1996

Tháng 10:

Ngày 3: tại Tp. HCM., tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 261:

Truyện ngắn: Khôi Vũ (Hội làm ma), Tiến Đạt (Mấy người bạn);

Phóng sự: Trần Văn Thưởng, Nguyễn Khắc Lâm (Nghề hàng rong ở nội thành);

Thơ: Trần Huyền Ân (Bức tranh thoáng buồn), Tôn Nữ Thu Thủy (Viết từ mùa hạ), Phạm Khoa Văn (Mùa thu đi qua), Kim Chuông (Viết ở Thuận Vi), Trần Vạn Giã (Lửa hạ), Bùi Kim Anh (Chỉ còn trích đoạn);

Thơ đường luật: Viễn Phương (Mừng thọ GS. Trần Văn Giàu), Quang Tuấn (Bóng xiêu xiêu), Thạch Khê (Nhặt dáng thu đêm), Mai Khê (Hồn thu);

Hoa hàm tiếu (cây bút mới): Truyện: Đoàn Ngọc Đức (Ngoại ơi !);

5 năm mất Lưu Trọng Lư (1911-91): Thanh Vân ndn (Lưu Trọng Lư, con nai vàng ngơ ngác);

Phê bình: V.P.H. (“Ở tận sông Hồng em có biết”, tập truyện ký, Trần Tử Văn, Nxb. Công an, 1995);

Đời sống văn nghệ: Nguyễn Văn Tý (Ai là người viết ca khúc mới đầu tiên đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam,- tưởng nhớ nhạc sĩ Lê Thương, 1914-96); Cao Thụy (“Triển vọng 96”, đôi điều nhìn lại); Trường Khánh (Nói về “tập” và “phần” ở film truyền hình Việt Nam); Lê Cung Trần (Võ Hoàng Như Phúc và tiểu phẩm “Nơi dòng sông dừng lại”); Trần Thanh Lâm (Sơn dầu Nguyễn Thị Bích Nguyệt);

Tin trong nước: Ph.T. (Tưởng niệm nhạc sĩ Lê Thương; Triển lãm “Hành tinh muôn màu”; Ch.trình ca nhạc “Dòng thời gian”; Cuộc thi truyện ngắn trẻ; Liên hoan giọng hát vàng Hà Nội – Asean 1996; Nhiều đoàn nghệ thuật tới Tp.HCM.);

Truyện ngắn: Usman Lins, 1924-, Brasil (Khúc bi thương, Nguyễn Đình Diên dịch);

Văn học nước ngoài: Lê Hoa (Chuyện tào lao thế giới: Sách và ăn nhậu); Thy Huệ (Văn sĩ Stefan Zweig, 1881-1942); Cao Thụy (Viktor Astafyev: Muốn được sống như vậy); Thông tin: Hồ Sĩ Hiệp (Một số điểm nổi bật về tình hình văn học Trung Quốc gần đây);

Mỹ thuật: Gilles Plazy (Balthus, [1908-2001, họa sĩ Pháp gốc Ba Lan] con người luôn luôn quay về tuổi thơ, Ng.Th. tóm lược); Thảo Uyên (Johnny Hallyday sẽ trình diễn tại Mỹ); Lan Anh (Mira Sorvino tự tìm lấy sự nghiệp);

Tin ngoài nước: M.L. (Đạo diễn “Thượng đế phải phát khùng” Jamie Uys, đã chết; Tiểu thuyết được chú ý nhất 1996 ở Mỹ: “Infinite Jesst”, Trò đùa vô tận);

Trào phúng: Văn: Tê Giác (Thừa và thiếu trong câu văn), Huy Phong (Thế Lữ sống lại?); Thơ: Hoàng Anh (Thơ người cắt tóc), Trần Việt Nhân (Bia ôm);

Ngày 4: tại Hà Nội, tại 51 Trần Hưng Đạo, trụ sở Liên hiệp các hội VHNT diễn ra cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ nhân dịp công bố giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật; có mặt một số văn nghệ sĩ được giải (Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Tế Hanh, Học Phi…) và thân nhân những văn nghệ sĩ được giải đã quá cố (Đặng Thai Mai, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Ngọc Phan, Đào Hồng Cẩm, Tào Mạt, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đổng Chi, Văn Cao, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Phan Chánh, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Bá Khoản, Thái Ly, Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp…); chủ tịch UB toàn quốc các hội LHVHNTVN Nguyễn Đình Thi chúc mừng các tác giả được giải và khẳng định “những sáng tạo của các tác giả được giải chính là những nốt son đỏ chói trong đời sống văn hóa đất nước chúng ta”. (1)

Ngày 5: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 40 /1996 (s. 1916):

Truyện ngắn: Nguyễn Kim Châu (Sông trôi), Ngọc Mai (Màu hoa muống biển), Anh Động (Những đồng bạc trắng), Đặng Tấn Đức (Chuyền chuyền), Vũ Đức Nghĩa (Trả thù), Anh Đào (Lời ru);

Ký: Vũ Anh (Thư từ đồng bằng sông Cửu Long), Mai Văn Tạo (Vang bóng chưa xa);

Thơ: Đinh Thị Thu Vân (Điệp khúc; Bài thơ không gởi; Không đề), Diệp Minh Tuyền (Nệm cỏ xanh; Dường như mùa thu; Vết sẹo trên ảnh; Taxi; Hy vọng), Nguyễn Trọng Tín (Mười ba ngàn thước trên cao; Sa mưa II), Phạm Thường Gia (Bóng; Hoàng hôn biển), Song Hảo (Chia tay), Lê Chí (Tiếng chim bìm bịp), La Quốc Tiến (Bài thơ xuôi viết cho Thảo Nguyên), Lê Tân (Chiền Văn Xương Các), Kim Ba (Dáng mẹ), Lê Trung Nguyệt (Cha tôi), Phù Sa Lộc (Với chiều), Nguyễn Kiên Định (Xóm Cái Cùng), Nguyễn Thái Thuận (Chiếc lá và ngã ba sông), Thanh Ngọc (Ngắm trăng Đông Hồ), Tăng Hữu Thơ (Quê mình sông Hậu);

Trao đổi ý kiến: Lê Quý Kỳ (Vấn đề đâu phải chỉ là chuyện chữ nghĩa,- về bài của Trần Thanh Đạm), Nguyễn Cường (Mối quan tâm của hàng vạn người,- về bài về “học thật học giả”);

Tin tức: Đ.B.M. (Gặp gỡ những cây bút viết cho các em,- sáng 19.9 tại Hội nhà văn VN);

