1998
Tháng 10: -- Ngày 1: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. bộ mới, s. 35/ 1998: Truyện ngắn: Tiến Đạt (Làng Châu); Ký: Nguyễn Quốc Trung (Tín đồ đạo Tỳ), Phạm Thành Long (Ánh sáng lòng,- về Lê Thanh Sơn, tác giả khiếm thị, giải nhì cuộc thi thơ thiếu nhi Bến Tre 1998); Hồi ký: Viễn Phương (Chia tay nhau ngày ấy…- về Lê Duy Nhuận, phó ban tuyên huấn đặc khu Sài Gòn-Gia Định thời 1954-75); Thơ: Trần Thị Thắng (Hoa ngang trái), Bùi Kim Anh (Cỏ trắng), Hoàng Hương Trang (Hoa rau muống), Trà Ly (Một mình ngẫm nghĩ), Mai Văn Phấn (Fax cho em), Cao Xuân Sơn (Linh cảm; Nhật ký ngày mưa); CLB thơ Đường luật: Tố Phương (Đêm thu vấn nguyệt), Trần Minh (Vẹn trước sau), Lý Văn Thắng (Duyên văn), Long Châu (Đồi Tức Dụp), Trúc Mai (Tưởng nhớ cụ Phan Văn Trị), Lưu Xông Pha (Hững hờ), Duy Tiến (Thuyền biển), Sơn Nhân (Ngũ Hành Sơn), Trà Kim Long (Xem tuồng); Điểm sách: Thuận Thảo (“Cửa sổ lớp học” tản văn, Trần Quốc Toàn, Nxb Trẻ; “Trong tiếng sóng biển xa”, tập truyện ngắn Khổng Minh Dụ, Nxb. Văn học; “Thơ thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng”, sưu tầm: Nguyễn Hữu Hiệp, Lê Minh Quốc, Nxb Trẻ, 1998); Sổ tay: T.Đ. (Đâu rồi những chiếc đèn ông sao?); Nghệ thuật: P.N. Thường Đoan (Hội tụ ảnh nghệ thuật,- triển lãm tại Q.1 với sự tham dự của nhiều CLB tại Tp.HCM và Cần Thơ), Thúc Phương (Nông thôn-miền núi- biển với Đỗ Thị Ninh-Mai San-Bằng Lâm), Phạm Thái Hồ (Tình yêu và niềm tự hào với nghệt thuật dân gian,- Liên hoan “Giai điệu quê hương” lần 7 tại TT VH Q. 3), Đông Lan (Nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên, giải nhất cuộc thi sáng tác “Hát về thành phố tôi yêu”); Văn nghệ nước ngoài: truyện ngắn: Ryunosuke Akutagwa, 1892-1927, Nhật (Mùa thu, Huỳnh Phan Anh dịch; tiếp theo, hết); Thông tin: Hồ Sĩ Hiệp (Lâm Tâm Vũ, chủ tướng của “văn học vết thương”); Hoa Lan (Salman Rushdie,- cuộc phỏng vấn gần đây); Trần Thanh Phong (Viếng nhà của các nhà văn Pháp); Mai Sơn (Đọc “Tình cuồng”, tiểu thuyết của Raymond Radiguet /1903-23, Pháp/ bản dịch Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nhật Duật, Nxb Trẻ, 1998); Hoa Lan (Đừng lớn nhé, “Picasso nhỏ”, về tranh của Alexandra Nechita, 1985-, Mỹ gốc Romania); Hinh Phượng (Điện ảnh Mỹ: cái nhìn mới về chiến tranh ), H.P ( Ngôn ngữ của chiếc quạt ) Trào phúng: Văn tiểu phẩm: Út Trùm (Trăng và ngọc quý), Pằng Pằng Chíu (Đây thừa kia thiếu); Dọn vườn: Huyền Vi (Nhiều lỗi quá,- bài trên Văn Nghệ, s. 33); Thơ châm: Cà Kê (Cái cử nhân); -- Ngày 1: tại Hà Nội, nhà thơ Lữ Huy Nguyên qua đời. Họ tên thật Nguyễn Huy Lư, sinh 31.12.1939, quê Tân Chi, Tiên Sơn, Bắc Ninh. 1958 vào bộ đội. 1961 vào học ngành Ngữ văn, khoa Khoa học xã hội, trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, 1965 tốt nghiệp, về Nxb. Văn học làm biên tập sách văn học, đồng thời làm thơ, viết văn, viết nghiên cứu. Hội viên Hội Nhà văn VN từ 1978. Là giám đốc Nxb. Văn hóa (1986-88), giám đốc Nxb. Văn học (1989-98). Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (từ 1978). Tác giả các sách: “Nhật ký đường trong” (truyện và ký, 1970), “Trâu lá đa” (thơ, 1975), “Năm tháng đi qua” (thơ, 1976), “Giã từ đôi mắt” (thơ, 1991), “Đêm di-gan” (thơ, 1991), “Bắt đền đôi mắt” (thơ, 1991), “Paris” (1991), “Mùa thu nước Nhật” (thơ, 1992), “Một lần thăm Đức” (ký sự thơ, 1995). Ngoài ra, là cây bút phê bình nghiên cứu, là soạn giả, đồng soạn giả, dịch giả, đồng dịch giả nhiều sách đã xuất bản khác. Sau khi mất, được in tuyển phê bình tiểu luận “Ấn tượng văn chương” (2000), “Tuyển tập Lữ Huy Nguyên” (1999).