CHIẾC CÁNG XANH

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tiểu dẫn. Tiểu thuyết Chiếc cáng xanh được in lần đầu trong tủ sách “Những tác phẩm hay” của Nxb. Tân dân; trước đó, tác phẩm này cũng đã được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, tuần báo của Nxb. Tân dân. Chúng tôi chỉ sưu tầm được bản in thành sách riêng, không sưu tầm được toàn bộ các kỳ đăng báo nên không thể làm đối chiếu và bổ sung những đoạn bị kiểm duyệt cắt bỏ.  

N.B.S.

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

 

 

Năm ấy, tôi mới lên tám. Thuở bấy giờ một đứa bé vào tuổi ấy chẳng khôn lớn gì hơn một đứa bé bây giờ mới lên năm. Nhưng, vì có lẽ thiên bẩm dồi dào hơn một chút, cho nên đối với những đứa bé cùng tuổi, tôi đã ra dáng biết nhiều, hiểu nhiều hơn chúng. Thật ra, sự hiểu biết ấy cũng chỉ chu tuần ở trong vòng tình cảm mà thôi. Nói một cách khác là tôi đã sớm biết rung động rất nhiều trước một cảnh vật khả ái, hay trước cái tình lưu luyến mênh mông của một bà mẹ.

Cảnh vật thứ nhất đã đắm mê tôi là cái cảnh rừng núi trên con đường từ làng nội tôi đến làng ngoại tôi. Và người đàn bà thứ nhất đã chiếm giữ cả tâm hồn bừng sương của tôi là mẹ tôi.

Cuốn tiểu thuyết này hay là cuộc đời tôi, – tôi có thể nói là bắt đầu từ con đường ấy và người đàn bà ấy. Những cảm giác đầu tiên của tôi, là do người đàn bà và cái cảnh đường ấy in vào trong tâm hồn tôi. Và nay tôi là người thế nào, là do những cảm giác đầu tiên đó đã đúc nên vậy.

Cuốn truyện của đời tôi, không biết đến bao giờ mới chép đến trang cuối, nhưng mỗi khi giở lại mấy trang đầu, bao giờ tôi cũng thấy sa xuống trên mầu giấy trắng toát, cái bóng âm u của người đàn bà ấy mà tôi được gặp đầu tiên trong cõi đời trần thế của tôi. Vì bao giờ tôi cũng tỷ dụ rằng: trái với sự quả quyết của khoa học, một kiếp sau sẽ có, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài cõi đất. Trong cái kiếp sau ấy, tôi sẽ còn gặp lại mẹ tôi và cũng vẫn ở trên con đường ấy, từ làng nội đến làng ngoại của tôi. Một người đàn bà hiền hòa khả ái như mẹ tôi, không phải là Thượng đế chỉ cho ta gặp một lần để rồi không bao giờ gặp lại nữa. Tôi ước nguyện rằng lòng tin sẽ tạo ra sự thực. Và nhờ thế, mẹ tôi chưa chết  hẳn. Không, một người như mẹ tôi không thể nào chết hẳn được. Mẹ tôi không phải chỉ là một xác thịt để rồi tiêu tán với nước gỗ. Mẹ tôi là một người mẹ, chỉ thế, trong linh hồn ấy cũng đã ẩn chứa một sứ mệnh thiêng liêng, một nguyên lý bất diệt.

Tôi không nhớ rõ lần ấy là lần thứ mấy tôi theo thầy mẹ tôi từ làng nội về làng ngoại. Nhưng làm sao tôi quên được cái buổi chiều mát lạnh ấy, mà gió lên vội vàng, hấp tấp, đêm xuống nhanh như để dành cướp lấy cái buồn vắng của một chiều thu tàn. Thoảng bên tai, tôi còn nghe mẹ tôi vừa nhổ bãi trầu cái toẹt, vừa giục người nhà:

– Các chú sửa soạn mau lên một tý. Mặt trời chỉ còn một lẻ sào nữa thôi. Liệu đấy!

Một lát sau, tôi trông ra phía núi, thì mặt trời đã đỏ gay, to bằng cái nia, chỉ đợi tôi ngoảnh mặt đi là tụt dần xuống núi.

Mẹ tôi vẫn hối những người đầy tớ:

– Đi sớm được tý mô hay tý nấy. Các chú khần khừ thế này, thì đêm đến canh hai, cũng chưa đi được.

Một người tớ già, ngồi xếp những thứ ăn vào một cái quày, ung dung nói:

– Thưa bà, chả có việc chi mà phải gấp cả. Mười chín nín trấu. Hôm nay mười chín thì dễ thường cũng phải đợi đến đầu canh hai mới có trăng.

Me tôi cười:

– Tôi cũng không tính việc hôm ni có trăng.

Một lát me tôi nói tiếp:

– Mà trăng hay không trăng cũng thế thôi, phải không các chú? Rừng năm nay, nhờ Bụt, cũng hiền. Nói tỉ dụ mà nghe, dù trời có tối mò mò cũng chả việc chi.

Nhưng đến nay, mỗi khi tôi sực nhớ lại những câu chuyện loạn rừng, và sống lại trong tâm hồn những giờ kinh khủng ở giữa xóm quê khi trời chưa tối mà rèm đã sập lại, thì tôi luôn tự hỏi: Tại sao thầy tôi lại lấy mẹ tôi? Lấy một người vợ cách rừng như thế để cho trong sự đi lại giữa hai gia đình thêm khó khăn và phiền phức. Đến nay, tôi cũng chưa tìm được một câu trả lời. Có lẽ tại me tôi là một người có nhan sắc chăng? Hay là chỉ tại me tôi là một người có tiền? [a]

Dầu sao, đối với tôi, sự phối hợp cách biệt của thầy me tôi, là một điều hay: nó đã cho tôi hằng năm một cuộc du lịch thú vị mà thành kính như cuộc đi viếng đất thánh của những tín đồ ở xa.

Mỗi năm, tôi nhớ chừng thường thường vào tháng chín mà vào một ngày giữa tháng, cái tháng mà những cơn gió bão từ đâu về, và khi đi khỏi rồi, để lại những ngày trong như gương, phản chiếu cái mầu trắng phau của những đàn cò ở trên một thảm lúa xanh rì.

Nhưng chiều hôm nay sao gió lên mau quá, hình như ở một rừng Lào dồn về. Lần thứ nhất trong lòng trẻ dại của tôi thấy có một nỗi mênh mông như một nỗi buồn trong chiều ly biệt. Hình như là tôi sắp phải từ giã đây, từ giã những cái khờ dại, cái vô tội, cái hồn nhiên của cây cỏ để bước vào một thế giới tình cảm của giống người. Có lẽ hôm đó là lần thứ nhất trong trí tôi ngừng lại một ý nghĩ để ghi lại những rung động tha thiết đầu tiên của tâm hồn.

Tôi thấy cả một buổi chiều lạnh ôm trùm trên những ngọn tre phất động. Và buổi chiều đã đượm thấm vào trong tâm hồn tôi.

Nhưng quả thật có thế! Đêm, ngày hôm ấy, đến một cách gấp vội hình như để bôi đen cả tâm hồn tôi và xóa hẳn những cảm giác đầu tiên vừa mới nở.

Mẹ tôi đã đến sau lưng tôi:

– Con không sửa soạn về thăm ông ngoại à? Ông ngoại con đương ốm nặng, con có biết không?

Tôi ngẩng mặt nhìn me tôi ngơ ngác. Me tôi muốn giấu sự cảm động, gọi chị tôi bảo:

– Chị Nguyệt đâu! Không thay áo cho em.

Trăng vừa chồi ở trên nóc nhà ngang thì chúng tôi bắt đầu đi. Mẹ tôi với tôi và một người em gái tôi nữa nằm một cáng, một thứ cáng có trần, và phủ diềm xanh. Chính cái cáng chúng tôi đi, xưa kia, ngày thầy tôi còn làm quan đã dùng để đi hành hạt. Cáng ấy, trông cái đòn chạm trổ kỹ càng, tỉ mỉ với lại tấm diềm tha thướt, còn giữ được cái vẻ đài các, quan dạng ngày xưa. Mỗi năm, cáng gác cất trên rầm nhà, chỉ đến độ này mới lấy xuống đề phủi sạch và sửa sang lại.

Thầy tôi thường nói, với một giọng sung sướng: Ngày xưa, có một bận, một vị quan thủ hiến, vì phải nhường cái võng điều lại cho ông sứ, đã phải nằm ở cái cáng xanh này để đi thăm một con đường núi.

Đến nay, sau hơn 20 năm rồi, tôi còn thấy rõ như mới hôm qua, cái hình ảnh diễm dáng, đài các của chiếc cáng xanh, mà tôi coi như là cái hình ảnh đầy đủ và khả ái của một thời dĩ vãng bình lặng. Nhất là những khi cái cáng ấy, chống lên trên hai cái nạng cắm ở trước sân của một nhà trạm hiền lành, thì ta tưởng như thời giờ không đi nữa, mà mọi sự chuyển di ở trên thế giới cũng không có nữa. Một mầu điều hay một mầu xanh của diềm cáng, lấp lánh dưới ánh nắng một buổi trưa, hay phất động trong một cơn gió chiều, thì ta cũng cảm thấy một nỗi buồn bằng phẳng và không lưu động, cái nỗi buồn của cuộc đời trước khi Âu hóa.

Khi bắt đầu lên cáng thì tôi hình như cũng đã bắt đầu ngủ. Trong lúc ấy, thì cáng có lẽ lên dốc và xuống dốc đã nhiều lần lắm rồi, vì tôi biết đường phải đi qua những động núi. Nhưng có một lúc nào đó tôi nhớ có thức giấc dậy.

Tôi nhìn ra ngoài, thấy ánh trăng tuôn chảy ra như chì trên đường sỏi, trên các lùm lá, trên các lối đi. Tôi thấy hơi hơi ghê lạnh từ trong tâm hồn. Tôi co mình vào trong lòng mẹ tôi, và hỏi:

Thầy con và anh con ở đâu me?

Me tôi đáp bằng một giọng rất tỉnh táo:

Thầy con và anh con đi ngựa. Có lẽ đã đi trước rồi.

Rồi đổi giọng, me tôi hỏi những người phu cáng:

– Quan huyện ngài đi trước rồi phải không các chú?

Dạ, bẩm quan con đi trước.

– Các chú bẩm ngài đi từ từ một tý.

