MỘT KHÍA CẠNH Ở NHÀ BÁO VŨ TRỌNG PHỤNG: NGƯỜI LƯỢC THUẬT THÔNG TIN QUỐC TẾ
Cách đây hơn ba chục năm, việc phát hiện ra rằng trong di sản Vũ Trọng Phụng có một bài báo dài nhan đề Nhân sự chia rẽ giữa Đệ Tam và Đệ Tứ…(1937) đã tạo thuận lợi quyết định cho ý đồ loại trừ Vũ Trọng Phụng khỏi văn học sử nước nhà. Đương nhiên, việc lấy những phát ngôn chính luận thay thế các sáng tác văn học của cùng một tác giả văn học nhằm định giá tác giả ấy − bản thân phương thức đó đã là không xác đáng trong nghiên cứu văn học. Tuy vậy, chúng tôi không có ý định đề nghị giới nghiên cứu bỏ qua các phát biểu chính luận của nhà văn, dẫu sự nghiệp của nhà văn chủ yếu là các sáng tác nghệ thuật.
Trường hợp Vũ Trọng Phụng, ông không chỉ có những phát biểu theo lối tùy hứng, "tạt ngang", phụ trợ. Đối với ngòi bút ông, chức phận nhà văn và chức phận nhà báo là đồng thời, song song, ít nhất là do mưu sinh: ông không có thu nhập nào khác ngoài những gì được trả cho ngòi bút đã trót chuyên nghiệp hóa của mình.
Tuy nhiên, đề tài nhà báo Vũ Trọng Phụng vẫn còn là quá rộng đối với tôi lúc này. Tôi chỉ dám đề cập đến một khía cạnh nhỏ nhân đọc lại bài báo dài nêu trên, để hình dung đôi nét về ông như một người tóm lược thời sự quốc tế. Tôi cho sẽ là thú vị cho chúng ta khi đọc lại bài báo này ở thời điểm hôm nay, với những thông tin mới, những gợi mở mới cho cách nhìn mà chỉ công cuộc cải tổ của Liên Xô cũng như tinh thần đổi mới ở ta mới có thể đem lại cho chúng ta.
1/ Để thuận tiện bước đầu, chúng tôi thấy cần phải cho rằng: Việc giới nghiên cứu từ những năm 1960 trở đi căn cứ vào bài báo dài này và một số trích dẫn khác trong tác phẩm báo chí và văn học của Vũ Trọng Phụng để kết luận về thái độ chính trị "đả kích cộng sản, bôi nhọ Liên Xô" của nhà văn − xin tạm coi kết luận ấy là có thể hiểu được. Cứ giả định rằng bài viết nói trên của Vũ Trọng Phụng đã có tác dụng xấu đối với phong trào cách mạng đương thời. Điều chúng ta quan tâm là: ngoài tác hại khách quan ấy, bài báo trên còn những gì khả thủ về mặt thông tin các hiểu biết lịch sử ở bên ngoài biên giới nước mình? Và đối chiếu với tư liệu quốc tế ngày hôm nay thì sự thông tin của Vũ cách đây nửa thế kỷ trùng hợp hay sai lệch với mức độ ra sao?
2/ Đọc lại bài báo dài này của Vũ Trọng Phụng, chúng ta sẽ thấy đây là hình thức lược thuật, bình thuật, tổng thuật tình hình. Văn tài của tác giả có vẻ như ở đây không bộc lộ gì nhiều. Chỉ là một cách kể chuyện với độc giả trong nước về một đề tài thời sự-lịch sử quốc tế. Khối lượng tài liệu tác giả sử dụng hẳn là không nhỏ. Qua cách lược thuật của Vũ Trọng Phụng, có thể thấy sự kiện cách mạng tháng Mười và sự ra đời và tồn tại của nhà nước Xô Viết đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhà báo Vũ Trọng Phụng. Cũng qua đây, có thể thấy thiện cảm (chứ không phải ác cảm) của Vũ Trọng Phụng đối với nhà nước công nông đầu tiên này trên thế giới. Đặc biệt Vũ Trọng Phụng tỏ ra thán phục không che dấu đối với tài năng và nghị lực của Lênin (mà có chỗ ông mệnh danh là "đấng Cứu thế Đỏ"). Ông cũng tỏ ra hết sức thông cảm với những khó khăn khổng lồ mà chính quyền vô sản non trẻ ở nước Nga vấp phải, ông tỏ ra khâm phục sức lực và ý chí của nhân dân Nga trong việc theo đuổi lý tưởng cộng sản (xin khỏi dẫn các đoạn của bài báo, cho gọn).