(1) -- Ngày 3: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 40/1998 (s. 2020): Truyện ngắn: Vân Hạ (Ba Nhạn), Lê Thị Đạm Quy, 80 tuổi (Ông kẻ trộm), Nguyễn Đỗ Phú (Chớp bể mưa nguồn); Ký: Lê Dịu Hương (Ai người không tìm đến chúng ta); Thơ: Ngô Văn Phú (Đêm vũ hội; Người đàn bà và con chó nhỏ), Thuận Vy (Bên kia sông; Bóng ngả về sau), Phạm Thu Yến (Với A.S. Pushkin; Xin đừng), Dương Kiều Minh (Niềm vọng niệm); Chính luận: Cao Duy Thảo, Cao Linh Quân (Có biết trọng quá khứ mới biết quý tương lai); Tiểu luận (hội nghị văn học miền Trung lần thứ nhất): Thu Bồn (Phản ánh trung thực thế kỷ này), Lưu Trùng Dương (Vài suy nghĩ về cái đẹp, cái tốt và cái có ích), Giang Nam (Tản mạn về thơ), Thanh Thảo (Có một miền Trung đa văn hóa), Nguyễn Thế Tường (Miền Trung không chỉ của miền Trung, tường thuật hội nghị); Phê bình: Đinh Quang Tốn, Nguyễn Kiên, Lê Lựu, Nguyễn Sinh, Nguyễn Khắc Trường, Trần Huy Quang, Trần Thu Hương, Nguyễn Khắc Phục, Hữu Thỉnh (Thảo luận về bộ tiểu thuyết “Châu thổ”, t. 1- 2, Nguyễn Khắc Phục, Nxb. Phụ nữ, Phạm Đình Ân tường thuật); Hoàng Cầm (Đọc thơ Lê Huy Quang, - “Tự bạch”, Nxb. Văn học, 1994); Chân dung: Đoàn Thị Đặng Hương (Hà Ân, người kể chuyện tài hoa đất Thăng Long); Nghệ thuật: Nguyễn Văn Thành (Sâu khấu vẫn thiếu vắng những tài năng biểu diễn trẻ); Văn nghệ nước ngoài: tiểu luận: Rasul Gamzatov, 1923-2003, Nga (Bây giờ không thể nói “Dagestan của tôi” nữa rồi, Lê Sơn dịch) Viktor Rozov, 1913-2004, Nga (Cuốn sách viết mãi, Huy Liên dịch); thơ Rasul Gamzatov (Những vần thơ mới; Khúc ca, Lê Sơn dịch); Thông tin: Phan Thanh Nội (Nền điện ảnh nước Nga hôm nay); Trần Hậu (Tấm huy chương bạc của Lev Tolstoy); Trương Tấn (Để giải quyết khủng hoảng văn minh); Thơ trào phúng: Sĩ Giang (Anh túc), Tú Bùi (Đâu phải quán bán hàng?); -- Ngày 6, tại Bình Định, nhà thơ Yến Lan qua đời. Họ tên thật Lâm Thanh Lang, sinh 2.3.1916 tại xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Vào đời bằng nghề dạy học tư và viết văn. Làm thơ từ sớm, cùng Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên họp thành nhóm “Bàn thành tứ hữu” (4 người thơ thành Đồ Bàn); viết truyện dưới bút danh Xuân Khai, gửi đăng các báo ngoài Bắc trong Nam. Sau Cách mạng tháng 8/1945, làm ủy viên Văn hóa cứu quốc Bình Định (1947-49), ủy viên Văn hóa kháng chiến Nam Trung Bộ, trưởng đoàn kịch “Kháng chiến”. Sau 1954 tập kết ra Bắc, làm việc tại Nxb. Văn nghệ. Là hội viên Hội nhà văn VN từ 1957. Sau ngày thống nhất (tháng 4.1975) trở về công tác tại Hội VHNT Bình Định. Là tác giả các tập thơ: “Bóng giai nhân” (kịch thơ, 1940), “Gái Trữ La” (kịch thơ, 1943), “Những ngọn đèn” (thơ, 1957), “Tôi đến tôi yêu” (thơ, 1965), “Lẵng hoa hồng” (thơ, 1968), “Giữa hai chớp lửa” (thơ, 1978), “Én đào” (truyện thơ, 1979), “Cầm chân hoa” (thơ tứ tuyệt, 1991); đã có các tuyển tập riêng: “Thơ Yến Lan” (1987), “Thơ tứ tuyệt” (tuyển, 1996).(1) -- Ngày 7, tại Tp.HCM., nhà thơ Bùi Giáng qua đời (17.12.1926 – 7.10.1998). Sinh tại làng Thanh Châu xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, học đến trung học, đỗ bằng Thành Chung (1945). 1949 tham gia kháng chiến, vào bộ đội công binh. 1950 được cử từ Quảng Nam ra Hà Tĩnh học tiếp, nhưng tới nơi lại bỏ học quay về quê, đi chăn bò trên núi Trung Phước. 1952 ra Huế thi Tú tài 2, thi đỗ, vào Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa, nhưng rồi bỏ học, bắt đầu viết khảo luận, dịch thuật, dạy trường tư, cho xuất bản nhiều tập thơ, nhiều sách khảo luận về nhiều tác gia, tác phẩm văn học Việt Nam, văn học nước ngoài. 