– Dạ, thưa bà, thế tất quan con cũng phải đợi, vì chúng ta cũng sắp đến truông.

– Truông ngoài hay truông trong chú?

– Dạ, mới truông ngoài…

"Truông", tiếng ấy dội vào trong tâm hồn tôi như một điệu ghê lạnh. Cái óc trẻ con, tôi tưởng tượng cảnh truông như một đoạn đường cây cối rậm rạp ghê sợ nhất, quanh năm không có bóng mặt trời, không có bóng người, chỉ có những thú dữ.

Tôi hỏi me tôi:

– Con nghe nói ở truông có nhiều khái…[b]

Me tôi vội giơ tay bưng miệng tôi lại. Thật bất giờ tôi không hiểu sao như vậy, mà tôi cũng không hỏi vì cớ gì mẹ tôi lại không cho tôi nói hết. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu rồi: tiếng khái là tên húy của chúa sơn lâm, không nên nói đến, nhất là trong khi đi đường rừng lại càng không nên nói đến.

Me tôi im lặng một lúc lâu, hình như để giấu sự sợ hãi. Một hồi lâu, me tôi nói với những người phu cáng:

– Các chú xem quan có đứng lại chờ không?

– Bẩm bà, quan đã đứng lại ở gốc đa.

Me tôi cất giọng bảo thầy tôi:

– Thầy nó đi đâu mà vội thế! Vào truông nên cho ngựa đi chầm chậm và kèm một bên cáng.

Trong lúc ấy, một thứ chim gì lạ khắc khoải đánh ở trong một bụi gần. Mãi sau tôi mới biết đó là con chim kiềng kiềng, mỗi khi có chúa rừng ra suối uống nước, thì nó lại "đánh" từng hồi gấp rút.

Tôi nghe thấy me tôi nín thở lại. Và cả bao nhiêu người đều im lặng, một sự sợ hãi đè nặng trên tâm hồn mọi người…

Một hồi lâu lắm người phu cáng thở môt cái thật dài và nói trước:

– Kể kiềng kiểng nó đánh có nhiều khi thiêng mà nhiều khi…

Me tôi ngồi nhổm  dậy, ngắt lời:

– Nhưng mà bây giờ thật đi qua truông rồi đấy chứ?

Người phu cáng cười:

– Dạ, có qua truông rồi, con mới dám nói.

Thầy tôi xen vào:

– Có gì đâu mà ngại! Nói dại mà nghe, ví dụ có ngài ra khe, thì ngựa tôi đây có dám đi nữa đâu. Nó phải rúc đầu vào một cái bụi cây và nó hí lên một cách ghê rợn lắm.

Me tôi hỏi lại:

– Làm sao ngựa lại rúc đầu vào bụi như thế, thầy nó hỉ?

– Ấy, ngựa nó cũng tinh khôn lắm. Nó "bắt" thấy mùi ngài một cách tài tình lắm, không bao giờ lầm cả. Mà một khi ngài đã ra, thì dẫu ngựa có phi đường trời, ngài cũng đuổi kịp. Cho nên ngựa chỉ có một cách để tự vệ, là che hết nửa thân hình đi, và chỉ giơ hai chân sau mà thôi: ngựa nó cũng chỉ có hai chân sau là "chặt" được, và "chặt" mạnh lắm.

– Nhưng, nói đổ sông đổ biển, ví dụ lúc bấy giờ mình còn ở trên lưng ngựa, thì biết làm thế nào được?

Một người phu cáng xen vào:

– Con nghe những người đi củi thường nói rằng: hễ mỗi khi gặp ngài, thì nên quỳ xuống, mà van lạy ngài đi, và nhìn chòng chọc vào mắt ngài, thì thế nào ngài cũng tha cho.

Một người phu cáng khác:

– Bẩm quan bà, chú Thởn chú nói cái ấy có thực đấy. Con cũng có nghe Cố Điệt thường nói: hễ thấy ngài rồi, thì chẳng bao giờ ngài làm tội cả, ngài chỉ chộp khi bất thình lình mà thôi!

Chú Thởn:

– Chú Thạc nà! Mà ngài chộp, cũng chỉ chộp người đi đầu hay người đi cuối thôi, chứ chẳng bao giờ chộp người đi giữa cả.

– Cái ấy thì đã hẳn.

Rồi câu chuyện giữa hai người phu cáng dần dần rơi vào trong cái ướt lạnh của đêm sương. Tôi cũng lại đi ngủ lúc nào, không hay… Mãi đến lúc, hình như gần đồng ruộng, tôi mới lại trở dậy.

Tôi nghe tiếng chân đi san sát và đều đặn của những người phu cáng. Dưới chân ngựa một vài tiếng sỏi đánh nhau rơi loảng choảng. Và tôi thấy giữa khoảng trời sương lấp lánh muôn nghìn mặt trăng: tâm hồn trẻ dại của tôi đã thấy như một cốc thủy tinh rung động theo điệu gió.

Tôi nghe rõ tiếng một người phu cáng, nói với người bạn nó; tiếng nghe lạnh quá:

– Chú Thởn nà! Ta xin phép quan bà nghỉ chân một tý đã nhá!

– Thì hãy cứ đổi vai một lần nữa đã nào?

– Không phải mỏi vai, nhưng mà không còn gối nữa.

Thầy tôi hình như không nghe chúng nói. Vì ngựa vẫn rộn ràng đạp trên đường sỏi.

Chúng vẫn đi, vẫn im lặng đi.

Bỗng xa xa, thưa thưa, đôi tiếng gà.

Đời tôi làm sao quên được những tiếng gà đầu tiên ở giữa rừng sâu ấy; tiếng gà làm cho ta có cảm tưởng ấm áp là sắp gần một thôn mạc nào… Nhưng đây chỉ là những con gà ri, gáy trắng…

Me tôi trở mình hỏi to:

– Đã đến đồng Kẻ Tra chưa các chú?

– Thưa bà, chưa đến, nhưng kể cũng không ngái mấy nữa.

– Các chú gắng đến đồng, lại nghỉ một lát cũng được.

Và khi chúng tôi đến đồng Kẻ Tra, thì mặt trời đã tung ánh sáng trắng vàng trên những đồng ruộng mạ xanh rì, như người thuyền chài tung cái lưới của mình vậy.

Sau đồng ruộng ấy là làng ngoại tôi. Ông tôi ở một xóm gọi là xóm Cồn, nghĩa là ở trên một đồi núi. Chúng tôi, bước khỏi cổng xóm là bắt đầu lên dốc, đi trên con đường đỏ ối. Tôi thấy một mùi đất ấm lạ, và cây cối ở trên xóm Cồn xum xê một cách khác thường khiến cho tôi có cảm giác rằng: cuộc đời ở đây, tựa hồ như là một cái gì rất dễ  dàng, rất đáng yêu: những cây cau vươn khỏi những mái tranh, và trên những vách đất đỏ gạch, leo lên với một cái khí lực mạnh dạn, những cây trầu lá xanh tươi và cong vạm vỡ.

Cáng tôi từ khi khỏi cổng xóm, đi vòng quanh, và cứ trèo, trèo mãi. Những người đàn ông hay người đàn bà thấy mẹ tôi thì cúi chào.

Họ đáp lại những câu hỏi của mẹ tôi, một cách niềm nở và lễ phép:

– Này Thím Thìn, có nghe Bọ (chỉ ông tôi) ra sao không?

– Bẩm bà, đã có mời ông Đước tới cúng rồi.

Một lát sau.

– Này Ả Dụng, Bọ có khá không?

– Bẩm bà, Bọ hai hôm nay không cháo cơm chi hết.

Một lát sau nữa:

– Thế nào chú Huýnh, Bọ…

– Bẩm bà, Bọ khó lòng mà ở rốn được.

Giọng mẹ tôi càng run run, chưa kịp hỏi, thì một bà cụ vừa chống gậy vừa xuống dốc, bà nói với đôi mắt rưng rưng:

– Bà huyện ơi! Có lẽ Bọ về mất.

Lúc bấy giờ hình như là lần thứ nhất tôi mới nghe người ta nói đến tiếng "bọ". Nhưng tôi cũng hiểu là một "tiếng" trịnh trọng để tặng những người già cả đáng kính.

Dần dần khôn lớn lên, tôi càng hiểu thêm: tất cả những dân trong xóm đều coi ông tôi gần như một vị "giáo chủ" dầu người ở trong xóm không theo đạo Phật hay đạo Thiên Chúa. Họ chỉ tin ở sự cúng quảy, chay đàn. Mà trong những đám tế hay đám chay nào, thì ông tôi cũng được mời ngồi làm "thầy cả".

Sự yêu vì có tính chất tôn giáo ấy của dân xóm đối với ông tôi còn có những lẽ khác nữa: ông tôi còn là một ông lang của dân xóm, và là một ông chánh tổng bổ thọ độc nhất ở trong làng ngoại tôi. Nhưng cái danh dự to hơn hết của ông tôi là được một người rể có tên trong làng khoa giáp và sĩ hoạn.

 

***

 

Khi đến gần ngõ nhà ông tôi, thì tôi thấy những người đàn ông và đàn bà vừa ở trong ngõ bước ra. Họ chạy lại gần cáng tôi và nói với mẹ tôi, và nói bằng giọng ngập ngừng cảm động:

– Bọ về rồi! Bọ về rồi! Thưa bà!

Tôi ngẩng trông mẹ tôi: Trên khuôn mặt mẹ tôi không còn một chút máu.

Và khi chúng tôi bước lên thềm, thì chúng tôi đã  nghe những tiếng khóc rống lên: "Bọ ơi! là Bọ ơi!"

Những dì tôi, nước mắt dàn dụa, chạy lại nói với mẹ tôi:

– Bọ chờ bà từ hôm qua đến hôm ni. Nhưng coi không thể chờ được, nên phải đi.

Mẹ tôi chạy vào cầm lấy tay ông tôi, và khóc rú lên. Tôi cũng khóc to như mẹ tôi. Anh chị tôi còn khóc to hơn tôi nữa.