Tiểu luận: Bảo Định Giang (Những gương mặt tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và sáng tạo văn học ở đồng bằng sông Cửu Long nửa sau thế kỉ XIX), Hào Vũ (Cần có thêm những trang hồi ký về chiến tranh và cách mạng), Dạ Ngân (Tuyển tập truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long, một tập hợp nhiều ý nghĩa), Ngọc Phượng (Về sự phát triển văn học của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long);

Văn nghệ nước ngoài: bút ký: Viktor Kozhemyako (Phục hưng hay suy thoái?- về văn hóa ở Nga, Lê Sơn dịch); Chiêu Thương (Đối thoại hay xuyên tạc kích động?,- về bình luận văn học trên RFI); Đặng Anh Đào (Gabriel Garcia Marquez và danh sách topten của giới phê bình); Cao Linh (Hai phim về Anh hùng Che Guevara), Nguyễn Đăng (Nhạc sĩ M. Tariverdiev từ trần);

Góc hài hước: Văn: Sĩ Giang (Dẹp ngay mới là!), Văn: D.Q. (Từ thời xa xưa; Ký kết);

Ngày 10 (đến 25/10): Nhận lời mời của Hội các nhà văn Nga (Sojuz Pisatley Rosii), Hội Nhà văn Việt Nam cử đoàn đại biểu do nhà thơ Lò Ngân Sủn, UV BCH Hội dẫn đầu sang thăm và làm việc tại Liên bang Nga. Trong đoàn còn có nhà văn Nguyễn Đức Hiền, nhà thơ Vân Long và chuyên viên đối ngoại Đào Kim Hoa. Kể từ khi Liên Xô tan vỡ đây là lần đầu tiên đại diện Hội nhà văn Việt Nam làm việc với các hiệp hội của giới nhà văn Nga như Hội các nhà văn Nga, Hội Nhà văn Moskva, Hội Nhà văn Sank Petersburg, Khoa phương Đông trường Đại học Sank Petersburg, Hội Nhà văn Nopgorod, và tiếp xúc với các độc giả thư viện vùng Vanda.(2)

Ngày 10 - 23: đoàn nhà văn sang thăm Lào; gồm nhà văn Ma Văn Kháng, ủy viên BCH Hội, trưởng đoàn, nhà văn Hà Đình Cẩn, nhà thơ Mã Thế Vinh. Tại Viên Chăn đoàn đến thăm Bảo tàng cách mạng Lào, Thap Luong, các di tích lịch sử và một số cơ sở kinh thế, văn hóa, các di tích cách mạng ở huyện Vàng Viêng, cánh đồng Chum, hang Nậm Pu. Đoàn được Bộ trưởng Bộ văn hóa thông tin Lào Hôxacan tiếp thân mật. Kết thúc chuyến thăm, Chủ tịch Hội Nhà văn Lào Thoong Khăm và nhà văn Ma Văn Kháng ủy viên BCH Hội NVVN ký kết biên bản ghi nhớ, nhắc lại những điều hai Hội đã thỏa thuận.(3)

Ngày 10: tại Tp. HCM., tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 262:

Truyện ngắn: Hải Ba (Túp lều), Võ Tấn Cường (Hoa sứ cùi);

Bút ký: Thế Phong (Mùa thu về thăm Hà Nội);

Thơ: Hoài Anh (Ngày về Hà Nội, trích), Vũ Xuân Hương (Chiều bên rạch cát sông Hồng), Chu Thăng (Hà Nội mùa thu), Nguyễn Thái Sơn (Phố cũ), Phạm Đức (Trước chùa Quán Sứ), Bùi Công Bính (Hà Nội, hồ Gươm), Lê Quang Miện (Chuông chiều Trấn Quốc);

Hoa hàm tiếu: Truyện: Lữ Kiến Đồng (Bắt đầu từ một đám tang); Nghị luận: Hoa Lan (Làm sao viết văn?); Thảo luận: T.G. (Trở lại với hát ru);

Thơ đường luật: Lý Trần Thuần (Nét tự hào), Lương Trọng Minh (Đau mắt), Phùng Sơn (Cảm tác đêm thơ “Tiếng hát dòng sông”);

Trò chuyện: Huyền Viêm (Trò chuyện với nữ sĩ Mộng Tuyết); Lê Dụng (Bình cũ rượu mới,- trò chuyện với Tú Rua, tức Nguyễn Ngọc Bảo, 1937-, quê Quảng Nam, có thơ đăng trước 1975 với các bút danh Từ Nhân Vũ, Dạ Yến Thu, hiện phụ trách mục thơ đường luật của “Văn nghệ Tp.HCM.”);

Tiểu luận: Hoài Anh (Đọc “Duyên thơ”, tập thơ nhiều tác giả, Nxb. VHTT, 1996);

Nghệ thuật: Lê Cung Trần (“Chuyện năm 3000”), Phổ Tuệ (Hiện thực, nhân cách và sáng tạo);

Tin trong nước: L.D. (Duyên dáng Việt Nam 4; “Kỷ niệm dã quỳ” và những truyện khác của Nguyễn Đạt); K.L. (Hội thi viết chữ đẹp tại NVH Thanh niên; Lớp tập huấn và học dân ca lần 2);

Truyện ngắn: Isabel Allende, 1942-, Chile (Một con đường lên phía Bắc, Đoàn Đình Ca dịch);

Văn nghệ nước ngoài: Lê Hoa (Nhà văn Taiwan Long Ưng Đài, nữ tướng hay nội tướng?); M.L. (Tác phẩm mới nhất của John Updike: The Beauty of the Lilies/ “Trong sắc màu của hoa huệ”, cuốn sử thi về quá trình sụp đổ của một đức tin); Dương Văn Tám (Hội họa Hoa Kỳ những năm đầu thế kỷ XX: Thiên anh hùng ca đô thị); Thảo Nguyên (Cách thanh toán nợ nần,- film “Fargo”);

Tin ngoài nước: Th.H. (Mario Puzo trở lại đề tài mafia; Bản dịch tiếng Hoa “Ulysse” của James Joyce; Văn sĩ Antonio Tabucchi độc thoại to tiếng với… nhân vật của ông);

Trào phúng: Văn: Tê Giác (Khi tài năng dùng không đúng chỗ), Vĩnh Hữu (Gỗ và vàng); Thơ: Vĩnh Bò Cạp (Đừng tưởng bở), Thanh Bình (Cây bút bi hỏng);

Ngày 12: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 41 /1996 (s. 1917):

Truyện ngắn: Bão Vũ (Thung lũng ngàn sương), Phan Cao Toại (Lốt người);