1965 nhà ông bị cháy, bị mất khá nhiều bản thảo. 1969 ông “bắt đầu điên rực rỡ” (chữ dùng của chính ông), sau đó, “lang thang du hành Lục tỉnh”, 1971 trở lại Sài Gòn, tiếp tục cuộc sống lang thang tại thành phố này cho tới khi bị một cơn tai biến, được đưa vào bệnh viện Chợ Rẫy và qua đời tại đây. Giới văn nghệ ghi nhận Bùi Giáng trước hết như một nhà thơ với nhiều tập thơ: “Mưa nguồn”, “Lá hoa cồn”, “Ngàn thu rớt hột”, “Màu hoa trên ngàn”, “Ngày tháng ngao du”, “Đêm ngắm trăng”…, lại cũng nhớ đến ông như một nhà bình luận văn chương với các cuốn khảo luận về “Truyện Kiều”, “Lục Vân Tiên”, về Bà Huyện Thanh Quan, và nhiều tác gia lớn thế giới. (2) -- Ngày 8: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. bộ mới, s. 36/ 1998: Truyện ngắn: Thọ Vân (Pho tượng mới); Truyện ký: Vũ Thạch Long (Dòng đời); Thơ: Trần Hữu Dũng (Mùa trữ tình), Nguyễn Lương Hiệu (Lời ru bạn bè), Bùi Thụy Đào Nguyên (Em và anh), Thai Sắc (Tịnh tâm); Tiểu luận-Phê bình: Đỗ Ngọc Thạch ( Phê bình: “tứ bề thọ địch”); Nguyễn Phượng (Hoài Thanh qua “Bình luận văn chương, 1934-1943”, Từ Sơn, Nguyễn Ngọc Thiện st., bs., Nxb. Giáo dục, 1998); Hoài Anh (Thương nhớ Lữ Huy Nguyên với những câu thơ mồ hôi-mồ côi); Điểm sách: Thuận Thảo (“Đường về với mẹ chữ”, truyện ký, Vi Hồng, Nxb. Kim Đồng, 1998; “Mảnh hồn làng”, những truyện nhỏ, Nguyễn Trọng Tạo, Nxb. Kim Đồng, 1998; “Hỏi lá hỏi hoa”, tập thơ thiếu nhi, Cao Xuân Sơn, Nxb Giáo dục, tb. lần hai, 1998); Văn hóa: Nguyễn Ngọc An (Đạo hiếu của dân tộc); [thiếu tr. 7, 8, 9, 10] Văn nghệ nước ngoài: truyện ngắn: Max von der Grün, 1926-2005, Đức (Sứ mệnh không dễ dàng của Brinhoff, Nguyễn Trọng Nghĩa dịch); Thông tin: X.P. (Ralph Fiennes, ngôi sao nổi tiếng từ film “Danh sách Schindler”), X.P. (Scarlett Johansson tài không đợi tuổi); Thảo Tuyền (Nhân cuộc triển lãm ở Bảo tàng Orsay, Paris: Van Gogh, nguồn cảm hứng từ tranh của Millet); Trào phúng: Văn tiểu phẩm: Út Trùm (Trung thu dị truyện); nụ cười: KT st. (Nụ cười ngoại nhập); Thơ châm: Võ Tiến Hưng (“Phí” khai trường!); -- Ngày 10: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 41/1998 (s. 2021): Truyện ngắn: Nguyễn Thị Phước (Cầu vồng), Nguyễn Kim Châu (Lặng lẽ đồng bằng), Võ Thị Hảo (Lửa lạnh); Ký: Xuân Ba (Nghìn thuở với núi sông này); Thơ: Lê Duy Phương (Ở Đức; Chùa Sư nữ; Xa mẹ), Huệ Khanh (Cây bàng trong nhà tù Hỏa Lò; Chiếc võng Bác nằm; Tâm hồn nghệ sĩ), Trúc Cương (Mưa sẽ tạnh thôi; Biển bình yên), Nguyên Linh (Viết dưới vòm cao su; Nhật Lệ), Lưu Hoàng Khánh (Cha ơi); Chính luận: Lê Đạt (Bản sắc dân tộc); Tiểu luận: Nguyễn Gia Nùng (Chỗ đứng và tầm nhìn của nhà văn hôm nay), Lệ Thu (Cảm hứng và đối tượng sáng tạo), Hoàng Vũ Thuật (Văn học miền Trung, đôi điều suy nghĩ), Đỗ Kim Cuông (Miền Trung, vùng đất văn học còn mắc nợ); Nghiên cứu: Đào Thái Tôn (Cái mới trong một bản “Kiều”); Vĩnh biệt Lữ Huy Nguyên (31.12.1939 – 1.10.1998): P.V. (Tường thuật lễ tang nhà thơ Lữ Huy Nguyên, 3.10.1998); Hoàng Lại Giang (Một con người tình nghĩa), Tế Hanh (Gửi Lữ Huy Nguyên, thơ), Nguyễn Bao (Người gửi lại, thơ), Vân Long (Tâm hương giã bạn, thơ), Hoàng Cầm (Nghĩ về tên anh, thơ), Mã Giang Lân (Lời cuối với Lữ Huy Nguyên, thơ); Mai Quốc Liên, Thúy Toàn, Thanh Thảo, Nguyễn Văn Lưu, Đoàn Minh Tuấn, Văn Chinh, Tạ Duy Anh, Phạm Ngọc Luật (Lời tiễn biệt Lữ Huy Nguyên); Nghệ thuật: Triều Dương (Về giải thưởng mỹ thuật 1998); Tin tức: P.V. (Báo Nhi đồng kỷ niệm 15 năm thành lập và đón nhận Huân chương độc lập hạng Ba), P.V. (Lễ hội kỷ niệm 396 năm Quy Nhơn và 100 năm đô thị tỉnh lỵ Bình Định), P.V. (Lễ trao tặng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Huân chương độc lập hạng Ba), N.M. (Trại sáng tác điêu khắc quốc tế lần thứ hai); Văn nghệ nước ngoài (100 năm sinh Garcia Lorca, 5.6.1898 – 19.8.1936): Anatoly Gletskul (Lorca, nhà thơ, Ngân Xuyên dịch), Lê Trí Liên (Cái chết lần hai của F. G. Lorca); Thơ trào phúng: Sĩ Hồ (Hàng giả hàng thật), Anh Trần (Kẻ xin người vay); -- Ngày 15: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. bộ mới, s. 37/ 1998: [thiếu tài liệu] -- Ngày 17: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 42/1998 (s. 2022): Chính luận: Lê Khả Phiêu (Một nền văn học nghệ thuật cao đẹp cần có giá trị nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống, vì con người, trích phát biểu tại hội nghị cán bộ quản lý báo chí xuất bản văn hóa văn nghệ, chiều 