Tôi ngẩng trông lên mặt ông tôi tuy da đã xanh nhợt nhưng cái chòm râu vẫn đáng kính đáng yêu biết bao! Tôi sực nhớ lại những lúc tôi ngồi ở trên gối ông tôi, và nhìn vườn cây qua cái chòm râu to dài ấy, thì tôi lại càng cảm động và khóc rú lên nữa. Thực ra tôi không hiểu rõ cái chết là cái gì, nhưng mang máng cũng biết rằng: cái chết là một cái gì buồn não như một sự biệt ly. Vì đời tôi đến lúc bấy giờ, thì chỉ có sự biệt ly mới là buồn não mà thôi. Tôi nhớ lại cái lần thứ nhất: mẹ tôi và tôi tiễn đưa anh tôi lên tỉnh học. Cuộc tiễn đưa ở trên bến sông. Con đò mang anh tôi, như chần chừ, ngân nga không muốn lượn đi, anh tôi cứ đứng mãi ở mui thuyền trông với. Mẹ tôi cũng đứng trông ra. Lẽ ra chúng tôi cũng có nhiều điều nói với nhau lắm. Nhưng mà trong lúc con thuyền một lúc một trôi xa, chúng tôi muốn nói gì phải nói thật to. Những cảnh vật trong lúc bấy giờ bắt chúng tôi không thể động mạnhh hay nói to. Phải âm thầm vì là ly biệt. Mà cái giờ phút trên bến sao kéo dài đến thế. Mà con đò thì hình như không đi và chỉ có dòng sông lượn, uốn khúc và để rồi che đò đi trong một cái khúc quanh. Tôi đương thẫn thờ nghĩ lại cái cuộc biệt ly lần thứ nhất trong lòng đứa trẻ dại thì anh tôi đã lại bên tôi, bấm vào tay tôi và nói:

– Doãn, em không khóc đi?

Như tỉnh khỏi một giấc mộng, tôi vội vàng khóc lên, khóc cho kịp những người khác.

Mấy hôm nhà có việc như thế, thì tôi thường được lệnh của me tôi:

Con đi ra lòi chơi…

Thấy tôi ngần ngại, thì mẹ tôi quay về phía Mượn:

– Mượn dẫn em đi ra lòi chơi đi.

Thực ra, Mượn về hình xác cũng không cao lớn gì hơn tôi. Mượn cũng chỉ suýt soát tuổi tôi, có lẽ còn kém tôi mấy tháng nữa. Nhưng theo một định luật bí mật từ ngàn xưa để lại, vì mẹ tôi là em mẹ Mượn, cho nên tôi phải gọi Mượn bằng anh và cũng vì thế Mượn cũng tự nhiên ra dáng khôn lớn hơn tôi vì điều này mới kỳ: tôi cũng tự nhiên thấy bé nhỏ bên cạnh Mượn.

Vẫn giọng âu yếm và cầu xin của mẹ tôi nói với Mượn:

– Mượn, coi, chớ để cho em chơi bẩn nhá!

– Dạ

Vẻ sung sướng và tự đắc hiện rõ ở trên mặt Mượn. Mượn đưa tay, choàng ngang lưng tôi và nói với tôi, hình như cũng như với cái giọng âu yếm, niềm nở của một người anh thực.

– Doãn đi ra lòi, anh hái đào cho ăn.

Tôi cũng không hề phản đối cái giọng đàn anh ấy, vì rằng: từ nhỏ tôi cũng đã biết ru lòng trong những ân tình đằm thắm của sự che chở, sự đùm bọc. Tôi nũng nịu:

– Anh Mượn, anh hái cho em nhiều khế ngọt nữa nhá!

– Được, em có thích ăn hồng không?

– Ừ hồng nữa, anh hái cho em nữa!

Từ đó, trong lúc chơi đùa hay trong lúc nghiêm trang, Mượn nhiều khi đã lợi dụng cái quyền đàn anh mà "bức" tôi. Nhưng có điều là tôi cứ để cho nó dẫn dắt, sai bảo, âu yếm tưởng như một sự đương nhiên vậy: mới hay cái sự được che chở, cái sự được nằm vào trong lòng yêu thương của một người khác, cái tính nô lệ cũng có những cái thú say sưa của nó, mãi sau này nghĩ lại cái sự nô lệ đầu tiên ấy của tâm hồn, tôi lại càng hiểu tại sao những người đồng bào của tôi, cả dân tộc của tôi như thích gửi ký thác cái sinh mạng, cái số phận của mình ở trong một sự che chở từ bên ngoài đến, đến không phải vì theo một tiếng gọi nào. Cái thú được dẫn dắt của tôi lúc bấy giờ thật chẳng khác gì cái thú được che chở của một dân tộc yếu bởi một dân tộc mạnh, của một người đàn bà muốn hèn yếu, muốn rơi rã ở trong lòng một kẻ tình nhân.

Thực ra, cái quyền sai bảo của Mượn đối với tôi hình như đi qua giới hạn và cũng có nhiều điều khó chịu và buồn cười. Tôi nhớ có một bận, tôi đương đứng tĩnh túc trước linh cữu ông tôi hình như là trong ngày "thành phục" thì phải, mọi người đương im lặng, bỗng có thầy thông xướng "xướng" hai chữ gì mà tôi không nghe ra. Nhưng Mượn ra dáng biết nhiều đưa tay bấm tay ý chừng muốn ra hiệu cho tôi một điều gì. Thấy vẻ ngơ ngác của tôi, Mượn ghé lại bên tai tôi và nói rất nhỏ và có ý tứ "Người ta xướng cử ai đấy! Khóc đi!"

Khi người ta đã biết đến hai chữ "cử ai" thì cũng phải ví dụ rằng: người ta biết nhiều lắm, ít ra cũng biết hơn mình. Nhưng tôi cũng phải đợi cho Mượn khóc trước, rồi tôi mới khóc theo. Cả hai chúng tôi đua nhau khóc nghe thảm thiết lắm, mê say lắm, đến nỗi không kịp để ý đến những người xung quanh có khóc không.

Một lúc lâu, có người lấy quạt đánh khẽ vào đầu tôi, tôi mới chịu nín đi. Tôi còn nhớ cặp mắt ngơ ngác và có vẻ hờn giận của Mượn, lúc bấy giờ nhìn tôi, và không hiểu sao người ta xướng "cử ai" mà lại không khóc được. Mượn nhìn tôi, có vẻ ngượng lắm, – và từ đấy đối với tôi cũng mất đi một ít uy lực. Văng vẳng tôi nghe xung quanh người ta nói: "Im đi mà nghe văn."

Tôi ngẩng trông lên trước bàn thờ đã có người lễ sinh quỳ xuống, tay bưng một cái bảng gỗ nhỏ và bên cạnh một thầy thông xướng rọi một cây nến, dầu bấy giờ còn ở giữa ban ngày.

Mượn nháy mắt bảo tôi:

– Im! Người ta đọc văn.

Thực ra tôi đã đứng im phăng phắc, bình lặng, tĩnh túc, tò mò đợi xem người ta làm gì… Bỗng giữa sự im lặng nghiêm trang, một tiếng ngân nga lên xuống – tôi không hiểu là gì cả nhưng cái tiếng ấy, đến bây giờ cũng còn văng vẳng dội lại trong lòng tôi, những điệu vừa não nùng vừa huyền diệu, từng giọt sầu thảm từng giọt rơi trong một ngày mưa rả rích ở trên mái ngói.

Nhất là khi tôi nghe người ta đọc đến tên tôi, thì tôi thấy có một thứ cảm giác vừa vui vui vừa buồn buồn. Nhân đó, mình lại càng cho mình một sự quan trọng mà lẽ ra mình không có.

– Cử ai.

Tiếng thầy thông vừa xướng dứt, thì mọi người, thầy me tôi, dì dượng tôi đều khóc rống lên. Tôi muốn khóc theo, nhưng mà tôi chỉ có kêu lên mà nước mắt không thể chảy ra được. Cho hay nước mắt của mình không phải là một điều dễ sai khiến. Mà khóc cũng không phải bao giờ là để tỏ sự buồn vậy. Nhưng từ đấy, có một điều làm cho tôi hơi ngờ ngợ: cái chết của người ta chỉ là một sự rộn ràng ở trong nhà, không phải là một cảnh ly biệt âm thầm ở trong lòng. Nhất là khi tôi nhìn vào cậu tôi trong cái bộ tang phục, có đủ mũ gậy như một ông võ tướng, thì tôi lại càng thấy cái chết không phải là một điều gì rất buồn nữa, – mà chỉ đáng buồn cười thôi. Thằng Mượn cũng hình như có cảm tưởng thế. Chẳng thế sao một hôm trước lễ "thành phục", nó khoe với tôi bằng một giọng tự đắc sung sướng:

– Ngày mai, anh Mượn sẽ được bịt khăn trắng.

Làm như được bịt khăn trắng là một điều tối vinh dự. Và làm như tôi cũng không được bịt khăn trắng. Nhưng ngày thành phục, tôi mới biết rằng: Tôi cũng được bịt khăn trắng. Mà than ôi! Đời tôi còn phải bịt đến mấy lần thế nữa.

Cất tang ông ngoại tôi xong, mẹ tôi vì có lẽ tại khóc nhiều quá, bị bệnh đau mắt. Thầy tôi trở về làng trước, còn mẹ tôi ở lại làng ngoại. Vì thế, Mượn và tôi còn được gần nhau. Ngày nào chúng tôi cũng dẫn nhau ra lòi chơi. Mượn hái đủ thức quả ở trong lòi cho tôi ăn. Và chính trong cái thời kỳ ấy, tôi đã học được nhiều tên cây, và bắt đầu yêu cây. Mượn đối với những loài vật, và nhất là đối với những con gà pha con, thì Mượn âu yếm lắm. Mượn thường vào nhà lấy trộm những nắm bắp đỏ chói, rắc cho gà ăn. Đến nỗi, mỗi khi Mượn đi ra lòi, là những con gà chạy lại và đứng chực sẵn: thường thường thì Mượn có một cái cử chỉ rất đáng yêu để đánh lừa bầy gà con là Mượn, mỗi khi ra đi, thu thu đút đút hai tay dưới vạt áo. Tuy trong bầy gà ấy, có một con gà cồ mà Mượn ghét lắm: con gà ấy là một thứ gà chọi, ông ngoại tôi nuôi nó đã 6 - 7 năm. Nó to, cao và dữ lắm. Da cổ nó rất dày và đỏ gay như mặt trời. Đêm nó không vào chuồng, ngủ ngay ở trên cổng lòi, và thị uy với cả loại chồn cáo ở trong lòi. Bình sinh ông ngoại tôi nâng niu nó lắm, mà từ khi ông ngoại tôi mất đi, hình như nó đâm ra dữ và hỗn. Tôi thấy có một bận, nó chạy đuổi theo Mượn và cướp mổ những hạt ngô ở trên tay Mượn. Đối với loài gà, hay loài vật gì, tôi cũng không còn có một kỷ niệm khả ái đáng ghi chép lại. Nhưng đối với loài cây, thì tôi có cảm tình lạ. Nhất là đối với những cành đào khẳng khiu, mang những trái đào "hừng hững" tròn trĩnh, thì tôi thương lạ, và ngạc nhiên vô cùng. Tôi không hiểu vì sao những cành đào ấy lại có thể mang một cách tự nhiên, những trái đào hình như đã lạc loài đến ở đấy. Tôi thích nhất là người ta kể cho nghe cái đời của loài cây. Và một hôm thấy tôi ngắm cây cam sành, ở cạnh giếng, me tôi nói với tôi:

– Con có biết cây cam ấy xưa kia ông con nâng niu biết bao nhiêu không!