Bài báo được viết năm 1937, gần như ngay sau "vụ án Moscou" chấn động thế giới. Qua bài viết có thể thấy chính Vũ Trọng Phụng cũng tỏ ra bàng hoàng trước cái việc mà ông gọi là "cuộc xâu xé của những tay đồng chí cũ". Tuy vậy bài báo của ông không chứng tỏ là ông xoay ngược thái độ thiện cảm của ông đối với cách mạng tháng Mười và nhà nước kiểu mới. Vũ Trọng Phụng quy trách nhiệm cho Stalin, cho "khuynh hướng về một chế độ độc tài của dân tiểu tư sản" của Stanlin.
Số phận Quốc tế thứ ba và sự chia rẽ, mâu thuẫn giữa Đệ Tam và Đệ Tứ không phải là nội dung của bài báo này mặc dù nó là cái cớ để ông viết bài bình thuật. Ở phần cuối bài báo, ông chỉ nêu lên hiện tượng gây ngạc nhiên là chính những bạn chiến đấu cũ của Lênin lại công khai nhận tội phản bội trước tòa trong vụ án 1937, và ông cắt nghĩa ở phương châm hành động "Mọi phương tiện đều tốt" − chính sách kiểu Machiavelli − mà ông cho là người cộng sản đã sử dụng. Từ đây ông suy luận về sự chia rẽ giữa Đệ Tam và Đệ Tứ, coi như là một cuộc tranh đoạt quyền lực thông thường. Điều này tất nhiên là đặc trưng cho cách nhìn của người đứng ngoài và đứng xa hàng ngũ của phong trào cộng sản quốc tế, phản ánh cả tình trạng thiếu thông tin lẫn sự thiếu hiểu biết và định kiến của tác giả. Tuy nhiên, cách suy nghĩ này không phải chỉ là cá biệt của Vũ Trọng Phụng (dưới đây sẽ đối chiếu với suy nghĩ và cắt nghĩa tương tự của Brecht, Becher vài chục năm sau đó).
3/ Đặt trong bối cảnh của thông tin hiện nay, nhất là những thông tin tư liệu lịch sử chỉ được biết đến rộng rãi do kết quả của phương hướng công khai hóa và dân chủ hóa mà công cuộc cải tổ đem lại, chúng tôi sơ bộ thấy:
Về đại thể, bài báo dài này của Vũ Trọng Phung, tuy đã trở nên khá sơ giản thậm chí rất sơ giản trong việc trình bày các sự kiện lịch sử, nhưng nhìn chung không xuyên tạc lịch sử cách mạng tháng Mười và 20 năm đầu của chính quyền Xô Viết, càng không có biểu hiện của thái độ bài Xô (anti-sovietique), cũng không có biểu hiện rõ rệt của thái độ chống cộng sản (mặc dù không đứng trên lập trường cộng sản và khá ít hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản, phong trào cộng sản và người cộng sản).
Tìm ra và liệt kê những sự sơ giản thậm chí thiếu chính xác trong bài báo dài của Vũ Trọng Phụng là điều không mấy khó khăn. Song bên cạnh đó lại có khá nhiều điểm tỏ ra trùng hợp với những tài liệu mới biết đến gần đây. Thí dụ:
− Vũ Trọng Phụng viết: "vào đầu 1923, giữa Lênin và Stalin có cuộc xung đột về tư tưởng. Lênin bắt đầu bình phục, và cũng làm việc nữa, chỉ ít lâu thì sẽ cắt bớt thế lực của Stalin đi", thì gần đây trên báo Tin tức Moskva (số 4/1989, ngày 24/1) đăng bài Đụng độ cuối cùng do chính tổng biên tập báo này Egor Jakovlev viết, công bố những tài liệu cụ thể của sự kiện trên.
− Việc giải tán quốc tế cộng sản liên quan đến quyết định của Stalin do nhượng bộ F. Roosevell và W. Churchill năm 1943 (dẫn theo: Roy Medvdev, Chân dung chính trị Molotov, đăng trên tạp chí Junost, số 4-1989).