8.10.1998); Truyện ngắn: Lê Văn Thảo (Người Sài Gòn), Thùy Dương (Huyền thoại đường bê tông), Hồng Bảo (Món “cốc tai” cho người cao tuổi); Ký: Bế Kiến Quốc (Nam Định: lúa và chữ); Thơ: Nguyễn Bình Phương (Về bằng lăng; Cờ ngoài cờ), Lương Khắc Thanh (Trước nhà thờ của Nguyễn), Vũ Thị Khương (Một, hai, ba…; Ái phi; Viếng Bình Khương), Đoàn Văn Cừ (Cảnh quê tình quê), Trần Minh Ngọc (Dòng sông Kinh Bắc), Trần Đắc Trung (Chiều lên mây trắng), Nguyễn Chí Dũng (Ga núi), Phạm Trọng Thanh (Ngoảnh lại Giang Đình), Bùi Công Tường (Vườn chanh); Tiểu luận-Nghiên cứu: Nguyễn Đắc Xuân (Nhà văn - nhà văn hóa), Nguyễn Trọng Tạo (Một dòng chảy của thơ); Đặng Minh Phương (Về thời điểm nhà thơ Trần Mai Ninh hy sinh); Phỏng vấn: Nhà văn Võ Hồng (“Khiêm tốn mà vẫn độc lập”, Đặng Sĩ Tịnh thực hiện); Vĩnh biệt nhà thơ Yến Lan (2.3.1916 – 6.10.1998): Hữu Thỉnh (Còn mãi nhà thơ Yến Lan), Phạm Hổ (Nhớ anh, thơ), Xuân Tùng (Một nén hương, thơ), Hoàng Cầm (Thương nhớ, thơ), Tạ Vũ (Khóc thầy, thơ), Trần Ninh Hồ, Nguyễn Viết Lãm, Hoàng Minh Châu, Trúc Thông, Thanh Thảo, Thúy Toàn, Tế Hanh (Những lời tiễn biệt); những bài thơ cuối đời Yến Lan (Quả chín đầu vụ; Tiếng chuông ngày cũ; Thu tàn; Nhựa tím khô dần; Đãi bạn cũ là nhà sư; Vững bước); P.V. (Tường thuật lễ tang nhà thơ Yến Lan tại Bình Định và lễ tưởng niệm tại Hà Nội, 8.10.1998); Nghệ thuật: Lê Thanh Đức (Hai nghệ sĩ, một tấm lòng, một tác phẩm đồ sộ,- bộ tranh về Hiroshima của vợ chồng họa sĩ Maruki Iri và Maruki Toshi); Văn nghệ nước ngoài: Thơ: Sylvia Moss, 1937-, Mỹ gốc Nga (Tàu thủy ở Fedosia; Con gái; Thomas và các tông đồ, Ngân Xuyên dịch); Tiểu luận: Andrei Makine, 1957-, Pháp gốc Nga, giải Goncourt 1996 (“Vai trò của nhà văn: tìm kiếm lý tưởng cái đẹp”, Phạm Nguyên dịch); Thông tin: Thúy Toàn (Kỷ niệm 200 năm sinh Adam Mickiewicz, 1789-1855: Chung một tình yêu thơ Mickiewicz); Trần Hậu (Bộ phim truyền hình nhiều tập về Pushkin); Duy Hòa (Hè 98, văn học Pháp chinh phục thế giới); Thơ trào phúng: Hồ Văn Khuê (Mẹo phòng thân); -- Ngày 20: tại Hà Nội: cuộc gặp gỡ thân mật, tại trụ sở Hội Nhà văn VN, các nữ hội viên đang công tác tại Hà Nội, nhân ngày truyền thống của Phụ nữ VN. Tại cuộc gặp này Ban chấp hành Hội thông báo việc thành lập Ban liên lạc các nhà văn nữ với nhiệm vụ tư vấn về công tác nhà văn nữ, đồng thời giúp đỡ lẫn nhau về sáng tác và đời sống. Ban liên lạc gồm: Nguyễn Thị Ngọc Tú (trưởng ban), Nguyễn Thị Như Trang, Phan Thị Thanh Nhàn, Hồng Duệ, Lê Thị Mây, Trần Thị Mỹ Hạnh, Bùi Kim Anh, Đoàn Thị Lam Luyến.(1) -- Ngày 22: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. bộ mới, s. 38/ 1998: Truyện ngắn: Trần Huiền Ân (Nhà báo), Khải Nguyên (Ông Nọi); Ký: Diệp Hồng Phương (Chút lãng mạn Bình Long); Thơ: Vũ Hồng (Thơ cho bè bạn), Vũ Thị Kim Liên (Tháng giêng), Trần Thế Vinh (Tấm vá thời gian), Bình Nguyên Trang (Chiều quá khứ), Nguyễn Đức Vân (Nhớ xưa); Chính luận: Lê Phan Nghị (Văn hóa trong ứng xử và giao tiếp); Tiểu luận-phê bình: Hoài Anh (Mỹ học cấu trúc chủ nghĩa), Thu Bồn (Tại thể bơ vơ Bùi Giáng), Trần Hữu Dinh (Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Chí Minh); Phỏng vấn: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trịnh Đình Thu (“Bản sắc dân tộc là con đường duy nhất”, Huỳnh Thanh Nam hỏi chuyện); Điểm sách: Thuận Thảo (“Nắng phương Nam”, tập truyện ngắn, Trần Hoài Dương, Nxb. Kim Đồng, 1998; “Mây bay trong đầu”, tập truyện ngắn, Đoàn Thạch Biền, Nxb. Trẻ, 1998; “Ngẫu hứng”, tập thơ 5 tác giả Đồng Nai: Cao Xuân Sơn, Nguyễn Liên Châu, Trần Ngọc Tuấn, Vũ Duy Chu, Đàm Chu Văn, Nxb. Thanh niên, 1998); Nghệ thuật: Thúc Phương (Nhóm Cầu Vồng và điệu luân vũ màu sắc,- nhóm 5 họa sĩ trẻ tại Triển lãm Hội mỹ thuật Tp.HCM., 12.10.1998), Thuận Thảo (Nhà hát kịch Hà Nội “hành phương Nam”), Đông Lan (Nhạc sĩ Hoàng Châu đam mê với nghiệp), Phú Ninh (Miền thơ ấu huyền ảo của họa sĩ Tôn Thất Bằng), Thế Hải (Liên hoan sân khấu mùa thu TP. Hồ Chí Minh: Cuộc hội ngộ để đi tới); Văn nghệ nước ngoài: Truyện ngắn: Như Chí Quyên, Trung Quốc (Hoa bách hợp, Tịnh Thy dịch); Thông tin: James Lord (Người tình của Picasso, Minh Luân lược dịch); Hoa Lan (“Tần Thủy Hoàng đế” hay “Kinh Kha thích khách”?,- về film của đạo diễn Trần Khải Ca), Hoa Lan (Văn chương thời điện tử); Hương Mỹ (Nokia với điện thoại GSM thanh lịch nhất); Trào phúng: Văn tiểu phẩm: Nguyễn Hoa Lư (Cuối cùng cậu muốn gì?), Tám Móc (Nói nho); Nụ cười: Duy Cách (Ai giỏi hơn; Cắt giảm vũ khí); Thơ châm: Đồ Bành (Mùa cưới mùa lo); -- Ngày 24: tại Hà Nội, lễ mừng thọ 80 tuổi nhà giáo, nhà văn Lê Trí Viễn (sinh 10.3.1919) do Hội Nhà văn VN tổ chức tại trụ sở Hội (9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội); nhiều nhà văn, trong số đó có người từng là học trò thầy Lê Trí Viễn đã tới dự: Phạm Tiến Duật, Vương Trí Nhàn, Vũ Đình Minh, Trần Quốc Toàn, Bùi Kim Anh, Đỗ Bạch Mai,… Phó tổng thư ký Hội NVVN Hữu Thỉnh khẳng định đóng góp của nhà giáo-nhà văn Lê Trí Viễn trong nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam, nhất là góp phần đào tạo nhiều thế hệ nhà văn nước ta. (1) -- Ngày 24: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 43/1998 (s. 2023): Truyện ngắn: Nông Tòng (Rừng thở), Hà Nguyên Huyến (Thung mơ), Trần Văn Tuấn (Đoạn đời với quả thận mới); Ký: Hoàng Ngọc Sơn (Nhọc nhằn thuốc nội); Thơ: Hồ Phi Phục (Đường về; Bên thành nhà Hồ; Tứ tuyệt hoàng hôn), Dương Kỳ Anh (Tự thấy; Ghi ở chùa Nam Đồng; Vườn chiều), Lâm Xuân Vy (Khúc giao hòa; Đơn côi; Biết đâu), Đặng Thi Vũ (Mùa thu trở lại; Đề tặng; Nhờ gió trao anh); Tiểu luận: Nguyễn Hữu Nhàn (Năng lực văn hóa của nhà văn), Mai Ngữ (Ý thức về nguồn cội), Hoàng Tuấn Phổ (Bản sắc và truyền thống); Chân dung-kỷ niệm: Cao Xuân Hạo (Khi biên tập viên là một người thầy,- kỷ niệm về BTV Nxb. Văn học Hướng Minh, tức Phó Đức Vinh, 1.4.1912 – 23.2.1991); Bạn đọc viết: Nguyễn Thị Trâm (“Vết thương trong không gian” /VN. s. 31/ một truyện ngắn hay); Vĩnh biệt nhà thơ Bùi Giáng (17.12.1926 – 7.10.1998): Văn nghệ (Tin buồn), Thu Bồn (Tại thể bơ vơ Bùi Giáng); Dọn vườn: Trịnh Công Bộc (Thử dọn vườn một kỳ báo Văn nghệ); Văn nghệ nước ngoài: Tiểu thuyết: José de Sousa Saramago, 1922-, giải Nobel văn học 1998 (Tôi mù rồi, Vũ Kim Thu trích dịch); tiểu luận: Aleksandr Korotko, Nga (Thơ ca là thần dường của tâm hồn, Trần Hậu dịch); Thông tin: Tô Đức Huy (Jose Saramago: 100 năm cho một ngày hội lớn); Chính luận: Lê Vân (Việc lấn chiếm hồ Trúc Bạch có bị rơi vào im lặng?), Mai Vũ (Tôn trọng nhau là nguyên tắc hàng đầu,- từ vụ tác giả kiện Xưởng phim truyện I về film “Hôn nhân không giá thú”), Nguyễn Duy (Nói và nghe… sự thật); Thơ trào phúng: Trần Quang Thịnh (Sông buồn), Ngũ Liên Tùng (Năm lần vỗ tay); -- Ngày 29: tại Tp.HCM.: tuần báo Văn nghệ Tp.HCM. bộ mới, s. 39/ 1998: Truyện ngắn: Vân Hạ (Những cây ổi ven sông), Ngô Khắc Tài (Mùa gòn tách vỏ); Ký: Hồng Hải (Dương Ổ với nghề làm giấy cổ truyền); Thơ: Lưu Xông Pha (Có phải), Trịnh Bửu Hoài (Đêm Kiên Giang), Đông Triều (Từ khi áo đỏ), Trần Hữu Nghiễm (Thăm lăng Mạc Cửu), Sơn Thu (Chờ; Chôn đồng đội), Phạm Minh Thông (Dòng sông tưởng tượng; Dặn); Tiểu luận-phê bình: Hoài Anh (Mỹ học cấu trúc chủ nghĩa, tiếp), Nguyễn Khắc Hóa (Bước chuyển mình của ý thức văn học cách mạng Việt Nam sau 1945); Phương Hạnh (Đọc bút ký và phóng sự của Vũ Tuất Việt); Nghệ thuật: P.N. Thường Đoan (Nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện: Sáng tác chỉ là để vui chơi), Lê Cung Trần (Phim cổ tích “Vụ án cọp và hươu”, đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn, quay film Trịnh Hoan), Đông Lan (Ảnh nghệ thuật Tp. HCM. năm 1998), Hoàng Thảo (Băng Châu, từ sân khấu thời trang đến sàn quay); Văn nghệ nước ngoài: Truyện ngắn: Marcel Aymé, 1902-67, Pháp (Thời gian chết, Chu Minh Thụy dịch); Thông tin: Diên San (Một scandal văn học Mỹ: Nỗi buồi của Carver), Hoa Lan (Thế giới do những người đàn bà da đen chống đỡ,- thành công của những Toni Morrison, Oprah Winfrey,…); Thy Huệ (Valérie Favre và những chiếc lưới đan lại kỷ niệm), Hinh Phượng (Người đàn bà ca hát, hình ảnh biểu trưng của phụ nữ Cuba), Thảo Tuyền (Nhân cuộc triển lãm tại Venise, phát lộ về một dân tộc bí ẩn: Nghệ thuật Maya); Hoa Lan (Hiện tuộng văn nghệ,- Film truyền hình càng dài càng dở; Cổ phần hóa kịch bản; Ít đọc sách); Trào phúng: Văn tiểu phẩm: Út Trùm (Chiều thứ bảy… buồn), Bút Nguyên Tử (Hót); Chuyện cười: Q. Khánh (Cháu Xuân Diệu); -- Ngày 31: tại Hà Nội, tuần báo Văn nghệ s. 44/1998 (s. 2024): Truyện ngắn: Nguyễn Bản (Nợ trần gian), Trần Đình Nhân (Kiến thức bị lãng quên); Ký: Trần Huy Quang (Dòng than), Dạ Ngân (Vui buồn nghề mỏ); Thơ: Nguyễn Thị Xuân (Đa mang), Trần Tâm (Nhà ga), Đoàn Xuân Hòa (Lời rao than tổ ong), Yên Đức (Gửi chúng tôi), Nguyễn Ngọc Sính (Hòn gà chọi), Hà Minh Đức (Một năm; Bến đò), Lệ Thu (Nhắn tìm; Ngọc trai), Lữ Giang (Thăm Côn Sơn; Mùa ổi chín); Phỏng vấn: Tổng giám đốc Tcty Than VN Đoàn Văn Kiển (Văn hóa và kinh tế, P.V. thực hiện); Lý Biên Cương, Trần Nhuận Minh (Vùng mỏ Quảng Ninh với các hoạt động văn học); Tiểu luận: Trần Thanh Đạm (Văn học và văn hóa), Mai Quốc Liên (Văn học, thách thức và nỗi lo); Chính luận: Nguyễn Văn Hạnh (Có nên duy trì chế độ “phản biện kín” đối với các luận án tiến sĩ), Võ Khắc Nghiêm (Danh thơm, xin đừng quên họ); Ngôn ngữ: Mai Huy Thuật (Xin đừng nói ngọng và viết sai), Ông Văn Tùng (Lại… tiếng lành tiếng dữ); Nghệ thuật: Tô Hoàng (Phim nhựa, đôi điều cần nói), Bùi Bình Thi (Chia sẻ với người thua cuộc, vụ tác giả kiện Xưởng phim truyện I về film “Hôn nhân không giá thú”), Văn nghệ nước ngoài: truyện: Tahar Ben Jelloun, 1944-, Morocco (Lạc đà, Ngô Quân Miện dịch); Thông tin: Trung Sơn (Thân phận của những tài năng,- số phận các ngôi sao Hollywood); Thơ trào phúng: Bùi Ngọc Thảo (“Tào Tháo” đuổi!), Sĩ Giang (Nguồn nước kêu cứu!); -- Trong tháng 10: tại Hà Nội, công bố kết quả cuộc thi truyện vừa 1996-98 của tạp chí “Tác phẩm mới” và Ban sáng tác Hội Nhà văn VN. Từ 1.4.1996 đến 31.12.1997, Ban tổ chức nhận được 209 truyện vừa của 198 tác giả từ 30 tỉnh thành trong nước gửi tới dự thi. Ban sơ khảo gồm toàn bộ Ban biên tập tạp chí “Tác phẩm mới”, chọn được 32 tác phẩm vào chung khảo. Ban Chung khảo gồm các nhà văn Vũ Tú Nam, Hữu Thỉnh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Tùng Điển, đã chọn trao giải chính thức cho 9 tác phẩm, và tặng thưởng cho tác giả của 8 tác phẩm khác. A/ Giải chính thức: 1/ Nụ hoa cau (Xuân Cang), 2/ Phòng 307 (Đỗ Bảo Châu), 3/ Đá trắng (Đỗ Kim Cuông), 4/ Người đàn bà ngang qua đời tôi (Lý Biên Cương), 5/ Vết thương chưa lành (Trịnh Đình Khôi), 6/ Tích thiện (Dương Duy Ngữ), 7/ Cầu vồng đi đón cơn mưa (Nguyễn Đỗ Phú), 8/ Chuyến đò đời (Nguyễn Trọng Tân), 9/ Bóng sau lưng mình (Trần Chinh Vũ). B/ Tặng thưởng: 1/ Nước mắt đồng đội (Phan Thị Bảo), 2/ Phần đời bị quên lãng (Mạc Văn Chung), 3/ Chuyện của hai người (Hoàng Ngọc Hà), 4/ Xế chiều (Sỹ Hồng), 5/ Làng êm ả bên sông (Nguyễn Hiếu), 6/ Biển cả (Hà Phạm Phú), 7/ Bồng bột tội đồ (Phan Quế), 8/ Anh Đúc về làng (Trần Quốc Tiến). (1)