Rồi me tôi kể như kể một câu chuyện thuộc lòng:

– Cây cam sành, đến nay đã 27 năm rồi, ông con "bứng" ở nhà ông Chánh Đước về. Chính năm me lấy chồng, là năm nó ra trái đầu tiên. Me còn nhớ, về nhà chồng được một tháng, me lại trở vô đây để thăm ông mệ con, rồi đến khi me đi, mệ ngoại con vất vào trong thúng may của mẹ năm trái cam sành ấy và dặn: "Con về gọt cho bà gia con ăn". Bà nội con thích ăn lắm, đến nỗi từ đấy, hễ me về quê ngoại, là bà cũng dặn mẹ xin một ít cam cho bà. Có lẽ cũng nhờ thế, cái đời làm dâu cũng bớt chua cay.

Bỗng me tôi ngừng nói. Mấy giọt nước mắt long lanh trên mí mắt me tôi. Me tôi nói thêm giữa những tiếng nức nở:

– Con xem, từ khi ông con mất đi, thì cây nó bắt đầu héo mòn. Mà rồi, năm nay, sợ cam không có trái nữa.

Tôi cũng cảm động theo me tôi. Trái với lời đoán trước của me tôi, cây cam sành ở cạnh giếng vẫn có trái mà trái cũng vừa ngọt vừa thanh lắm. Nhưng có điều này, tôi đã nhiều lần kinh nghiệm: là người chủ yêu dấu mất đi, thì cây cối mà bình sinh người ấy thường coi ngó nâng niu, cũng héo hon dần. Cây cam của ông tôi, sau một năm đã khô đét lại, và chết cả mầu tươi xanh. Và sau này, cây trầu… cây trầu... của me tôi… nhưng thực lòng tôi chưa muốn nói tới, không muốn nói tới. Có một điều này mà đến nay tôi cũng nhận thấy là cây cối hình như cũng gây ra, và cũng chịu lấy một phần lớn những đau khổ của đời tôi… Cũng như cái loài gà khả ái cũng chẳng làm cho Mượn được sung sướng gì hơn.

Có một sự tình cờ làm cho tôi cảm động vô cùng: trước mấy hôm, khi chúng tôi từ biệt nhau để Mượn về làng nội của Mượn, mà tôi cũng theo me tôi về làng nội của tôi, thì có người thợ ảnh đi qua xóm Cồn. Thực ra, bấy giờ vào kỳ thi tuyển sinh, quan đốc học ở tỉnh có phái một người thợ ảnh đi các trường làng và trường tổng để lấy ảnh cho các học trò thi. Luôn thể, người thợ ảnh ấy cũng chụp cả cho những ai trong làng muốn lưu lại một kỷ niệm của mình lúc thiếu thời nếu kẻ đó là một người còn trẻ, và là một chút kỷ niệm ở trên cõi đời, nếu kẻ đó đã là một ông già. Hình như lần ấy là lần thứ nhất, người ta bắt các "cậu khóa" trong bản tỉnh phải dán ảnh mình vào đơn thi. Cũng nhờ thế, xóm Cồn lần thứ nhất được trông thấy người nhiếp ảnh, mà họ coi như một kẻ có phép tiên, có thuật lạ. Trừ những người nghèo khổ quá, những nhà khá giả ở trong xóm Cồn đều cố rước cái ông thợ nhiếp ảnh về nhà, để chụp cho cả gia đình mình một cái. Thật là một quang cảnh đến cảm động và buồn cười, người ta thấy những người đàn bà nhà quê, quanh năm bò lội ở dưới bùn lầy, bây giờ cũng chít cái khăn nhiễu tam giang, mặc cái áo cổ y, và – điều này mới cảm động hơn – cũng cố xỏ hai chân thô, to vào đôi guốc quai da nhỏ nhắn. Lại những ông cụ già, đầu râu đã bạc tuyết, lộng lẫy trong bộ áo quần đỏ hoe, cũng cố chễm chệ ngồi lên trên một cái ghế mây, hai tay đặt lên trên đôi gối, và giữ chặt lấy sự cân đối, những ông cụ già ấy cũng để cho người ta thu hình như một đứa trẻ con.

Có cụ nóng thấy hình của mình hỏi người thợ ảnh:

– Thế được rồi chứ ngài, ngài cho lão xem một tý nào.

Người thợ ảnh vẫn một cái cười không mỏi mệt:

– Thưa cố, phải để cho cháu sang ra giấy đã chứ.

– À ra thế! Phải bao lâu mới được?

– Thưa cố, phải đến ba hôm.

Cụ già như thất vọng:

– Phải đợi đến 3 hôm ư! Lâu quá nhỉ?

Thật là một ngọn gió hiền hòa trẻ trung đã thổi qua xóm Cồn: mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo, suốt mấy hôm chỉ bàn tán về việc nhiếp ảnh. Họ bình phẩm một cách vui vẻ về anh thợ ảnh thì ít, mà về dáng điệu ngượng ngùng, kỳ lạ của những người bị chụp hình thì nhiều. Duy có một sự căm hờn, và buồn tủi đã đến ở trong gia đình ông tôi. Mẹ tôi, dì tôi, tất cả đều cho rằng: Ông tôi chết một lúc chẳng may. Giá mà ông tôi nấn ná lại độ hai, ba tuần nữa, thì thế nào, cũng đã có thể lưu lại cho con cháu cái tấm ảnh phương phi của mình: vì ông tôi là một ông già đẹp – ai cũng phải nhận thế. Rồi cho đó là một điều đau tủi, ngày hai bữa cúng cơm, dì tôi và mẹ tôi lại khóc, vừa khóc vừa kể lể. Cái vui của gia đình cũng dường như bị cấm tiệt: lúc đầu không  một người nào dám nghĩ đến sự chụp lấy một tấm ảnh chung cho tất cả gia đình, vì thật ra sự tụ họp đông đủ như thế, thật là một dịp hiếm. Hình như cũng nghĩ đến sự chia cách rất gần của đôi bạn trẻ mà me tôi thường gọi với một giọng đầy âu yếm là "anh em nó", có lẽ cũng nghĩ đến sự chia biệt sắp đến của Mượn và tôi mà mẹ tôi, như quên hết cái đau tủi về phần ông tôi, – dám bác hết sự phản đối, cứ bằng lòng để cho hai chúng tôi chụp chung một tấm hình. Cái tấm hình đến nay đã rách nát đâu cả nhưng tôi quên làm sao được cái vẻ già dặn và chững chạc của hai chúng tôi, ngồi trên hai chiếc ghế đẩu đặt ở trước sân. Chúng tôi có cái nhìn thẳng thắn làm sao! Mà hai môi như mím chặt lại để giữ lấy nụ cười. Còn hai tay thì giữ lấy hai bên vạt áo như sợ nó giun lại, và để lộ những đường răn không đẹp.

– Này các cậu, nhìn vào đây.

Nhưng thực ra chúng tôi đã nghiêm trang, cung kính nhìn vào cái bàn ảnh từ lâu, vì tưởng một cách ngay từ phút chúng tôi ngồi lại. Và đến khi người ta đã chụp xong rồi, mà chúng tôi vẫn tưởng chưa, cứ ngồi lỳ ra, với cái nhìn ngay thẳng và không chớp.

Chúng tôi đứng dậy, thở ra một cách sung sướng, tưởng như mình vừa thoát khỏi một cái hình phạt thú vị nhất đời.

Cái tấm hình đã ghép lại gần đôi đầu xanh ấy, đã nghiêng đôi tấm lòng với nhau. Bấy giờ Mượn mới 10 tuổi. Tôi cũng ngần ấy tuổi. Nhưng lòng yêu có bao giờ chừa tuổi trẻ. Nó đã đến ở trên tấm hình. Nó đã đến trong một buổi chiều. Nó đã đến trong một sự ly biệt. Phải, nếu không có cái hôm ly biệt ấy, thì tôi chẳng bao giờ tin có nó, biết có nó. Những lúc đắm say trong các trò chơi vô tội, gần gụi nhau trong những phút giây hiền hòa, chúng tôi có ngờ đâu rằng chúng tôi đã yêu nhau trong một sự khác lạ, trong một mối tình gần tội lỗi. Nhất là khi tôi trèo lên cáng, tôi thấy Mượn khóc rưng rức, thì chúng tôi đã không còn là hai đứa trẻ nữa và chúng tôi đã yêu nhau gần như một cặp trai gái rồi. Ngoảnh lại tôi vẫn thấy Mượn, vò cái chéo áo của dì tôi, và đương nhìn tôi trong cái nhìn tội nghiệp làm sao!

Mẹ tôi còn nói với dì tôi:

– Chị hỉ? Thế nào qua tháng tám, cũng mời chị ra chơi và đem Mượn theo cho nó gặp lại Doãn…

Tôi tưởng như mẹ tôi nói hộ tôi câu nói cuối cùng ấy.

Dì tôi thì hình như không để ý đến vẻ buồn ở trong câu nói của mẹ tôi, dặn mẹ tôi một lần chót:

– Thế nào có ai vô, dì cũng nhớ gởi cho tôi một ít "bùi" nhá! Cứ gửi sống, để mặc tôi muối lấy.

Mẹ tôi chỉ gật mà không nói gì thêm nữa.