Hồi ký: Hoàng Phủ Ngọc Tường (Ngôi trường lớn của tôi); Nguyễn Tài (Lần đầu đi công tác ở nước ngoài,- về Nguyễn Công Hoan);

Thơ: Thạch Quỳ (Phụ nữ; Bồ kết; Suzdal; Hoa doi; Đêm Giáng sinh), Tạ Hữu Yên (Một người; Hai người; Ba người), Lưu Hoàng Khánh (Bình dị niềm vui; Bóng đá nhi đồng), Trần Khắc Tám (Chim cu cườm kêu trong thành phố; Giữa đỉnh nắng), Kim Chuông (Hỡi màu trăng xa; Tôi đi xem tích chèo này);

Phê bình: Nguyễn Văn Lưu (“99 tình khúc”, thơ Hoàng Cầm, Nxb. Văn học, 1996), Thanh Giang (“Qua miền hoa chân chim”, tập thơ Lam Giang, Nxb. QĐND, 1996),

Trao đổi: Lê Đình Mai (Thư ngỏ gửi ông Văn Như Cương,- về bài “Học thật học giả”);

Văn học với nhà trường: Bùi Đức Ba (Ý kiến nhỏ qua 16 trang sách giá khoa văn 10);

Nghệ thuật: Tất Thắng (“Vết thương ngày cũ”, kịch bản Ngọc Linh, đạo diễn Doãn Hoàng Giang, Nhà hát kịch VN, 1996); Nguyễn Trung (“Từ Thủ đô Hà Nội nhớ về Thủ đô kháng chiến”, film tài liệu, Hãng film Hà Nội, 1996);

Tin tức: V.N. (Kỷ niệm 30 năm thành lập Hội LHVHNT Hà Nội; Mừng sinh nhật thứ 76 nhà văn Tô Hoài; Kỷ niệm 45 năm Nhà hát cải lương VN; Mừng Gs. Vũ Khiêu 80 tuổi; hội thảo “Sân khấu với đề tài lịch sử”; Họp mặt tưởng nhớ nhà thơ Đào Ngọc Vĩnh);

Truyện ngắn: Giovanni Papini, 1881-1956, Italia (Ngày không được trả, Thái Hà dịch); Thơ: Wislawa Szymborska, giải Nobel văn chương 1996 (Bài học; Hài kịch; Nhà ga, Đăng Bẩy dịch);

Văn nghệ nước ngoài: Phan Hồng Giang (Văn hóa trong thời kỳ cải cách mở cửa, ghi nhận từ một chuyến thăm Trung Quốc); Barnstone và Chu Bình (Những viên ngọc sáng của thi nhân Á Đông, kỳ cuối, Nguyễn Hoàng Đức dịch); Hồ Sĩ Hiệp (Cuối đời của nhà văn Ba Kim, Trung Quốc); Lê Huy Bắc (Tác phẩm của một luật sư đoạt giải trong cuộc thi viết giống Faulkner);

Tin ngoài nước: H.A. (Fujiko F. Fujio, họa sĩ truyện tranh “Doremon” qua đời); VN (Tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” dịch sang tiếng Pháp, Nxb. Thế giới, Hà Nội); Minh Trang (Bộ film truyện xưa nhất của Mỹ vừa tìm thấy: “Richarge đệ Tam”, quay 1912);

Góc hài hước: Thơ: Sĩ Giang (Biết chơi), Hồ Văn Khuê (Chết cả trời), Dương Quang (Duyên và nợ);

Ngày 17: tại Tp. HCM., tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 263:

Truyện ngắn: Trần Văn Thưởng (Hư nhân), Thai Sắc (Chim lá rụng);

Bút ký: Hà Văn Thùy (Trong thẳm sâu U Minh);

Thơ: Đông La (Cơn khát), Phan Cung Việt (Mưa xưa), Mai Trinh Đỗ Thị (Chợ quận), PN. Thường Đoan (Tặng mùa thu chưa gặp), Phan Từ Đăng (Trị An biến tấu);

Hoa hàm tiếu: luận: Hoa Lan (Làm sao viết văn, bài 2: Cả một đời người); viết tự do: Trần Thị Thu Hương (Ba của tôi), Lê Thu Hiền (Ngoảnh lại nhìn: tuổi thơ);

Phê bình: Lữ Quốc Văn (Đọc “Thân thế và sự nghiệp Trần Cao Vân”, Tô Đình Cơ biên soạn, Sở VHTT Bình Định, 1995);

Đời sống văn nghệ: Phạm Khánh Cao (Bước đi ban đầu trong giải thưởng Hồ Chí Minh ngành văn học); Huyền Viêm (Cuộc hội thảo về từ điển bách khoa Việt Nam); Hoài Anh (Lê Văn Đệ, 1906-66, họa sĩ Việt Nam đầu tiên nổi tiếng thế giới); Lê Cung Trần (Xe ngựa Sông Bé trong phim truyện,- về film “Ông Hai Cũ”); PN. Thường Đoan (Ca sĩ Hồng Ngọc: “Chỉ hạnh phúc khi đứng trên sân khấu”); Trần Trọng Trí (Phong vị quê hương: Những món ăn đặc sản mang tính văn hóa dân tộc của lưu dân Việt trong tiến trình khai phá đồng bằng Nam Bộ);

Thơ đường luật: Dương Ngọc Uyên (Ngõ thu), Trương Quân (Hoa hồng mùa báo hiếu);

Trao đổi: Phạm Tường Hạnh (Ký ức đôi dòng,- viết thêm với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý);

Tin trong nước: Ph.T. (Giải “Cây bút vàng”; Thi ảnh “Cuộc sống với phụ nữ” lần 5; Đoàn VN tại Tuần châu Á-96; Hoạt động của UB văn hóa thông tin Asean-Việt Nam; Dàn nhạc thính phòng “Ensemble XXI Moscow” diễn tại Tp.HCM.; Thi và triển lãm cá, hoa, kiểng);

Truyện ngắn: Oscar Wide, 1856-1900 (Chim họa mi và bông hồng đỏ, Đoàn Đình Ca dịch);

Văn nghệ nước ngoài: Trần Lệ Tài (Tranh vĩ mô của Jean-Paul Ganem); Lan Anh (Cuốn hồi ký của Brigitle Bardot); Thảo Uyên (Người phóng viên nhỏ tuổi yểu mệnh,- Ennis Beley); M.L. (Cuốn sách làm rúng động nước Đức,- “Những người hành quyết tình nguyện của Hitler. Những người Đức bình thường và cuộc thảm sát Do Thái”, của tác giả Daniel Goldhagen, Gs. ĐH Havard); Mịch La (Điện ảnh Ai-cập và cuộc đối đầu với chủ nghĩa bảo thủ); Cao Thụy (Đôi lời về một nhạc sĩ thiên tài,- nhân 90 năm sinh Shostakovich); Lê Hoa (Chuyện tào lao thế giới: Những trò chơi của nhà giàu, - đấu giá; bảo vệ động vật quý hiếm);

