Chí Minh - thơ, toàn tập”?); Nguyễn Xuân Lạc (Sử thi và ân tình cách mạng,- về trường ca “Theo chân Bác” của Tố Hữu); -- Trong tháng 5: tại Hà Nội, Tạp chí Văn học s. 5 (351), tháng 5/2001: Nông Đức Mạnh (Một thời kỳ mới phát triển đất nước, trích diễn văn bế mạc ĐH X ĐCSVN); Hà Minh Đức (Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ); Nguyễn Thành Thi (Về chất “ký” trong văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Ái Quốc); Bảo Định Giang (Từ “Hịch Trương Định” [của Nguyễn Đình Chiểu] đến thơ văn khóc Trương Định); Trần Đình Sử (Điển cố trong “Truyện Kiều”); Phạm Vĩnh Cư (Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, tiếp, hết); Trần Thị An (Văn bản hóa truyện dân gian Việt Nam, nhìn từ cuối thế kỷ XX); Lộc Phương Thủy (Bước đầu nhận xét về ảnh hưởng của André Gide ở Việt Nam); Nguyễn Nam (Quá trình truyền nhập và lưu hành “Tiễn đăng tân thoại” [của Cù Hựu, 1346-1427, Trung Quốc] ở Việt Nam); Đinh Thị Reo (Mặt trái của đam mê trong một số sáng tác của De Balzac giai đoạn đầu những năm ba mươi thế kỷ XIX); Văn học-nhà trường: Nguyễn Xuân Đức (Không gian nghệ thuật trong một áng ca dao [“Vầng trăng ai xẻ làm đôi”);
|