Thế rồi trớ trêu chưa! Tháng tám, tôi cũng không thấy dì tôi ra chơi, mà ngay trong năm ấy dì tôi cũng không ra nữa. Qua năm sau, dì tôi có ra thì Mượn đã lên học trường Phủ. Năm sau nữa Mượn ra, thì lại không có tôi: Tôi vừa đỗ tuyển sinh và đã lên học trường Huyện đã mấy tháng rồi. Bấy giờ, tôi còn nhớ là tôi ở trọ nhà một thầy đề lại. Nhà trọ có một người con gái tuy không đẹp nhưng mà trông cũng ngộ như một cô gái núi, có những tính tình tuy thô lậu mà thật thà… Nguyên nhà thầy Đề đối với nhà tôi cũng là chỗ cố giao: hình như khi thầy tôi làm Tri huyện Hòa Vang, thì thầy cũng làm "thông nhất" hay là "thông nhì" gì đó. Vì thế, thầy Đề mỗi khi nói với thầy tôi cũng hay nhắc đến mấy chữ "thầy trò cũ" mà thầy tôi thường gạt đi một cách cung kính, và lấy chỗ tuổi tác mà đãi nhau ngang hàng vậy. Tôi không hiểu trong trí người nào đã nẩy ra lần thứ nhất sự ghép gá tôi lại với người con thầy Đề, nhưng có một sự tình cờ này làm cho người ta càng dễ có cái ý ấy. Cô Nguyệt cũng như tôi là con rốt… Mà điều này lạ hơn, là hai vợ chồng thầy Lại quý tôi lắm: không có miếng ngon vật lạ nào là hai ông bà không dành cho tôi. Mà mỗi khi tôi về quê, thì chính tay bà Lại sắp dọn áo quần đồ đạc cho tôi, và làm như mẹ mình không bằng. Tôi cảm động và quý mến bà hơn, nhưng chẳng bao giờ vì thế, tôi có ý gì với cô Nguyệt cả.

Một hôm mẹ tôi lên chơi, có hỏi chơi bà Lại:

– Cô em năm nay bao nhiêu tuổi…

– Thưa bà, cháu năm nay mới mười ba tuổi; cháu tuổi Tý.

– Thằng Doãn nhà tôi cũng tuổi Tý.

Rồi hai bà nhìn nhau cùng cười, cười vui sướng, cười hể hả, cười đắc ý. Có lẽ sự giao ước giữa hai nhà bắt đầu từ đó. Nhưng có một điều tôi nhận thấy là trong mấy ngày ở lại với tôi, mẹ tôi thường hay kiếm dịp để xuống bếp, vì theo ý bà, muốn xem xét một người con gái phải xem xét ở chỗ bếp nước vậy. Mà rồi từ đấy, trong nhà thầy Lại có sự khác lạ: cô Nguyệt ít lên nhà và hễ có dịp là bà cho ra một tràng những nữ tắc, nữ huấn đến bực mình, làm như tôi để ý đến việc của bà lắm. Bây giờ tôi nghĩ lại không khỏi buồn cười: làm sao có người coi việc đời kính cẩn, nghiêm trang thế! Trong thời kỳ ấy, tôi chỉ học và nghĩ đến Mượn. Những ngày nghỉ tôi thường lấy tấm hình của hai chúng tôi ra mà tập "họa" truyền  thần lại và tập làm thơ để vịnh người trong ảnh. Có điều này hơi lạ, là tấm ảnh ở trong có hình Mượn đối với tôi như là một bức tranh tiên của thầy Tú Uyên ngày xưa. Tôi chỉ thiếu một đường là đem đóng tranh lên ngay ở vách, cạnh án thư, và mỗi bữa cơm, để ra đấy một bát cơm và một đôi đũa… Có điều này tôi cho là một hiện tượng lạ lùng về tâm lý là mỗi khi nhìn vào ảnh, tôi lại thấy người trong ảnh gợi thêm cho tôi nhiều cảm đẹp. Những mỹ cảm ấy gần tựa như lòng thương tiếc nhớ nhung. Rồi có một việc xảy đến làm xáo lộn cả trí não và tình cảm của tôi: một hôm trong khi mọi người đã ngủ cả, tôi lấy ảnh ra, và đặt lên hình Mượn một cái hôn… Vâng, cái hôn đầu tiên của lòng tôi, của đời tôi. Suốt hôm ấy, da thịt tôi rạo rực. Và sang hôm sau, tôi dậy thật trưa và nhìn người nào, tưởng như nhìn vào gương mình cũng thấy thẹn thùng, bẽn lẽn.

Lại một hôm nữa, thoạt đầu, tôi không nhớ rõ, chúng tôi từ đâu lại… Nhưng bấy giờ chúng tôi đã ở một quãng rừng, hình như là giữa con đường từ làng ngoại về làng nội… Tôi vừa xuống cáng, thì đã thấy Mượn chờ sẵn ở một cái quán nước ở ngang sườn… Chúng tôi, thầy me tôi, anh tôi, Mượn cũng đi cả vào quán.

Quán sạch sẽ mát mẻ lạ: gió chiều lên từ phía sau nhà… Và mây trắng vần bay ở ngoài cửa sổ... Chúng tôi hỏi chủ quán đâu? Một ông cụ già rất đẹp, chạy ra chào hỏi chúng tôi một cách rất niềm nở vì chủ nhân lại là người chúng tôi quen lắm, mỗi lần đi hay về, chúng tôi cũng có ghé lại quán, và coi đó như là một cái trạm độc nhất của mình… Trong nhà quán, có những câu đối khắc trên tre lồ ô, chữ rất tốt mà theo thầy tôi, thì ý tứ lại rất thâm thúy, huyền diệu. Có câu của một ông tiến sĩ ở làng Lỳ, có câu của ông Đồ Ninh, một tay hay chữ ở trong vùng này, ai cũng biết… Những câu đối ấy hay, – điều ấy không đáng ngạc nhiên, nhưng đáng lạ là làm sao cái ông quán cùng ngồi một phản. Những cuộc nói chuyện văn thơ giữa hai người kéo dài hàng giờ. Trong lúc ấy chúng tôi chỉ nghĩ đến những cái ghế đẩu của lão quán, những cái ghế đều làm với những rễ tre. Nhìn cái ghế ngộ nghĩnh, chúng tôi tưởng như lão quán là một ông tiên, ở trong sách xưa, thường hiện ra các quán ở dọc đường để nói chuyện văn thơ với những tay văn hào thi bá.

     – Đi,  Doãn, đi ra ngoài chơi với em?

– Ừ thì đi!

Chúng tôi cùng đi ra rừng… Đoạn rừng này không có một bụi rậm, thỉnh thoảng lại có một cây cao. Chúng tôi chạy nhảy ca hát như một con sáo con sổ lồng.

Nắng hanh rồi mát dần… Buổi chiều, vàng cả một rừng mênh mông… Gió ở dưới chân đồi, dần dần lên mạnh… Chúng tôi đi cạnh nhau, rừng tự nhiên vắng hẳn đi. Vì chúng tôi, mỗi người đi sâu vào một ý nghĩ của mình…

Nhưng bỗng tôi ngoảnh lại thì không thấy Mượn ở đâu nữa. Tôi gọi, không có tiếng đáp. Mãi một lúc sau, Mượn ở đâu chạy về, cầm cho tôi một nhánh muồng. Tôi nhìn lên tay Mượn thấy những ngón tay xinh nõn của Mượn bị ố tím, thì tôi thấy thương lạ. Tôi toan giữ tay Mượn lại trong tay tôi. Nhưng Mượn đã giục tôi:

– Kìa Doãn ăn đi! Muồng đấy…

Tôi đưa những trái muồng vào miệng. Những quả muồng có một vị vừa ngọt vừa bùi. Tôi ngẩng lại để cám ơn Mượn.

Thì Mượn đã không còn nữa…

Giấc chiêm bao của tôi chỉ có thế, nhưng khi tỉnh rồi, tôi thấy bâng khuâng, nhớ tiếc, nhớ tiếc một cái gì rất êm ái, rất dịu dàng. Thực ra, chuyện tôi vừa kể lại đây, không hẳn hoàn toàn là một giấc chiêm bao, tôi ngờ nó chỉ là sự diễn lại một sự thực…

Vâng, đây không phải là một giấc mộng thờ ơ… Ở trong ấy, đã chứa chan cái vị đằm thắm, và nồng nhiệt của sự thật…

Sáng hôm sau, tôi viết thư cho Mượn, như để gỡ cho mình một mối bâng khuâng.

Hình như đến năm tôi mười lăm tuổi tôi mới lại gặp Mượn. Chỉ có ba năm chúng tôi không gặp nhau mà tưởng như đã lâu lắm rồi. Mượn thay đổi hẳn. Mượn không còn cái vẻ đẹp của một người con gái nữa. Tay chân phốp pháp, và ngực nở ra trông như một lực sĩ. Trên khuân mặt Mượn cũng có vẻ khác: trán nới rộng ra, và đôi lông mày đen và rậm thêm. Giọng nói của Mượn "ồ ồ", giọng nói của một người "dậy thì". Dáng điệu khoan thai như một người lớn. Thấy tôi nhìn Mượn chòng chọc, thì Mượn hỏi:

– Tôi có thay đổi lắm?

Tôi mỉm cười:

– Chả thay đổi gì hết.

Mượn vỗ vai tôi:

– Nhưng ít nhất cũng khác cái con vật nhỏ ở trong tấm ảnh chứ?

Nghĩ đến tấm ảnh, chúng tôi cùng bật ra cười… Nhưng bỗng hai chúng tôi cùng sầm nét mặt lại. Mượn hỏi tôi bằng một giọng hơi buồn buồn:

– Tại sao đã lâu Doãn không gửi thư cho Mượn?

Tôi ngập ngừng. Vì thực ra, tôi cũng không biết đáp thế nào. Tôi cũng không nhớ rõ cái nguyên nhân đích xác làm cho tôi không nghĩ tới sự viết thư cho Mượn nữa. Anh tôi mà hình như mẹ tôi nữa cũng hiểu rằng chính vì người con gái ông Đề lại mà tôi nhãng cả sự học hành và nhãng cả bao nhiêu việc khác nữa. Mỗi năm, cứ ngày kỵ ông tôi, thế nào tôi cũng xin phép ông đốc trường nghỉ mấy hôm để về nhà. Nhưng đã hai năm, tôi không về đến nhà. Điều ấy làm cho thầy tôi bất bình lắm, đã có lần biên trách mắng tôi; trái lại, mẹ tôi thì cứ mỉm cười một cách đắc ý, hình như tôi đã trúng phải một kế sách của bà. Một hôm, mẹ tôi vào thăm tôi, xoa đầu tôi và nói với tôi, như để thử ý tôi:

– Năm nay mẹ muốn bàn với thầy con để cho con lên học ở Tỉnh. Ý con có bằng lòng thế không?