− Việc Vũ Trọng Phụng khi bình thuật đã quy phần lớn trách nhiệm làm suy yếu cách mạng, suy yếu Liên Xô cho Stalin, giờ đây, nhận định này trở nên thông dụng, phổ biến trong dư luận báo chí Xô Viết. Phương hướng này ở giới sử học Xô-viết còn mạnh mẽ hơn nữa, đồng thời phương hướng này đang có một quy mô quần chúng rộng rãi, với việc thành lập Hôi "Memorial" (Hội liên lạc và cứu trợ những nạn nhân của chủ nghĩa Stalin) và tính chất quần chúng rộng lớn của hội này. (Tất nhiên có thể còn có nhiều tư liệu đích đáng hơn mà nhiều người đã đọc, tôi chỉ xin dẫn ra một số tư liệu ghi được trong phạm vi đọc của tôi).
Ở trên, tôi có nhận xét rằng ở bài báo dài này, Vũ Trọng Phụng chỉ hiện diện như một người lược thuật, mức cao hơn là bình thuật và chỉ đôi chỗ mới có đôi nét của nhà bình luận. Ở trên cũng đã nói ý định cắt nghĩa động cơ nhận tội phản bội của những người vốn là chiến hữu của Lênin trong vụ án 1937. Trước đó khi nói đến "cuộc xâu xé của những tay đồng chí cũ", tuy không nói rõ ra, nhưng có vẻ như Vũ Trọng Phụng hình dung sự việc này tương tự như những điều thường xảy ra ở phương Đông sau khi một triều đại được thiết lập. Ý đồ cắt nghĩa động cơ nhận tội của 13 nạn nhân vụ án 1937, khác hơn một chút, lại gắn với nhận xét về "thủ đoạn kiểu Machiavelli". Ở đây bộc lộ những hoài nghi hoặc thiếu hiểu biết của Vũ Trọng Phụng về người cộng sản làm cách mạng, đấy làm một mặt. Mặt khác "hoài nghi kiểu trí thức" này của ông không cá biệt. Về "vụ án 1937", về tính chất trấn áp, bạo lực… của cách mạng Nga, nhiều trí thức văn nghệ sĩ cỡ lớn cũng từng suy nghĩ, cắt nghĩa theo những hướng khác nhau. Xin dẫn vài ví dụ:
− 1931, sau khi thăm Liên Xô về, kịch tác gia Anh B. Shaw viết cuốn sách Nhận thức lý tính về nước Nga (Rationnalisation of Russia) trong đó cố ý bỏ qua các khái niệm nhân đạo, luật pháp để hiểu cách mạng Nga. "Một cuộc cách mạng tiến hành thắng lợi phải đưa những người tham gia và ủng hộ nó đến sự tuyệt vọng bi đát" − "Ở thời điểm cách mạng hiện hình thành chính phủ, nó thế tất phải bắn bỏ các nhà cách mạng" − "Tôi không trách chính phủ Xô-viết đã không đem lại sung sướng cho những thiên thần của cách mạng… tôi càng ít trách chính phủ ấy vì đã bắn bỏ những người vô chính phủ và những người theo chủ nghĩa công đoàn từng là chiến hữu, là đồng chí đồng cam cộng khổ trước đây". Tuy biện hộ nhưng tác dụng lại ngược chiều. Dẫu vậy các nhà nghiên cứu Liên Xô hiện nay vẫn coi Shaw như là một trong số những nhà văn nước ngoài đầu tiên động đến những vấn đề nhức nhối nhất của xã hội Xô-viết do tiếp nhận thử nghiệm chủ nghĩa xã hội theo mô hình Stalin (Dẫn theo T.L. Motyleva: Bạn bè của tháng Mười và những vấn đề của chúng ta. "I.L." [Văn học nước ngoài”], số 4/1988, tr.161).
− Cuốn sách Ở Liên Xô về (Retour de l' URRS, 1936) của André Gide (mà đương thời đã gây tranh luận ồn ào trong giới trí thức, văn nghệ sĩ châu Âu; ngay hồi ấy cũng là cuốn sách khá phổ biến trong giới trí thức, văn nghệ sĩ ở nước ta), gần đây đã được in lại ở Liên Xô, và với cuốn sách này A. Gide được coi là "người đầu tiên trong số các nhà hoạt động văn hóa nước ngoài đã đánh lên tín hiệu về các hình thức quái đản do chấp nhận tệ sùng bái cá nhân Stalin" (T.L: Motyleva, bài báo dẫn trên).