-- Trong tháng 10: tại Hà Nội, tạp chí Tác phẩm mới, s. 10, tháng 10/1998: Truyện vừa: Nguyễn Kiên (Người ở thị trấn không tên); Truyện ngắn: Bùi Ngọc Tấn (Những người đi ở), Nguyễn Đỗ Phú (Gặp thời), Hồ Thủy Giang (Tình phụ tử), Bùi Sĩ Lập (Ha-ca-rít, truyện vui), Nguyễn Cẩm Hương (Chị Mậu), Phong Thu (Chùm truyện: Lấy phần; Đói đêm; Gặp mưa; Cái chân gà); Thơ: Trần Thị Mỹ Hạnh (Đêm làng; Người cũ), Lý Thị Trung (Bên sông Tiền Đường; Bến đợi), Nguyễn Lập Em (Thơ tình viết muộn; Hoa quỳnh), Hoàng Kim Dung (Đừng dấu nỗi buồn vào mùa đông; Nhớ tháng Năm), Nguyễn Thị Minh Thông (Bình yên; Ngược phía hoàng hôn), Phan Thị Bảo (Lòng mẹ; Một thời để nhớ), Nguyễn Thị Mai (Lối trăng em về); Tiểu luận-phê bình: (giải thưởng cuộc thi truyện vừa 1996-1998): Nguyễn Thị Ngọc Tú (Cuộc thi truyện vừa 1996-1998), Vũ Tú Nam (Suy nghĩ về truyện vừa), Trịnh Đình Khôi (Tôi vẫn hy vọng), Đặng Văn Ký (Danh tướng, Mỹ nữ, Tác phẩm hay), Trần Chinh Vũ (Để viết được tác phẩm có chất lượng tốt); Chân dung nhà văn: Thanh Quế (Người phụ nữ gầy yếu và mạnh mẽ,- Dương Thị Xuân Quý); Đọc sách: Nguyễn Đăng Điệp (Nhặt vàng từ thời gian,- “Tao đàn 1939, sưu tập trọn bộ”, Nguyễn Ngọc Thiện, Lữ Huy Nguyên sưu tầm, biên soạn, Nxb. Văn học, 1998); Lê Thị Mây (Nhen lại lửa lòng,- “Châm khói”, thơ Đoàn Thị Lam Luyến, Nxb. Hội Nhà văn, 1995); Đời sống văn học: Minh Tâm (Gặp nhà văn được giả thưởng văn học Đông Nam Á 1998,- phỏng vấn Ma Văn Kháng); Văn học nước ngoài: truyện ngắn: Phạm Tiểu Thanh, Trung Quốc (Mất tích, Hà Phạm Phú dịch); Tin sách: T.M.T. (“Văn học địa phương Indonesia”, Edwar Djamaris, Nxb. Balai Pustaka; “Bàn tay ký giấy”, tiểu thuyết, Helen Darville, Nxb. Allen&Unwin, Australia; “Đất nước, những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam”, bút ký, Edits Shillue, Nxb. Massachusette, 1997); -- Trong tháng 10: tại Hà Nội, tạp chí Văn học nước ngoài s. 5 (tháng 9&10/1998): Tiểu thuyết: Hegedus Geza, 1912-1999, Hungary (Đêm thánh Silvester, Lê Xuân Giang dịch từ nguyên bản tiếng Hungary); Truyện ngắn Hungary: Ordogh Szil Veszter, 1948- (Biển và chim hải âu, Hoàng Thị Vinh dịch từ bản dịch tiếng Nga); Santa Ferenc, 1927-2008 (Thất bại của cái chết, Trương Đăng Dung dịch từ tiếng Hungary), Mandy Ivan, 1918-1995 (Chiếc mũ của tướng cướp biển, Hà Huy Anh dịch từ tiếng Hungary); Thơ Hungary (Trương Đăng Dung giới thiệu và dịch từ tiếng Hungary): Juhasz Gyula, 1883-1937 (Em như thế nào…), Jozsef Attila, 1905-1937 (Tình ca, trích), Weores Sándor, 1913-1989 (Các mâu thuẫn; Gửi người câm; Những người gặp tôi; Mười bài thơ một câu), Ady Endre, 1877-1919 (Một mình với biển), Váci Mihály, 1924-1970 (Thiếu một điều gì), Vihar Béla, 1908-1978 (Cán cân), Somlyó György, 1920-2006 (Chuyện kể về bông hoa), Benjámin László, 1915-1986 (Ngày lại ngày), Csóori Sándor, 1930-2016 (Mẹ tôi, bông hồng đen), Szentimrei Jeno, 1891-1959 (Cánh tay của những người ngã xuống trên cánh đồng); Tiểu luận: Lukács Gyorgy, 1885-1971, Hungary (Đặc trưng mỹ học, chương 13. II. Tác phẩm nghệ thuật như là vật tồn tại vì nó, Trương Đăng Dung giới thiệu và trích dịch); Đời sống dịch thuật: Jan Stolpe, Thụy Điển (Dịch thuật, một hoạt động sáng tạo, Vũ Đình Phòng dịch); Văn học-Nhà trường: Đào Duy Hiệp (Nhân vật, các mối quan hệ giữa chúng qua truyện ngắn “Bố của Simon” của Guy de Maupassant);
-- Trong tháng 10: tại Hà Nội, tạp chí Văn nghệ quân đội, s. 10, tháng 10/1998: “Đối thoại tháng 10”: Hoàng Văn Nghiên (Tiến tới một ngàn năm Thăng Long-Hà Nội, Nam Hà hỏi và ghi); Truyện ngắn: Nguyễn Văn Tài (Lời hứa chưa thực hiện), Nguyễn Tuấn Khoa (Hoa thạch trúc báo bình yên), Nguyễn Toàn (Tiếng chiêng buồn), Nguyễn Thị Minh Ngọc (Dẫu lìa ngó ý), Bùi Thắng (Giọt nước sau cơn mưa), Tô Đức Chiêu (Đàn đom đóm bay lên trời), Nam Ninh (Nắng bên kia dốc); Ký: Nhật Thăng (Ký sự một ngày mưa); Thơ: Vũ Thị Huyền (Những mùa hoa; Hai mươi năm sau), Nguyễn Đình Di (Tiếng đồng làng; Làng chưa bình yên), Trần Thị Mộng Dần (Thơ cho con của anh), Phùng Gia Viên (Lời ru dòng sông), Võ Thị Kim Liên (Ngôi nhà không đàn ông; Bão), Bùi Hoàng Tám (Cạn đêm; Cỏ), Đoàn Thị Ký (Con sên), Vũ Quần Phương (Qua miền gió cát; Giải khát ngoài trời), Nguyễn Ngọc Oánh (Tay mẹ), Nguyễn Sỹ Đại (Lá; Tuổi bốn mươi), Hồng Nhu (Bạch Hạc), Lê Xuân Đố (Trưa quán Trúc); Văn học nước ngoài: truyện ngắn: Yitzchak