Tin ngoài nước: M.L. (Nữ đạo diễn Christine Pascal tự sát; Thêm 2 cuốn sách về gia đình Kennedy; Sách tiểu sử A. Malraux của Jean-Francois Lyotard);

Trào phúng: Văn: Bạch Bích (Kịch; Không làm gì cả; Làm sao đọc kịp?; Họa sĩ và người đẹp); Thơ: Vân Bích (Tám giờ vàng ngọc);

Ngày 19: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 42 /1996 (s. 1918):

Truyện ngắn: Quý Thể (Thiên nga trắng), Hoàng Nghĩa Thanh (Một mái nhà);

Ký: Thái Hồng Thịnh (Bên dòng Tô Lịch), An Bình Minh (Thực trạng và thách đố,- về môi trường);

Thơ: Lê Huy Quang (Nha Trang; Thu mơ; Mùa lũ), Mai Văn Phấn (Bài ca buổi sớm; Tự thú trước cánh đồng), Hương Đình (Thiên di; Nghịch cảm), Thi Hoàng (Chơi núi; Cô đơn ca; Niệm một cô gái chết trẻ; Nguyên bản);

Hội nghị văn học đồng bằng sông Cửu Long (Vĩnh Long, 8-9.10.1996): Võ Văn Kiệt (Thư của Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Hội nghị văn học đồng bằng sông Cửu Long); Hà Văn Thùy (Trăn trở một vùng văn học, tường thuật); Hữu Thỉnh (Đẩy mạnh sáng tác văn học đồng bằng sông Cửu Long tương xứng với nhiệm vụ xây dựng con người trong giai đoạn mới), Nguyễn Khoa Điềm (Tiếp tục tìm kiếm không mệt mỏi vào đời sống),

Trao đổi: Nguyễn Đức (Một vấn đề cần quan tâm trong bài học giả, học thật của Phạm Việt Hưng);

Phê bình: Nguyễn Khắc Phê (“Âm vang thời chưa xa”, hồi ký Xuân Hoàng, Nxb. Văn học, 1996);

Dọn vườn: T.N.T. (Dọn vườn nhà,- diễn đạt vô lý trong một bài về nhà văn Ba Kim trên V.N.);

Nghệ thuật: P.V. (“Xứ Mường”, film tư liệu, Hãng film tài liệu khoa học và Trung tâm KHXH-NVQG hợp tác thực hiện); Hồng Phi (“Mùa thu Hà Nội”, chương trình ca nhạc của các nghệ sĩ VN và Asean);

Tin tức: Trường Đặng (Gặp gỡ các họa sĩ vẽ cho báo Văn nghệ, 30.9.96 tại toàn soạn); P.V. (Khai mạc trại sáng tác đồng bằng sông Hồng, 5.10.96); P.V. (Liên hoan film VN lần XI); PV (Triển lãm tranh khắc Trung Quốc tại Bảo tàng Mỹ thuật VN); Nguyễn Mạnh Hào (Bà Carmen Doucet, 85 tuổi, Pháp, vừa cho ra mắt tiểu thuyết đầu tay “Le Cheval de bois” /Ngựa gỗ/); PV (Bộ film truyện Nhật phát sóng ở VN sau “Oshin” là “Vận mệnh”);

Truyện ngắn Jorge Luis Borges, 1899-1986, Argentine (Borges và tôi; Bông hồng vàng; Tấm huy chương vàng, Quang Anh dịch);

Thơ Thái Lan: Thirasat Phairiphinat (Trong thế giới nháo nhào văn hóa, Phan Thanh Ba dịch), Linchong Choroipraxot (Thợ xây, Phan Thanh Ba dịch);

Văn nghệ nước ngoài: Thông tin: Đài Ích Yến, Trung Quốc (Lỗ Tấn và giải Nobel văn học, Trinh Bảo dịch); Sukhon Ponpatpichan, Thailand (Thơ Thái Lan những năm gần đây, Phan Thanh Ba dịch);

Góc hài hước: Thơ: Lê Kim (Hà…lội), Thanh Viên (Hóa đơn đỏ; Rửa), D.Q. (Chọn vai);

Ngày 21: tại Cẩm Phả, Quảng Ninh, nhà văn Võ Huy Tâm qua đời (28.12.1926 – 21.10.1996) tại nhà riêng. Sinh tại quê: xã Gia Hòa, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định, từ nhỏ đã theo gia đình ra sống ở vùng mỏ Quảng Ninh. Lớn lên đi làm thợ mỏ, tham gia tổ chức Công nhân cứu quốc (1941-42), làm cán bộ công đoàn rồi được điều động lên Việt Bắc công tác trong cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1950), làm việc ở sở Vận tải và báo “Công đoàn vận tải”. Sau 1954 chuyển về cơ quan Hội Văn nghệ VN. Là hội viên Hội Nhà văn VN (từ 1957), từng là ủy viên Ban chấp hành (khóa I, và II). Tác giả các sách đã in: “Vùng mỏ” (tiểu thuyết, 1953), “Kể chuyện mỏ thời Tây” (truyện thơ, 1956), “Chiếc cán búa” (tập truyện ngắn, 1958), “Ngõ ngang xóm thợ” (truyện vừa, 1960), “Những người thợ mỏ” (tiểu thuyết, 1961), “Đi lên đi” (tiểu thuyết, 1971), “Gánh chèo mảnh” (tập truyện ngắn, 1974), “Măng bão” (truyện thiếu nhi, 1980), “Trăng bão” (tập truyện, 1980), “Rượu chát” (tiểu thuyết, 1981), “Vỉa than lớn” (tiểu thuyết, 1983), “Hòn gạch chịu lửa” (tập truyện ngắn, 1984), “Hạt trai” (truyện, 1987). (4)

Ngày 24: tại Tp. HCM., tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 264:

Truyện ngắn: Phạm Nghi Dung (Đôi chiếu cưới), Trần Huyền Ân (Trâu què ngó lọ tương);

Bút ký: Đỗ Văn Phác (Sơn Tinh giữa đời);

Hồi ký: Phạm Khánh Toàn (Người thương đã đi xa,- về nhạc sĩ Lê Thương);