− 1956, trước khi mất ít lâu, Bertolt Brecht có một bài báo Về sự phê phán Stalin, dưới hình thức đề cương. Ở điểm (4) ông viết: "Việc tiêu diệt sự dã man tư bản chủ nghĩa có thể tự thân nó đã bộc lộ những nét của sự dã man. Trật tự dã man nảy sinh bằng cách như vậy ngay từ đầu có thể đã chứa đựng những nét của tính phi nhân, do chỗ − như Marx đã viết − giai cấp vô sản được nuôi dưỡng trong những hoàn cảnh thiếu tính người. Cách mạng cùng một lúc tháo cởi ở con người cả những phẩm hạnh kỳ diệu lẫn những thói tật thâm căn cố đế" (dẫn theo tư liệu trên, tr.170). − 1956, sau đại hội XX Đảng CSLX, nhà thơ CHDC Đức Johannes Robert Becher tự phê bình những ảo tưởng của mình về chủ nghĩa xã hội, cho quan niệm của mình là tiểu tư sản tiểu thị dân, cho nguyên nhân là ở ý muốn nôn nóng biện hộ cho một kiểu thực nghiệm chủ nghĩa xã hội mới chỉ đang bắt đầu. "Những ai suy nghĩ và mơ ước về chủ nghĩa xã hội như thiên đường trên mặt đất, những người ấy sẽ nhận ra rằng chế độ xã hội chủ nghĩa đẻ ra kiểu người sẵn sàng làm tất cả nếu không trực tiếp áp dụng các phương pháp dã man thì cũng không dứt khoát từ chối các phương pháp ấy, và những minh chứng về điều này thì chỉ vừa mới đây thôi chúng ta mới có được, do chỗ các phương pháp ấy tỏ ra còn dã man hơn cả những gì đã được áp dụng trong quá khứ" (J. R. Becher, Tự kiểm duyệt // "Litteraturnaya Gazeta" số 30, ngày 27/7/1988).
4/ Trở lại với nhận định hồi những năm 1960 về bài báo này của Vũ Trọng Phụng, tôi nghĩ là không cần tranh luận với nhận định về "tác hại khách quan" của bài báo này đối với phong trào cách mạng trong nước đương thời. Thậm chí, cũng cần thừa nhận nhận định ấy nếu nó là do chính những người hoạt động trong phong trào cách mạng đương thời nêu lên: sự xác nhận của họ đã là một sự kiện.
Về ý nghãi thông tin thời sự-lịch sử khách quan, như chúng tôi dẫn giải một số khía cạnh nêu trên, rõ ràng bài báo không xuyên tạc lịch sử, không "bôi nhọ cộng sản", "đả kích Liên Xô" như một số nhà nghiên cứu những năm 1960 đã quy kết.
Ở đây cần làm rõ một vài khía cạnh có quan hệ đến quan điểm lịch sử.
Chúng tôi lưu ý những đặc điểm về thời gian và tác giả bài báo: bài báo xuất hiện trong môi trường dư luận của xã hội thực dân, tức là người cộng sản và đảng cộng sản chưa nắm chính quyền, chưa làm chủ dư luận (hơn nữa thường bị cấm đoán, đàn áp). Tác giả bài báo tuy có quan tâm theo dõi (một cách tự nguyện) tình hình thế giới nhưng ông không đứng trong hàng ngũ đảng phái chính trị nào, thiện cảm và ác cảm với các xu hướng chính trị ở ông có những sự ngả nghiêng tuỳ từng thời điểm.
Chúng tôi cũng lưu ý đến bối cảnh những năm 1960 và tác giả của những nhận định nêu trên về bài báo của Vũ Trọng Phụng: Thời gian này xã hội miền Bắc đã qua 15 năm từ khi đảng cộng sản giành được chính quyền, đã hoàn toàn làm chủ và toàn quyền giám sát mọi hoạt động tinh thần, tư tưởng, ngôn luận. Do vậy việc đề cao người cộng sản và toàn bộ phong trào cộng sản (tại mọi thời điểm lịch sử của nó) trở thành một trong những khuôn mẫu bắt buộc của mọi phát ngôn trong dư luận, kể cả các phát ngôn thuần tuý tư liệu về lịch sử quá khứ. Khuôn mẫu này, quy phạm này đương nhiên là cũng trở thành tiêu chuẩn đánh giá lịch sử, kể cả lịch sử văn học. Trường hợp Vũ Trọng Phụng, ông viết bài báo này trong thời điểm chưa xuất hiện quy phạm nêu trên, nhưng lại được xem xét vào thời thịnh hành của quy phạm ấy nên tất bị định giá theo yêu cầu của quy phạm ấy. Đây là một "ca" thông thường, "có thể hiểu được" như chúng tôi đã nêu từ đầu, tuy bản thân sự nhận định này lại vi phạm quan điểm lịch sử (nếu quan điểm lịch sử được coi như là "phải đặt sáng tác vào đúng thời điểm nó được viết ra để đánh giá nó"). Nhưng quan điểm lịch sử còn tính đến viễn cảnh: nếu những tư tưởng, nhận định, thậm chí là những thông tin mà đương thời đã khó được chấp nhận, nhưng lại tỏ ra chịu đựng được thời gian − dẫu chỉ là thời gian cần để thừa nhận độ tin cậy của những thông tin cũ, − thì quan điểm lịch sử lẽ nào lại không tính đến yếu tố này?