Tôi lắc đầu, và nũng nịu nói với mẹ tôi:

– Thưa mẹ, con chưa muốn lên Tỉnh vội.

Mẹ tôi kéo tôi vào lòng, và nói:

– Ừ hỉ, con không muốn rời huyện vì cớ gì, mẹ biết cả rồi.

Mẹ tôi lại cười một cách hóm hỉnh. Tôi hiểu ngay ý mẹ tôi. Tôi hết sức biện hộ:

– Con chưa muốn lên Tỉnh vội, là vì ở tỉnh người ta cũng dạy như ở huyện thế thôi! Lên tỉnh tốn hơn, mà ở tỉnh con còn lạ cả.

Mặc cho tôi biện hộ thế nào, mẹ tôi vẫn không nghe, vẫn cười một cách hí hỏm, và cuối cùng nói với tôi:

– Con không muốn lên tỉnh là vì con không muốn rời cô Nguyệt chứ gì?

Rồi mẹ tôi đứng dậy ngay. Lời nói ấy, có ngờ đâu là một lời tuyên án cuối cùng. Trước mặt mọi người, từ đấy, tôi là người rể gần như chính thức của ông Đề lại. Như lời tôi đã nói ở trang trên, cái ông Đề lại này với thầy tôi là tình thầy trò cũ, đối với việc này, hẳn ông sẽ coi như là một điều rất tốt đẹp và rất may cho nhà ông. Tôi sợ rằng lòng tin của người ta sẽ tạo nên sự thực. Và sự đời lắt léo sẽ muốn tôi trở nên cái người chồng của cô Nguyệt, dầu tôi không muốn thế. Hôm mẹ tôi ở huyện về làng, cũng mang theo cái lòng tin nguy hiểm ấy, – cố nhiên là chỉ nguy hiểm cho tôi mà thôi. Nhưng chuyện từ trước đến đây không dính líu gì đến cái tấm hình của hai chúng tôi, cái tấm hình đã làm cho tôi mỗi khi nghĩ tới phải buồn rầu vô hạn. Ấy cũng chỉ tại có thế này.

Nguyên những thư từ của Mượn từ trước, tôi để lẫn với tấm hình và tất cả tôi để ở trong một cái hộp giấy. Cái hộp giấy ấy, ngay những bạn thân của tôi cũng không có quyền mở, nếu không được tôi cho phép. Vì thế sự kín nhiệm ấy làm cho người ta kính cẩn thêm tọc mạch.

Một hôm anh tôi ở Kinh về làng, ghé lại huyện thăm tôi. Tôi không nhớ rõ là vì cớ gì, tôi lại mở cái rương tôi ra, – hình như là để tìm cho anh tôi chép lại một đôi câu đối nôm của thầy tôi làm hộ cho một người làng. Trong lúc tôi lúi húi lục lộn, thì tôi thấy anh tôi cầm lấy cái hộp giấy của tôi… và mở ra. Không hiểu sao, tôi rùng mình, và trên sắc mặt có vẻ lo lắng. Nhưng anh tôi khép lại một cách vội vàng và có dáng ngượng ngùng trơ trẽn như đụng đến một vật gì thân yêu của người khác. Có lẽ anh tôi đã thấy cái tấm hình giữa những bức thư và đã đoán rằng đó là những bức thư… tình, vì làm sao lại có thể khác được… Nếu anh tôi đã thấy rõ những người trong tấm hình, thì đâu đến nỗi phải lầm đến thế. Thế là tôi chẳng có cách gì biện hộ cho tôi được. Thực ra tôi cũng không muốn biện hộ. Cái cảm giác của tôi, khi anh tôi sờ đến cái hộp thư và tấm hình là lo sợ, ái ngại, thẹn thùng như có người sờ động đến những bức thư tình thật. Nhưng cái cảm giác tiếp theo là cái cảm giác của một người đã trấn tĩnh, đã suy nghĩ: tôi cho rằng những bức thư ấy anh tôi cần phải đọc tới, có thế, cái tình của tôi mới được minh oan, và không ai còn tin rằng tôi còn có thể là vị hôn phu của cô Nguyệt. Nhưng muốn thay đổi lòng tin của người ta không phải dễ: cả nhà tôi và cả nhà cô Nguyệt nữa đều tin rằng là tôi đã ưng cô Nguyệt rồi, – và điều này mới nguy hiểm: hình như hai bên đã bàn tính đến lễ "ăn hỏi". Có lẽ câu chuyện hộp thư ấy, anh tôi về làng, lại thuật cho cả nhà tôi nghe, cho nên, sau độ ấy, hơn một tháng thì thầy tôi viết một bức thư dài cho ông Đề lại. Tôi nghe phong phanh rằng trong thư, thầy tôi có ngỏ ý muốn tiến hành gấp gấp việc hôn nhân của tôi, vì lẽ rằng theo quan niệm các cụ đời xưa, thì với một người nhãng học, duy có một kế thần diệu nhất để làm cho "anh nho" ấy trở lại chăm chỉ là cưới cho anh ấy một người vợ. Có thế mới giết chết được cái chí phóng đãng của "anh nho". Nhưng từ nay có một điều tôi quên nói là tại sao tôi không biên thư cho Mượn nữa? Đến nay, thật tôi cũng chưa xét định lại được cái nguyên nhân đích xác. Tôi muốn cho rằng: có lẽ vì tôi không muốn tập thư dầy thêm nữa, sợ có điều không hay… Nếu những bức thư ấy, một ngày một thêm đến một lúc kia, sẽ đưa cái tình bạn bè giữa hai chúng tôi đến một chỗ không thể lùi được nữa. Mà cái tình bạn bè ấy không thể chối được những tai nạn mà nó đã dễ xẩy ra. Nó không tiết lộ ra, thì mọi người còn hiểu lầm rằng số mệnh đã định là tôi phải lấy cô Nguyệt, mà tiết lộ ra thì người ta sẽ nhìn chúng tôi bằng cặp mắt nào? Và thực ra, trong cái tình giữa hai chúng tôi có một điều gì khác lạ gần như là bất chính. Sự tội lỗi cũng hoàn toàn vẫn ở tôi, chứ Mượn vẫn vô tội như một hạt ngô. Nói bất chính thì cũng hơi quá đáng; có lẽ là tội lỗi cũng chỉ vì tại chùng lén. Mà sở dĩ chùng lén là vì hai chúng tôi cùng bước vào một thời giống như tuổi "dậy thì" của người con gái. Những sự gặp gỡ gián đoạn, những sự tụ họp rồi những sự biệt ly làm cho cái tình yêu thương giữa hai linh hồn trở lên ẩn hiện, khi ngập ngừng, khi ái ngại, rồi cái tình bạn phải khác cái mầu e thẹn của tình yêu. Rồi cái thú ấy, cái thú yêu nhau trong chùng lén, trong mờ ám, cái thú ấy trở nên một thói quen nguy hiểm. Một ngày nọ tôi cảm thấy một cách rõ rệt rằng: đời tôi không thể thiếu Mượn được nữa. Cái tình ấy, mập mờ, bất thường, và vô định, nó không có tên trong tiếng nói của loài người. Đến nay, thực tôi cũng chẳng hiểu gì hơn lúc bấy giờ, cái lẽ tương quan mầu nhiệm giữ đôi linh hồn, giữa đôi thể chất.

Tôi xin thú rằng: một sự cần thiết đã tạo ra cái tình không tên mà có thực ấy, tạo ra Mượn một người anh. Tôi không đợi ở Mượn một chút đằm thắm, một chút dịu dàng, một chút say sưa. Tôi cũng không xin ở Mượn một câu an ủi, một lời tình tứ. Lòng tôi chỉ muốn được rơi ngả vào một sự đùm bọc, một sự dìu dắt, một sự che chở. Cả cái say sưa là được mơn man, được trớn rỡn…

Chúng tôi, hình như đi đã lâu, như thế, cạnh nhau, đi trên con đường rơm nửa ướt nửa khô… Chúng tôi đi trong bóng một hàng tre, vì bấy giờ vào buổi trưa hè… Và chúng tôi ở trong lòng của một sự tĩnh mịch nơi thôn dã. Ở trước mặt chúng tôi, một con đường trắng toát thẳng tới một đồi núi: ánh nắng trưa lừ lừ trôi như một dòng nước đục và nặng như thủy ngân… Trên lối đi, những người đàn bà, nón thượng quai thao có kẻ không bao giờ quen chúng tôi cả, nhưng chào chúng tôi một cách thân mật:

– Chào anh hai nho. Các anh coi con gái làng tôi có đẹp không?

Họ tưởng như chúng tôi là những người lạ ở đâu tới. Một người đàn bà nhìn sát vào mặt tôi, núm chặt lấy tay tôi, cười rú lên:

Trời ơi! Là cậu Cọt! Thế mà già ngỡ là ai! "Nậy" mau quá, già không nhận được nữa!

Rồi cả bọn cùng xúm lại nhìn sát mặt tôi như là một quái tượng.

Hai anh nho ra mà coi chợ.

Tôi cười cãi lại:

– Đừng gọi chúng tôi là "nho" nữa. Chúng tôi bây giờ đã học chữ tây rồi.

Một người hỏi lại:

– Thế chữ tây không có anh nho, anh khóa à? Đời Tây Tàu có khác.

Rồi cả bọn… già ấy cười lên, tiếng cười tươi ròn như tiếng cười của những cô gái mười lăm, mười sáu! Họ vẫn không tha cho, nhìn chúng tôi một cách hỗn xược và nói to:

– Chết, ăn chi mà "nậy" mau quá đỗi! Ngày tôi gặp cậu, chỉ bằng thằng Ngu nhà tôi! Nhỏ xíu xíu… Thế mà!...Bụt ơi! Chà mau "nậy" quá! Thế đã mấy năm cậu không về làng hở?

Thấy tôi không đáp, họ cùng nói với nhau:

– Dễ thường cũng đến ba năm rồi hỉ?

Mượn nhìn tôi và có vẻ ngạc nhiên… Mượn vẫn trầm ngâm với một câu hỏi:

– Làm sao! Đã ba năm rồi Doãn không về nhà?

– Thật Doãn cũng không hiểu tại sao thế!

– Chắc dì giận lắm hỉ?

Dạ, mẹ em giận em lắm…

Nghĩ một hồi lâu, Mượn mới hỏi lại:

– Thế độ trước, Mượn có nghe nói Doãn yêu cô cô… gì hỉ?