Thơ: Thu Lan (Mùa thu nhớ anh), Phạm Mạnh Hiên (Bóng chiều; Một lần qua phà Rạch Miễu; Ở bên này Cồn Tiên; Rêu xanh; Khuya mơ; Ngôi nhà của H. ở Bình Hưng Hòa; Ngoại ô), Thanh Vũ (Tĩnh vật; Thơ ghi số), Hoài Việt (Quê nội của con), Hải Từ (Mùa xa vắng), Vũ Hồng (Bong bóng mưa);

Thơ đường luật: Xuân Thái (Nỗi niềm cô quán), Mạnh Hồ (Sang thu), Ngu Nhân (Sương khói), Nguyễn Đức Mậu (Hương quê);

Hoa hàm tiếu: truyện: Võ Tấn Cường (Bến trăng); luận: Hoa Lan (Làm sao viết văn, bài 3: Cần và đủ);

Tiểu luận: Hồ Ngọc Diệp (Nhà văn và sự thể hiện cái tâm, cái tài);

Phê bình: Trần Hữu Dũng (Đọc “Tuyển truyện ngắn hiện đại Nhật Bản”, Nhật Chiêu chủ biên, Nxb. Trẻ, 1996);

Tư liệu-hồi ức: Lương Trọng Minh (Hai bài thơ độc vận, hai ý nghĩa lịch sử);

Trao đổi: Bùi Hoàng Tám (Không nên làm rắc rối những điều đơn giản,-về 1 bài trên “Kiến thức ngày nay”); Trần Thanh Địch (Trở lại bài về Nguyễn Trọng Cẩn, SGGP, 26/6/96);

Đời sống văn nghệ: Thiên Tân (Người họa sĩ của phim); Kỳ Anh (Nghệ sĩ nhiếp ảnh An Giang trong cơn lũ); Lê Cung Trần (Duy Trường – Hoàng Oanh: Về một miền quê yêu mến); T.T.L. (Triển lãm tranh Joanna Gregores và Mai Ngọc Sương);

Tin trong nước: Ph.T. (Film “Gió quan miền tối sáng”; Hội nghị văn học đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình mới của đài phát thanh Tp.HCM.; Thị trường băng nhạc sôi động; Kịch Hà Nội đến Tp.HCM.; CLB nhiếp ảnh Hải Âu; Hoạt động CLB thơ nhân ngày LH phụ nữ 20.10); T.P. (Bế giảng trại bồi dưỡng viết ca khúc);

Truyện ngắn: Guido Piovene, 1907-74, Italia (Cô gái con bà thợ may, Ng.Th. dịch);

Văn nghệ nước ngoài: Trần Thanh Lâm (Vài cảm xúc từ triển lãm tranh khắc Trung Quốc); K.T. (Ermitage, viện bảo tàng tranh vĩ đại); Trần Hậu (Chín tuần rưỡi khác của Mikki Rurk; Nỗi niềm của Sharon Stone); Bích Ngọc (Đôi bạn diễn trẻ già lần đầu đóng film chung,- Liv Tyler);

Tin ngoài nước: M.L. (Từ điển Petit Larousse 97; Truyện cổ VN tại Pháp; Cô bé gái làm xúc động khán giả Pháp,- film “Ponette”);

Trào phúng: Văn: Phạm Thành Chung (“Nhà mình”); Thơ: Lê Tam Anh (Tôi xin keo), Hồ Tiêu (Xin người cứ việc);

Ngày 26: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 43 /1996 (s. 1919):

Nhà nước công bố giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I: Thơ (một số tác giả được giải HCM): Xuân Diệu (Những đêm hành quân), Tố Hữu (Một tiếng đời), Tế Hanh (Em chờ anh), Huy Cận (Nhìn lại chặng đường thơ), Nguyễn Đình Thi (Nhớ); tường thuật: Đỗ Minh (Gặp gỡ nhân dịp Nhà nước công bố giải thưởng Hồ Chí Minh); P.V. (Viếng mộ các nhà văn được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh); Học Phi (Vài nét về việc xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước cho ngành văn hóa nghệ thuật);

Phê bình (những gương mặt được giải): Đinh Quang Tốn (Chế Lan Viên đổi mới thơ), Ngọc Trai (Nguyễn Tuân như thế đấy!), Hoàng Dạ Vũ (Ngô Tất Tố và những luống cày), Kim Lân (Nguyên Hồng, người thầy người bạn người anh), Nguyễn Trường (Nam Cao đã từng viết như thế), Huy Anh (Nguyễn Huy Tưởng: văn học và cách mạng), Tô Hoài (Những trang viết của tôi), Đăng Bẩy (Hồn thơ của một người thầy,- về Tôn Thất Tùng), trích báo “Thép mới” 1949 (Hải Triều nói chuyện thơ), Đặng Anh Đào (Một mái ấm trên các nẻo đường,- về Đặng Thai Mai);

Ký: Hoàng Minh Tường (Ngôi nhà của những tài năng,- nhà 65 Nguyễn Thái Học, Hà Nội), An Bình Minh (Thực trạng và thách đố, tiếp, hết);

Truyện ngắn: Hồ Tĩnh Tâm (Người cùng làng), Phạm Ngọc Cảnh (Hoa của đất);

Thơ: Nguyễn Thị Hồng (Tự khúc), Đoàn Thị Ký (Thu cảm; Tạ lòng), Nguyễn Bảo Chân (Sen thu; Huế), Dương Kỳ Anh (Chân quê; Trăng quê), Nguyễn Ngọc Quỳnh (Bố; Lặng lẽ cuộc thi);

Nghệ thuật: Lê Quốc Bảo (Triển lãm mỹ thuật Thủ đô năm 1996);

Văn nghệ nước ngoài: Truyện: Antonio Tabucchi, 1943-2012, Italia (Mộng mị của người giàu tưởng tượng: Cái chết được dự báo trước của Garcia Lorca; Đêm cuối cùng của Sigmund Freud; Chống ta ngươi sẽ chẳng thể làm được gì,- về Francisco de Goya, Nguyễn Trung Đức dịch). Thơ: A. S. Isma, 1941-, Bruney, giải thưởng văn học Asean 1996 (Bài ca quê hương; Pháo đài đá; Đối diện với lịch sử, Đào Kim Hoa dịch);

Thông tin: T.L.T. (Gia đình Gallimard); Thái Hà (Khách của Hội Nhà văn,- Gs. Ngô Nguyên Mại từ VHLKH Trung Quốc);

Góc hài hước: Thơ: Hồ Văn Khuê (Chủ quan), Ngũ Liên Tùng (Lang “băm” thuốc “phò”); Văn: Thanh Hoàng sưu tầm (Truyện hài hước Đức);