5/ Cuối cùng, trở lại với đề tài về bài báo dài và về bản thân nhà báo Vũ Trọng Phụng, chúng tôi không đánh giá thật cao về bài báo và tác giả của nó. Thậm chí với bài báo này, chúng tôi nghĩ không thể gọi tác giả của nó là nhà bình luận thời sự quốc tế được (Và điều này không phải là làm ra vẻ nghiêm khắc. Chúng ta biết rằng nền báo chí mấy chục năm qua cũng chỉ rõ rệt ở khuôn mặt tập thể. Hầu như nó chưa đẻ ra được nhà bình luận quốc tế nào mà tên tuổi và tiếng nói được độc giả thế giới quen thuộc và lưu ý lắng nghe). Với bài báo này, Vũ Trọng Phụng chỉ khiêm nhường là người đem những tư liệu đọc được ở báo chí nước ngoài, nhất là báo chí cấp tiến ở Pháp (trong đó có báo chí của đảng cộng sản) thuật lại với công chúng trong nước. Và chỉ ở đôi chỗ giữa dòng thuật lại kể lại ấy, ông mới chen vào đôi ba suy luận chưa thật hoàn chỉnh của mình. Về mức độ sự thật mà ông thông tin, ông cũng bị hạn chế ngang như (nếu không phải là nhiều hơn) những nguồn tư liệu sách báo mà ông thu nhận. Nếu trong những thông tin này có những điều sẽ được xác nhận rộng rãi thì đó cũng không phải do sáng suốt của cá nhân ông. Chẳng qua ông chỉ khách quan hơn trong việc xử lý các nguồn tin, lại cũng do ông không phải làm việc trong một môi trường dư luận có nhiều quy phạm, nhiều huý kỵ.
Tuy nhiên cũng sẽ không công bằng nếu không thấy mẫn cảm nhà văn có một vai trò nào đó, dù ít ỏi đến mấy, trong lựa chọn và xử lý thông tin của ông. Tôi muốn nghĩ đến mẫn cảm về sự thật là cái đã giúp ông rất nhiều khi xử lý các tài liệu đời sống gián tiếp để viết các tác phẩm văn học − phóng sự và tiểu thuyết. Có lẽ mẫn cảm ấy cũng đã làm lóa lên ở ông những nghi ngờ nào đó về cái sự thật bề sâu bên trong các phong trào xã hội chính trị ở quy mô quốc tế mà ông không có cách gì tìm biết.
Lưu ý đến những "chớp loé" ấy, đối chiếu nó với những tư liệu quốc tế về những phản xạ của giới nhà văn, giới trí thức nghệ thuật thế giới từ đầu thế kỷ này đối với sự kiện lớn nhất thế kỷ: cách mạng tháng Mười và sự ra đời nhà nước kiểu mới, − chúng ta thấy Vũ Trọng Phụng dù chỉ hoạt động trong một môi trường bó hẹp của văn học và báo chí nước nhà, nhưng những tình cảm của ông đối với sự kiện lớn này, thái độ của ông trước tính chất phức tạp của những sự kiện gắn với tệ sùng bái cá nhân Stalin − nói chung không xa lạ với trạng thái và tính chất các phản xạ của giới văn hóa thế giới đương thời, dù chúng ta chỉ mới tính đến những nhà văn hóa được coi là bạn bè của cách mạng tháng Mười, bạn bè của đất nước đầu tiên giành được chính quyền về tay công nông. 08/10/1989 ● Tham luận tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 50 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng, Văn Miếu, Hà Nội, 12/10/1989 ● “Tạp chí văn học”, s. 2/1990
|