– Cô Nguyệt?

– Ừ phải! Cô Nguyệt!

– Chỉ là lời đồn!

Mượn ngừng bước lại, quay mặt nhìn tôi và ngạc nhiên:

– Sao lại là một lời đồn? Mượn không tài nào tin được.

Chúng tôi đi đã gần đến chợ làng mà không biết. Một buổi họp chợ dưới ánh nắng hè gay gắt sao mà ghê sợ thế: tôi tưởng như một cảnh tụ tập của một đám âm binh nào và ở một thế giới huyền ảo. Đến nay thật tôi cũng không hiểu sao – mà có lẽ cũng tại tôi không chịu hỏi – những người làng tôi lại họp chợ đúng giờ ngọ, cái giờ của những quỷ sứ, cái giờ của những âm binh, cái giờ nặng nề, tội lỗi, mà tất cả sinh vật yếu đuối, đầy nhân ái, từ con sâu cho đến con người phải co ro lại, phải xếp sự hoạt động của mình, phải uể oải, phải lười biếng. Có lẽ biết đâu đó chỉ là một sự bắt buộc mà thôi, vì đến 4 - 5 làng cùng đổ về ăn chợ làng tôi, cho nên chợ cần phải nhóm sớm, để cho những người ăn chợ, xa mấy độ đường, lúc đi, lúc về cũng có thể kịp được.

Đến bây giờ tôi cũng còn nhớ những tiếng cười giòn của những người đàn bà nhà quê trên con đường từ chợ về các thôn xóm, tiếng cười kéo dài trong cái im lặng gay gắt của ban trưa đã làm cho tôi có cái cảm giác như được xem một giải cờ đỏ, mở dài, cũng ở dưới ánh nắng im lặng, cái ánh nắng không lưu động, cái ánh nắng tê liệt của ban trưa, của cái giờ ngọ, giờ của cõi âm.

Những người nhà quê lẽ ra hiền hậu biết bao, bây giờ trong tâm trí tôi trở nên những hình ảnh ghê sợ… Thím Neo… Ả Dục… Mợ Rô… Ừ nhỉ, làm sao những người đàn bà nhà quê ấy không chết hẳn đi trong ký ức của tôi, một buổi chiều thê thảm kia, cũng như mọi vật ở đời… Mà họ cũng chẳng đưa lại đến trong những giờ náo nhiệt của tôi, một ít bình lặng của thời xưa, đầy hương và đức.

– Thế mẹ Doãn muốn gì?

– Thì nào Doãn có biết…

Mượn và tôi, chúng tôi hình như đi cạnh nhau như thế, đi trên con đường quen thuộc của những người đàn bà ấy… Có lúc hình như chúng tôi đã im lặng. Và sau một hồi im lặng, lại một câu hỏi đột ngột làm cho chính hai chúng tôi bối rối, ngơ ngác.

– Hay là mẹ Doãn muốn Doãn lấy vợ chăng?

– Thì sao bà ấy lại chẳng chịu nói ra…

– Các bà ấy, có bao giờ chịu nói ra.

Thực ra, tôi đã nói dối Mượn. Đã hai hay ba lần rồi, mẹ tôi đã ngỏ cho tôi cái ý ấy. Mà cảm giác đầu tiên của tôi là cảm giác của một tâm hồn, của một thể chất bất bình: Tôi mới có 14 tuổi. Trời ơi! Làm sao tôi có thể thâu nhận cái tư tưởng hôn nhân giữa tuổi ấy mà không ngượng ngùng, mà không đau khổ? Tôi không rõ Mượn có là một phần nào trong sự ngăn trở ấy không. Chứ điều mà tôi cảm thấy một cách rõ ràng là lòng của tôi coi như đã phạm đến hồn trinh bạch, khi nghĩ đến sự lấy vợ.

Nghĩ đến sự lấy vợ, chả phải là mua chác vào tâm trí những tư tưởng nặng nề như xiềng xích; nghĩa là chặt đôi cánh vừa mới mọc trên cái tuổi hồn nhiên thơ dại… Nhưng mẹ tôi, cả nhà tôi không nghĩ thế. Điều cách này mới tai ác: mọi người đều tin một cách chắc chắn rằng: tôi với cô Nguyệt, con ông Đề lại ở huyện, đã có tình ý với nhau, và bây giờ nhà nói ra, là như cởi mở cho tấm lòng thắc mắc của đôi trẻ. Có ngờ đâu, tôi là người rất ái ngại cho cái vui mau chóng của mẹ tôi, của cả nhà tôi. Cái hôm mẹ tôi sung sướng, hí hửng như một đứa trẻ con, tin cho tôi cái tin mừng ấy, là cái hôm tôi đau đớn, lo lắng vô cùng. Nhưng tôi cũng cố thản nhiên cười bảo mẹ tôi:

– Một cậu bé như con, lấy vợ con sợ có sớm không?

Mẹ tôi cười:

– Gớm! Cậu tưởng cậu còn bé bỏng lắm đa! Cậu không thấy anh Bích con bà huyện Yên cùng bằng tuổi cậu, mà người ta đã sắp có con rồi đấy!

Tôi không cãi.

Có lẽ bấy giờ, mẹ tôi cũng yên chí rằng: tôi không phản đối sự hôn nhân. Nhưng từ độ ấy, tôi xin thầy mẹ tôi lên tỉnh học: tôi bỏ trường huyện. Và từ đấy, tôi cũng thường không nghĩ đến việc hôn nhân nữa. Mẹ tôi, mấy bận lên tỉnh thăm tôi, lại hay nhắc đến. Một độ, thấy tôi lơ láo, mẹ tôi cũng không nói gì tới nữa.

Tôi tiến tới trước Mượn mấy bước, rồi quay lại cười bảo Mượn:

– Mượn bước lên, xem nào.

Mượn không hiểu gì, cũng cứ làm y lời tôi dặn. Tôi tấm tắc nói một mình:

– Này con vật ở trong tấm hình bây giờ nó phốp pháp và khỏe quá. Nó không còn yểu điệu như ngày xưa nữa.

Tôi vẫn mỉm cười bí mật. Mượn vẫn không hiểu gì. Nhưng thực ra, tôi không thể không tin được rằng: Mượn, có lúc, đã chiếm một địa vị quan hệ trong tâm linh tôi. Và sự hôn nhân của tôi thất bại, có lẽ cũng một phần tại người bạn tâm linh ấy.

 

***

 

Mẹ tôi ốm đã gần một tháng nay. Hai lần mẹ tôi gọi tôi về bên giường bệnh của bà. Chỉ lần thứ ba tôi mới về được. Thật tội bất hiếu của tôi đối với bà không biết đổ đâu cho hết. Nguyên nhân làm cho mẹ tôi gọi tôi về gấp như thế, cũng giống như cái nguyên nhân làm cho tôi chần chừ không dám  đến gần mẹ tôi. Nhưng tôi có thể khất với tôi, chứ thực lòng không thể khất với một người ốm nặng, nhất là người mà bao giờ tôi cũng chỉ có lòng thương mến. Tôi nhớ hôm tôi ở huyện về, thấy tôi, tự nhiên mẹ tôi khỏe lên, gắng ngồi dậy nói chuyện với mọi người. Tôi cảm động về sự sung sướng của mẹ tôi quá. Chẳng hạn, tôi không còn đủ can đảm để mà trái ý bà một cái gì. Giá hôm ấy, bà bảo tôi một điều gì, tôi cũng nghe cả. Nhưng mẹ tôi không hề "lợi dụng" chỗ yếu ấy của tôi, để mà "đánh" tôi. Trái lại, tôi đã biết khéo cùng cái nhịp sung sướng mà bắt ép mẹ tôi.

– Mẹ uống thuốc nhá. Để con quạt thêm chén thuốc nữa.

Mẹ tôi gật đầu, không hề phản đối mảy may như mọi lần.

– Mẹ ăn cháo nhá! Để con bảo thằng Vĩnh, nó nấu cho mẹ. Hay là mẹ uống sữa, để con pha.

Mẹ tôi gật đầu một cách vui sướng. Tôi bảo thế, giá tôi bảo hơn nữa, mẹ tôi có lẽ cũng nghe theo. Hay là mẹ tôi có ý chiều tôi như thế, chiều tôi hết cả, để rồi bắt ép tôi một điều, chỉ một điều thôi, nhưng là một điều tối quan trọng.

Tôi chắc rằng bà nói ra trong lúc ấy, thì sẽ kiêu. Tôi sợ sự im lặng đè nén trên tâm hồn mẹ tôi, sợ sự đối diện nặng nề của mẹ tôi và tôi. Cho nên, bao giờ tôi, tôi cũng kiếm cách để cho trong phòng mẹ tôi, ngoài tôi ra cũng còn có một vài người nữa. Nhưng tôi quên làm sao được cái chiều hôm ấy, trời vừa ngớt một cơn giông, khí trời tự nhiên mát ra, cảnh chiều hôm đưa lại một cơn gió lạnh bất ngờ. Mẹ tôi ho nhiều quá. Nhưng mẹ tôi cũng cứ gắng ngồi dậy. Mẹ tôi vẫy tay ngồi cạnh bà. Tôi rụt rè ngồi ở mé giường và bảo mẹ tôi:

– Mẹ nằm xuống, kẻo mệt.

Mẹ tôi như không để ý đến lời tôi nói:

– Doãn, con dịch lại một tý, gần mẹ một tý.

Tôi ngồi dịch lại, vẫn rụt rè, vẫn lo sợ. Tôi cảm giác trước rằng cái trận quyết liệt đã đến giữa chúng tôi: mẹ tôi sẽ thừa cái dịp này để bắt tôi phải hàng phục. Mà thật thế, tôi đã hạ khí giới trước khi ra trận… Mẹ tôi hớp xong một hớp trà. Tôi quên không nói rằng: mẹ tôi hôm ấy, trái với lệ thường, bảo pha một ấm trà liên tử cho thật đặc. Mẹ tôi uống luôn miệng, khiến cho tôi phải sinh nghi.

Trong lúc ấy, một ngọn gió lạnh đến tận giường mẹ tôi. Tôi rầy thằng Vĩnh:

– Đồ khốn nạn! Chỉ khép cái cửa mà cũng không nên thân.

Mẹ tôi mỉm cười:

– Con đừng mắng nó tội nghiệp. Chính mẹ bảo nó để mở cửa he hé như thế cho có ánh sáng.