Ngày 30: tại Phủ Chủ tịch, Hà Nội, diễn ra lễ công bố và trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật và văn học nghệ thuật đợt I. Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Nguyễn Việt Dũng đọc danh sách các nhà khoa học, văn nghệ sĩ được tặng giải. Chủ tịch nước Lê Đức Anh: “Hôm nay thay mặt Đảng và Nhà nước, tôi vui mừng được trao giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I cho các nhà khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và các văn nghệ sĩ đã có công trình, cụm công trình và tác phẩm, cụm tác phẩm đặc biệt xuất sắc mà Hội đồng giải thưởng các cấp đã tuyển chọn và được Chính phủ xét trình”. Chủ tịch lần lượt trao 77 giải thưởng cho các nhà khoa học, văn nghệ sĩ hoặc thân nhân những người được tặng giải đã quá cố. Thay mặt các trí thức được tặng giải thưởng, Gs. Trần Văn Giàu, nhà thơ Huy Cận phát biểu ý kiến, cảm ơn lãnh đạo Đảng và Nhà nước về giải thưởng này, nguyện tiếp tục có những cống hiến mới vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các lãnh đạo cấp cao có mặt tại buổi lễ như TBT Đỗ Mười, cố vấn Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Mặt trận TQVN Lê Quang Đạo, các vị Lê Khả Phiêu, Đoàn Khuê, Nguyễn Đức Bình, Phạm Văn Trà, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp… sau lễ chính thức đã nán lại trò chuyện với các trí thức, chúc mừng niềm vui chung này. (6)

Ngày 31: tại Tp. HCM., tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. s. 265:

Truyện ngắn: Tiêu Đình (Kinh tế thị trường), Minh Hương (Ngu ngơ);

Phóng sự: Việt Hòa (Đua xe: đùa với tử thần);

Thơ: Đỗ Thị Thanh Bình (Thu Sài Gòn), Võ Nguyên (Trưa miền Tây), Hồ Thanh Điền (Ba mùa lụt lớn), Phạm Vinh Ca (Thức cùng lũ), Lam Giang (Ba hồ cảm tác), Tô Nhược Châu (Thơ gởi họa sĩ Dương Tấn Hồng), Phan Trọng Hiền (Mưa ngoài quán cóc);

Thơ đường luật: Mọc Đình Nhân (Tĩnh lặng), Lưu Xông Pha (Chiếc lá mùa thu), Trịnh Thế (Một chút tâm tư), Như Anh (Về biển nhớ người);

Hoa hàm tiếu: Văn: Nguyễn Thị Bích Ngọc (Khi đường đi gần tới đích); luận: Hoa Lan (Làm sao viết văn, bài 4: Kinh nghiệm viết dở);

Phê bình: Khổng Đức (Đọc “Thơ Đường”, Khương Hữu Dụng dịch, Nxb. Đà Nẵng, 1996);

Tiểu luận: Trần Văn Thưởng, Đặng Tuấn Khanh (Vấn đề “khai trí”, “chấn khí” đặt ra ở Việt Nam từ non trăm năm trước một góc nhìn);

Đời sống văn nghệ: Trần Hữu Dũng (Mạch sống của Đồng Tháp vẫn cuồn cuộn chảy); Huy Thái (Phương pháp sáng tác nào miễn có lợi cho đất nước,- về cuộc gặp nhà nghiên cứu Trung Quốc Ngô Nguyên Mại); Quỳnh Nhiên (Xem vở “Khoảng trống” của Nhà hát kịch Hà Nội); Kỳ Anh (Xem tập ảnh “Quê hương Việt Nam”, Nxb. Văn nghệ Tp.HCM.);

Tin trong nước: K.L. (Lớp nghệ thuật nói trước công chúng; Buổi trình diễn nghệ thuật múa; Chủ đề Bảy sắc cầu vồng tại NVH Thanh niên Tp.; “Sân khấu quần chúng” thứ 15; Sân khấu thể nghiệm tuồng cổ; Thi kịch bản sân khấu hài 96);

Truyện ngắn: Miguel Delibes, 1920-2010, Tây Ban Nha (Trong một đêm như thế, Đoàn Đình Ca dịch);

Tiểu luận: Dương Văn Tám (Tro tàn trong điện Panthéon,- về hiện tượng André Malraux);

Văn nghệ nước ngoài: trích K. Paustovsky, Nga (Nghệ thuật ngắm nhìn thế giới, K.T. dịch); Ng. Th. (Bảy người đàn bà trong đời Picasso); Bích Ngọc (Kịch bản gốc của Eszterhas); Thảo Uyên (Ngôi sao mới Jenifer Aniston); Th.H. (Cuốn tự thuật của Phoolan Devi: Nữ hoàng của những kẻ cướp); Lê Hoa (Chuyện tào lao thế giới: Ai đòi nam nữ bình quyền?);

Tin ngoài nước: M.L. (Picasso và chân dung; Lại những sách về gia đình J.F.K.; Họa sĩ Pháp gốc Hoa Zao Wouki triển lãm tranh tại Pháp);

Trang trào phúng: Văn: Hiền Ba (Nhà danh họa và gã thợ giầy); Thơ: Tú Rua (Tấm cạc-vi-dít), Thạch Khê (Bác sĩ như ông), Thanh Cao (Bão lụt);

Ngày 28: nữ văn sĩ Thụy Điển Bodil Malmsten (19.8.1944 – 5.2.2016) thăm Việt Nam theo chương trình trao đổi giữa hai Hội Nhà văn Việt Nam và Thụy Điển do quỹ SIDA (Quỹ phát triển quốc tế Thụy Điển) tài trợ. Nhà văn Bodil Malmsten làm việc với báo Văn nghệ (28.10) và dự buổi gặp gỡ thân mật giữa Hội Nhà văn Việt Nam với các nhà văn, thân nhân các nhà văn được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (31.10).(6)

Ngày 31: tại Hà Nội, lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam gặp mặt các nhà văn và thân nhân nhà văn được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Tổng thư ký Nguyễn Khoa Điềm thay mặt các nhà văn cả nước chúc mừng các nhà văn được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, niềm vinh dự chung của các nhà văn Việt Nam, niềm tự hào vì sự đánh giá cao của Đảng và Nhà nước đối với những người cầm bút. Trong không khí thân mật của buổi gặp gỡ, nhà thơ Tố Hữu xúc động nhắc lại một vài ký ức, như ngày Nam Cao đi vào vùng địch hậu, nhắc đến Ngô Tất Tố “nhà nho học thâm thúy nhưng văn phong rất hiện đại”, nhắc đến Nguyễn Công Hoan với cái cười có vị nước mắt, “Chekhov của Việt Nam”, nhắc đến lần đầu gặp Nguyễn Tuân hồi 1946 ở nhà thủy tạ bờ Hồ Gươm… Trung tướng Nguyễn Xuân Trường con trai nhà văn Nguyễn Tuân, ông Nguyễn Tài, nguyên Tổng cục trưởng Hải quan, con trai nhà văn Nguyễn Công Hoan đã nói lời cảm tạ với Hội.(7)