Leibush Peretz, 1852-1915, Do Thái (Bontsha người im lặng, Trần Lê Quỳnh dịch); Tiểu luận-phê bình: Bùi Việt Thắng (Đôi điều về hiện trạng phê bình văn chương), Phương Lựu (Mấy chuyện về lý luận phê bình, P.V. hỏi và ghi), Từ Sơn (Nỗi niềm qua sự “chê…khen”), Thái Hoàng Vũ (Phê bình, một khâu yếu của điện ảnh hôm nay); Đọc sách: Nguyễn Thanh Tú (Đọc 2 cuốn phê bình tiểu luận của Hồng Diệu: “Nhà văn và trang sách”, Nxb. QĐND., 1993, và “Phía sau dòng chữ”, Nxb. Thanh niên, 1997); Đỗ Mai Hà (“Tuyển tập Trương Chính”, 2 quyển, Nxb. Văn học, 1997); Đinh Quang Tốn (“Dõi theo tiến trình đổi mới văn hóa-văn nghệ”, chuyên luận, Từ Sơn, Nxb. Chính trị quốc gia, 1998); Nguyễn Văn Lưu (“Khơi dòng lý thuyết”, Phương Lựu, Nxb. Hội Nhà văn, 1997) Tư liệu: Lỗ Khê, Vũ Phong Tạo (Mao Tôn Cương, Kim Thánh Thán, các ông là ai?, dịch tài liệu Trung Quốc); -- Trong tháng 10: tại Hà Nội, Tạp chí Văn học, s. 10 (320), tháng 10/1998: Chuyên san các nền văn học Pháp ngữ /Francophonie/: Hà Minh Đức (Lời đầu số), Maussa Maka Camara (Cùng bạn đọc), Nguyễn Xuân Sanh (Thơ năm châu viết bằng tiếng Pháp), Lộc Phương Thủy (Các nền văn học viết bằng tiếng Pháp), Nguyễn Văn Quảng (Văn học các nước châu Phi da đen), Marc Quaghebeur (Những đặc điểm của văn học Bỉ viết bằng tiếng Pháp, Phương Thúy dịch), Nguyễn Thị Bình (Về tiểu thuyết vùng Caraïbes), Cao Vũ Trân (Bước đầu tìm hiểu về văn học Bắc Mỹ), Đặng Thị Hạnh (Viết một thứ ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ của mình [về văn học châu Phi và vùng Caraïbes]), Đặng Anh Đào (Tahar Ben Jelloun [1947-, nhà văn Moroco] và thể nghiệm về độ căng giữa hai nền văn hóa); Vincent Challet (Sembène Ousmane [1923-2007, nhà văn Senegal] - từ cuộc đấu tranh chống thực dân đến nỗi cay đắng sau độc lập); Đào Duy Hiệp (Những yếu tố thời gian qua Rousseau - Flaubert - Proust); Nguyễn Thị Huế, Lê Phong Tuyết (Charles Perrault và những truyện cổ tích của ông); Alain Guillemin (Văn học Việt Nam bằng tiếng Pháp, Nguyễn Phương dịch); Lữ Huy Nguyên (Phác thảo về một tiến trình văn học còn ít được bàn tới, [văn học viết tiếng Pháp của tác giả Việt Nam]); Lê Phong Tuyết (Việc giới thiệu văn học các nước có sử dụng tiếng Pháp ở Việt Nam); Phan Quý (Thử bàn lại việc nghiên cứu những ảnh hưởng của văn học Pháp đối với văn học Việt Nam); Tư liệu: Từ Bỉnh Tâm (Đôi nét về văn học Trung Cận Đông, lược thuật); Lê Thu Thủy (Văn học Pháp ngữ ở vùng Ấn Độ Dương, lược dịch); Phỏng vấn: Hữu Ngọc (Francophone ở Việt Nam, Ngân Xuyên hỏi và ghi); Moussa Konate, 1951-, nhà văn Mali (Đáp chuyện phóng viên, Trần Hinh dịch); Octavio Paz (Về ảnh hưởng của văn học Pháp, Frederic de Towarniki phỏng vấn, Đặng Anh Đào dịch). (1)(1) Bộ VH-TT, Hội Nhà văn VN, Nxb. Văn học: Cáo phó: nhà thơ Lữ Huy Nguyên từ trần // Văn nghệ Tp.HCM., s. 36 (8.10.1998), tr. 6. (1)(1) Hữu Thỉnh: Còn mãi nhà thơ Yến Lan. Bài đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ Yến Lan tại Hà Nội ngày 8.10.1998 // Văn nghệ, H., s. 42 (17.10.1998), tr.4, 14. (2)(2) Văn nghệ: Tin buồn // Văn nghệ, H., s. 43 (24.10.1998), tr.4; Thu Bồn: Tại thể bơ vơ: Bùi Giáng // Văn nghệ, H., s. 43 (24.10.1998), tr.4 (1)(1) P.V.: Gặp mặt các nhà văn nữ nhân ngày phụ nữ Việt Nam // Văn nghệ, H., s. 44 (31.10.1998), tr.2 (1)(1) P.V.: Mừng thọ 80 tuổi nhà văn-nhà giáo Lê Trí Viễn // Văn nghệ, H., s.44 (31.10.1998), tr. 15. (1)(1) Thông báo giải thưởng cuộc thi truyện vừa 1996-1998 của tạp chí Tác Phẩm Mới và Ban sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam //Tác phẩm mới, H., s. 10 (tháng 10/1998), tr. 62; Nguyễn Thị Ngọc Tú: Cuộc thi truyện vừa //Tác phẩm mới, H., s. 10 (tháng 10/1998), tr. 63-65; Kết thúc cuộc thi truyện vừa 1996-1998 do tạp chí Tác Phẩm Mới và Ban sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức // Văn nghệ, H., s. 45 (7.11.1998), tr. 2.
|