Ngày 31: tại Thành phố HCM., Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh tiến hành Đại hội lần thứ IV; Đại hội đã bầu nhà thơ Viễn Phương làm Chủ tịch Hội, nhà văn Anh Đức và nhà điêu khắc Diệp Minh Châu làm Phó Chủ tịch. Bằng phương thức hiệp thương với các Hội chuyên ngành, một BCH gồm 48 ủy viên đã được thông qua cùng với Đoàn Chủ tịch gồm 14 ủy viên, trong đó có 8 Tổng thư ký các Hội chuyên ngành.(8)

Trong tháng 10: tại Hà Nội, tạp chí Tác phẩm mới s. 10/1996:

Truyện ngắn: Nguyên Hương (Nguồn cội lênh đênh), Nguyễn Phúc Lộc Thành (Táo vàng tục lụy), Trang Hạ (Chiều im lặng), Nguyễn Tuấn (Ngày cuối tuần), Nguyễn Thị Châu Giang (Lạc cầm), Nguyễn Trường (Người nối dõi); Truyện dự thi: Nguyễn Đỗ Phú (Cầu vồng đi đón cơn mưa), Trần Chinh Vũ (Bộ sưu tập của người đàn bà);

Ký: Trịnh Đình Khôi (Khát);

Thơ: Nguyễn Lương Ngọc (Hội họa lập thể; Qua đêm), Trương Nam Hương (Thành phố tuổi thơ; Chiều Hà Nội và em; Viết bên thềm heo may), Giáng Vân (Biến tấu; Tháng chín; Không đề);

Tiểu luận (Văn xuôi trẻ mười năm qua): Bùi Hiển (Sinh sắc truyện ngắn), Nguyễn Kiên (Chớ nên dễ dãi khi ngồi trước trang viết), Xuân Thiều (Thử bàn về tài năng), Ngọc Bái (Văn học và tuổi trẻ miền núi); (Ý kiến nhà văn trẻ): Hồ Anh Thái (Tôi chỉ chọn một thứ để dấn thân), Nguyễn Thị Thu Huệ (Vẫn mong viết và mong được yêu mến), Phạm Ngọc Tiến (Viết về chiến tranh: quan trọng không phải là từng trải), Y Ban (Viết về sự đòi hỏi của bản thân), Võ Thị Hảo (Viết văn là một việc làm giản dị), Nguyễn Bình Phương (Tôi viết theo nhu cầu tự thân);

Chân dung nhà văn: Cẩm Lai (Thúy Bắc);

Thông tin: Trương Huyền (Trường viết văn Nguyễn Du qua 5 khóa học), Trương Chính, Ông Văn Tùng (Tô Thức ở Hàng Châu);

Đọc sách: Nguyễn Văn Kha (Tuổi trẻ hôm nay trong văn của Phan Thị vàng Anh; Đọc Phan Triều Hải);

Văn học nước ngoài: Truyện ngắn: Roberto Arlt, 1900-42, Argentine (Chủ nhật; Sau bữa ăn trưa, Thái Hà dịch)

Trong tháng 10: tại Hà Nội, tạp chí Văn học nước ngoài, s. 5:

Truyện ngắn: B. Hrabal, 1914- (Đôi mắt kim cương, Phạm Thành Hưng dịch; Ông chưởng khế, Phạm Thành Hưng dịch; Beatrice, Đoàn Tử Huyến dịch; Một chuyện tình, Phạm Thành Hưng dịch; Những người vui chuyện, Phạm Thành Hưng dịch); Truyện ngắn, Phạm Thành Hưng giới thiệu, Đoàn Tử Huyến dịch);

Tiểu thuyết: Phùng Ký Tài, 1942-, Trung Quốc (Gót sen ba tấc, Phạm Tú Châu giới thiệu và dịch);

Thơ: Cố Thành / Gu Cheng, 1956-1993, Trung Quốc/ (Tôi là một đứa trẻ tùy hứng; Gió trộm mất mái chèo của ta; Xa và gần; Đường cong; Bóng núi; Biển phân cách, Nghèo, có một cái mũi lạnh ngắt, Trần Đình Sử giới thiệu và dịch); Andrey Voznesensky, Nga (Độc thoại của Marilyn Monroe; Năm mới ở Rome; Vô đề; Vô đề; Vô đề; Đêm; Goya!; Chín mươi phần trăm; Mẹ nói; Người đàn bà dạo tháng tám; Bài thơ bóng đá, Anh Ngọc giới thiệu và dịch);

Tiểu luận-phê bình: Nguyên Ngọc (Về cuốn “Độ không của lối viết” của R. Barthes); Phạm Thành Hưng (B. Hrabal, người kể chuyện đời thường);

Đời sống dịch thuật: Thúy Toàn (Ông đồ dịch thơ văn Pháp,- về Vũ Đình Liên- dịch giả); Trần Thanh Đạm (Vài ý kiến về bản dịch ‘Văn tâm điêu long’);

Thi dịch thơ, thơ thi dịch: Anh Ngọc, Đỗ Quyên, Phạm Nguyên Phẩm, Cao Giang, Thùy Chi-Đặng Hiền (Các bản dịch bài thơ của N. Rubtsov); Lê Kỳ Anh, Ngô Văn Phú, Hà Khánh Linh, Nguyễn Lương Vân, Xuân Tửu (Các bản dịch thơ P. Verlaine); Ra đề dịch thơ (Nguyên tác bài “Tiêu thạch” của Ngãi Thanh, Trung quốc);

Bách khoa văn học”: Phương Lựu (Góp vào bài giảng “Tỳ bà hành”),

Tư liệu: A. S. Mikoyan (Hội nghị lần thứ nhất Hội nghiên cứu dịch thuật châu Âu, Ngân Xuyên dịch), V.H. (Những cây bút kiệt xuất nhất thế giới); Vũ Huy Quang (Vài ý kiến nhỏ về một đề tài lớn: dịch thuật);

Trong tháng 10: tại Hà Nội, tạp chí Văn nghệ quân đội, s. 10/1996:

Phỏng vấn: Lò Văn Nhài, phó Tư lệnh QK II (Sức mạnh từ ngọn nguồn, Khuất Quang Thụy lược ghi);

Truyện ngắn: Vũ Hồng (Tiếng chuông trôi trên sông), Nguyễn Thị Tuyết (Thiên đường của ông nội), Thu Loan (Một ngày của ký ức), Hữu Phương (Ả Chắt Thuận), Cao Chiến (Xa rồi mùa đông), Cao Tiến Lê (Láng giềng);

Thơ: Chính Hữu (Dọc theo tường điện Kremlin), Đàm Chu Văn (Bà mẹ anh hùng), Tùng Bách (Tự khúc), Mai Thìn (Cánh chuồn tuổi thơ), Lý Hoài Xuân (Chị tôi; Những liệt sĩ chưa tìm ra mộ), Ngọc Bái (Bến Âu Lâu ngày ấy; Vũ hội dân gian), Hải Đường (Gặp lại), Nguyễn Ngọc Oánh (Trăng; Cây cải về trời), Nguyễn Văn Chương (Với Cần Thơ), Tô Nhuần (Trước biển), Thành Đức Trinh Bảo (Nhớ), Trần Quang Tiến (Xa thầy giáo cũ), Quang Đãi Trần Văn (Sa lệch), Lương Hiền (Tìm bạn), Trịnh Minh Châu (Với Huế), Bùi Văn Bồng (Bến sông mưa), Thanh Tùng (Di tích chiến tranh), Thi Hoàng (Đêm Phủ Lý), Lê Thị Mây (Từ thương đến nhớ), Nguyễn Chuông (Quê tôi), Dương Nguyên (Lời đưa tiễn), Thúy Bắc (Gió sớm; Trước mộ mẹ);

Văn nghệ nước ngoài: Truyện: Phùng Ký Tài, 1942-, Trung Quốc (Người thông minh tuyệt đỉnh, bản dịch: Vũ Công Hoan);

40 năm V.N.Q.Đ.”: Trần Bạch Đằng (Nâng sự tích người lính lên bình độ luân lý), Mai Ngữ (Bạn bè gặp lại); Vũ Sắc (Hồi ức ‘mini’ số 4 Lý Nam Đế); Trần Đăng Khoa (Các phóng viên “Văn nghệ quân đội” gặp bạn đọc Quân khu II);

Tiểu luận, phê bình: Đinh Thị Minh Hằng (Công bằng với lịch sử,- các ý kiến về hình thức, phong cách nghệ thuật trước thời đổi mới); Lý Hoài Thu (Thời gian, đời người, nhịp sống trong thơ Xuân Diệu trước 1945); Nguyễn Đức Mậu (Những bức thư, những dòng thơ trên bàn sơ khảo),

Thông tin: (Tác phẩm văn học nghệ thuật được giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I), P.V. (Thời sự văn nghệ);

Trong tháng 10: tại Hà Nội, Tạp chí Văn học s. 10 (296):

Kỷ niệm 40 năm thành lập khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia:

Đỗ Đức Hiểu (Đọc ‘Bướm trắng’ của Nhất Linh); Hà Minh Đức (‘Điêu tàn’ và tâm hồn thơ Chế Lan Viên); Phan Cự Đệ (Ảnh hưởng của văn học Pháp và văn học Anh vào văn học Việt Nam từ 1930); Lê Đình Kỵ (Tình nghĩa từ ‘Truyện Kiều’); Đặng Thị Hạnh (Văn học trinh thám phương Tây, cận văn học và văn học ‘đích thực’); Lê Hồng Sâm (Xã hội thuộc địa trong ‘Một con đập ngăn Thái Bình Dương’ của Marguerite Duras); Bùi Duy Tân (Bàn thêm về văn bản và tác giả bài thơ ‘Nam Quốc sơn hà’); Nguyễn Trường Lịch (Thi pháp tự sự và mối quan hệ giữa lịch sử với hư cấu trong tiểu thuyết của Lev Tolstoy); Mã Giang Lân (Sự hình thành các bài thơ); Nguyễn Bá Thành (Khoa văn học vào chặng đường mới); Trần Khánh Thành (Huy Cận với sự cảm nhận thời gian); Phạm Thành Hưng (Khả năng đối thoại của một thiên tiểu thuyết,- về cuốn ‘Công dân Brych’ của Jan Otčenášek, 1924-1979, Czech)

Trần Ngọc Vương (Một số vấn đề lý luận khi nghiên cứu văn chương Nho giáo Việt Nam); Đoàn Đức Phương (Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính trước cách mạng tháng Tám);

Tin tức: P.V. (Giải thưởng Hồ Chí Minh);

(1)(1) Đỗ Minh: Gặp gỡ nhân dịp nhà nước công bố giải thưởng Hồ Chí Minh // Văn nghệ, Hà Nội, s. 43 (26.10.1996), tr. 2.

(2)(2) P.V.: Đoàn nhà văn Việt Nam sang thăm Liên bang Nga // Văn nghệ, Hà Nội, s. 46 (16.11.1996), tr.15; Vân Long: Đến Nga, mùa thu vàng // Văn nghệ, Hà Nội, s. 48 (30.11.1996), tr. 8-9.

(3)(3) M.H.: Đoàn nhà văn Việt Nam thăm Lào // Văn nghệ, Hà Nội, s. 49 (7.12.1996), tr.8; Hà Đình Cẩn: Nhớ Xiêng Khoảng (bút ký) // Văn nghệ, Hà Nội, s. 49 (7.12.1996), tr.8.

((4) Tin buồn: nhà văn Võ Huy Tâm qua đời // Văn nghệ, Hà Nội, s. 44 (2.11.1996), tr. 4.

(6)(6) P.V.: Lễ công bố và trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I // Văn nghệ, Hà Nội, s. 44 (2.11.1996), tr. 2-3; Hồng Tư: Tổ chức trọng thể lễ trao giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kỹ thuật, văn học và nghệ thuật // Văn nghệ Tp.HCM., Tp.HCM., s. 266 (7.11.1996), tr. 3.

(6)(6) H.B.: Nữ văn sĩ Thụy Điển Bodil Malmsten sang Việt Nam // Văn nghệ, Hà Nội, s. 45 (9.11.1996), tr.15

(7)(7) H.P.: Hội nhà văn gặp thân mật các nhà văn được tặng giải Hồ Chí Minh // Văn nghệ, Hà Nội, s. 45 (9.11.1996), tr.2.

(8)(8) V.P.: Đại hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Tp.HCM. // Văn nghệ, Hà Nội, s. 45 (9.11.1996), tr.15