– Nhưng dầu thế nào, thì mẹ cũng phải nằm xuống đã. Mẹ cần phải "dưỡng" lắm.

– Không, con đừng ngại, hôm nay mẹ thấy trong mình khỏe lắm.

Tôi không tin, vẫn khăng khăng bảo mẹ tôi:

– Mẹ hãy còn yếu, mẹ hãy nằm xuống rồi mẹ muốn nói gì hẵng nói.

Mẹ tôi mỉm cười:

– Thế con muốn mẹ nói cái gì?

Nghĩ một lát, mẹ tôi nói tiếp:

– Mẹ chẳng muốn gì cả!

Tôi nhìn mẹ tôi ngạc nhiên và cảm động, mẹ tôi vẫn bình tĩnh, vẫn thản nhiên nói tiếp:

– Hôm ni, thực lòng mẹ chẳng muốn nói gì với con hết.

Hình như mẹ đã nói nhiều rồi.

Mẹ tôi xoa đầu tôi, và lại nói bằng một giọng ngọt ngào, êm ái:

– Ý muốn của mẹ bây giờ là chỉ mong sao con học cho giỏi, và đỗ nhanh như anh con là mẹ mừng. Mẹ chỉ cầu nguyện có thế. Còn như việc hôn nhân của con, thì mẹ đã nghĩ kỹ, bây giờ mẹ không muốn giục con hay ép con nữa. Mẹ bây giờ đã đổi ý hướng. Mẹ chỉ muốn con học giỏi và nối được chí thầy con, anh con… lòng mẹ chỉ ước có thế.

Mẹ tôi nói câu này bằng một giọng chân thật và quả quyết quá, khiến tôi lại càng tin rằng: mẹ tôi đã đổi ý chăng!... Tôi chưa kịp tỏ sự vui mừng, thì ở ngoài đã nghe có tiếng ngựa hí.

Mẹ tôi nằm xuống giường… và nói với tôi:

– Thầy con đã về đấy.

Tôi chạy ra: thì thầy tôi cũng vừa bước vào. Sau lưng thầy tôi là ông Hương Rớt, một ông lang có tiếng nhất vùng tôi.

Thầy tôi hỏi tôi:

– Mẹ con bây giờ thế nào?

– Bẩm mẹ con đã khá.

Nhưng tôi cũng theo thầy tôi và ông lang trở về buồng. Tôi có ngờ đâu rằng có như thế: mẹ tôi  mặt tái mét nằm sóng sượt.

Thầy tôi hỏi gì, mẹ tôi cũng không đáp… hai môi chỉ mấp máy…

Ông lang chẩn mạch xong… Thầy tôi và tôi, trái tim hồi hộp quá, cứ nhìn thẳng vào mắt ông lang như có vẻ van lơn hay cầu nguyện.

Nhưng ông lang đã kéo thầy tôi ra khỏi buồng, và nói một cách thất vọng:

– Có lẽ, bà "về" mất.

Tôi rụng rời tay chân. Thầy tôi vẫn bình tĩnh trở vô buồng: Mẹ tôi còn mở mắt nhìn thầy tôi và nhìn tôi, chỉ hỏi được một câu:

– Thằng cả đã về chưa ông?

Rồi hai tay mẹ tôi buông dần… Trời ôi! Tôi có ngờ đâu mẹ tôi đã đánh lừa tôi; tôi biết, chính việc hôn nhân của tôi đã làm cho cái chết của mẹ tôi đến một cách gấp vội thế.

Tôi không thể chép cuốn truyện này mà không thuật những  phút cuối cùng của một cuộc đời cần cù, lam lũ chỉ biết hy sinh, hy sinh bao nhiêu sức khỏe, bao nhiêu tâm tư cho hạnh phúc của những người khác. Những người khác đó, thân thì là chồng con, anh em nhà chồng, sơ thì là họ hàng và xóm giềng. Cái sống của mẹ tôi là một mùi hương theo gió mà lan rộng ra mãi, vì thế, cái chết của mẹ tôi là một mối tiếc thương cho những họ hàng quen biết.

Mẹ tôi về với thầy tôi đã hơn mười lăm năm. Sự kiệm cần, sự ngăn nắp, cùng theo mẹ tôi, về trong gia đình thầy tôi. Mẹ tôi là một bà quan, nhưng thực ra không có gì là một bà quan cả. Quanh năm, ở cạnh bà, không có một người lính hầu. Ngày thầy tôi còn ở huyện đường Tuyên Hóa, cũng chỉ có hai lần, mẹ tôi theo thầy tôi mà thôi. Mỗi lần, mẹ tôi chỉ ở với thầy tôi độ 3 - 4 tháng. Mùa gặt về, mẹ tôi thế nào cũng phải tạm biệt thầy tôi mà về quê. Ở quê tôi, mẹ tôi đã dựng nên một "giang sơn" cho chồng, làm cho tất cả người trong làng hay người "hàng xứ" nhắc tới như là một chuyện đời xưa, lưu truyền lại để làm gương cho thiên hạ.

Sinh ở nơi dân dã, mẹ tôi, về nhà họ Trương, mà vẫn giữ cái cốt cách của dân dã. Tôi còn thấy như mới hôm qua, cái người đàn bà cũ kỹ ấy, mỗi lần ở chợ về, vất cái nón thượng quai thao xuống đất, đặt cái thúng nặng ở nách xuống, nhổ bãi trầu, và nhoẻn một nụ cười rộng và bao dung biết chừng nào! Vẻ mệt nhọc không làm mất được cái nét hiền từ không thay đổi của một người mẹ, một  người đàn bà, một người đàn bà Việt Nam. Bà ung dung ngồi sắp những thức ăn ở thúng ra trên một cái mẹt.

Tôi bá cổ mẹ tôi, một đứa em ngồi lên bã mẹ tôi, một đứa em nữa, moi những trái thị vô tình hay hữu ý trốn chúng tôi ở dưới một mớ rau. Mẹ tôi đưa tay giữ chặt lấy tay em tôi và cố không tỏ một vẻ giận dữ!

– Này Việt. Của cúng đấy, đừng đụng tới, không nên. Mai cúng xong, thôi tha hồ.

Em tôi vẫn cố giằng lấy một trái thị nhỏ nhất, và cãi lại mẹ tôi:

Cho con trái nhỏ xíu này. Con cầm mà ngửi. Con không ăn mô.

Mẹ tôi cố tìm một cái lẽ để thứ lỗi cho em tôi:

– Mẹ cho con cầm mà chơi, nhưng con không được đưa lên mũi nhá! Ngửi, cũng không nên.

Em bé tôi cầm một trái chạy. Em gái tôi và tôi, cũng cố mỗi đứa cướp lấy mỗi quả:

– Mẹ ơi! Chúng con cũng chỉ ngửi thôi! Chúng con không ăn mô.

Mẹ tôi vẫn hoảng lên, cố tìm kế để đánh lừa chúng tôi:

– Này! Chúng mày! Tao quên phát cho chúng mày "lá móng tay". Cọt đâu, Song đâu, Lạc đâu, Quýnh đâu; đứa nào ra mà lãnh phần đứa nấy.

Hai em tôi và cả tôi nữa vội vàng trả những quả thị lại cho mẹ tôi, và cùng mấy anh tôi ra mà lãnh phần những "lá móng tay".

Hai em tôi ngơ ngác, không hiểu gì. Tôi nhớ mang máng rằng: hình như một năm trước mẹ tôi cũng có một lần phát những "lá móng tay" như thế.

Quên hẳn những quả thị, bấy giờ tâm hồn tôi hoàn toàn sống lại những mẩu kỷ niệm thấp thoáng vừa hiện ra rồi lại lẩn ngay.

Giật mình, tôi hỏi anh Lạc tôi:

– Mai, ăn mồng năm phải không anh Lạc?

Lạc đáp:

– Ừ thằng này đến lẩn thẩn! Không ăn mồng năm, thì làm chi mẹ lại đi chợ, mua nhiều trái thế, mà lại còn mua cả lá mồng tơi thế nữa?

Anh Song tôi ra dáng hiểu nhiều, và "điển sách" lắm, nói với cả chúng tôi bấy giờ quây quần bên anh tôi:

– "Tết mồng năm", tên chữ là Tết Đoan Ngọ… ngày xưa ông Khuất Nguyên…

Bấy giờ anh Song tôi vào khoảng 16 tuổi, nhưng thầy tôi vẫn không chịu "rút" anh tôi học chữ tây, vẫn cứ gửi ở một ông đồ trong làng, ông đồ này đối với thầy tôi, là chỗ đồng liêu. Anh tôi, vì thế, như lạc hẳn vào giữa bọn chúng tôi, là một bọn đã tới trường làng, sớm đến tối, gào thét như con vẹt: "le café là cà phê, le pain là bánh tây". Anh tôi, bị chúng tôi đưa ra làm một trò để chế giễu. Quýnh là đứa bé con hỗn xược nhất trong bọn:

– Triều phò mã chơng vơng. Triều phò mã chơng vơng cái ông Khuất Nguyên nhà anh!

Cả bọn cũng lặp lại như thế để chế giễu anh tôi. Bây giờ và đến nay, tôi cố tìm cũng không hiểu nghĩa mấy chữ ấy. Đến nay, mấy chữ ấy đã mất tích hẳn trong tiếng nói của người làng tôi. Nhưng thật quả, tôi nhớ đích là hồi bấy giờ, mấy chữ "triều phò mã chơng vơng" rất thông dụng trong tiếng nói của người nhà quê, nhất là của bầy trẻ. Danh từ ấy tôi biết là cốt để chế giễu một cái gì ngược trái lại với sự thông thường.

Anh Lạc tôi, đỏ mặt lên như củ gấc, toan cãi lại, thì một tiếng sạt ở sau lưng làm tất cả chúng tôi giật mình quay lại: Con Mén, người đầy tớ gái của nhà tôi vừa đặt một bó lá xuống phản và nói với mẹ tôi:

– Thưa bà, hôm ni, con thấy có chú Thạc, ông phó Ngưỡng, ông xã Nghếch ở Lào về, mỗi người, một gánh kén nặng. Chú Thạc nghe đồn về được bờ năm trăm, ông phó Ngưỡng bờ một nghìn, – nhưng phải thỉnh cả bàn đèn về nhà… Giang san sự nghiệp rồi cũng đến chui vào lọ cả. Hút thì rồi cũng đến xách, bà hỉ… Mấy ai?

– Thế còn bác xã Nghếch.

– Bác xã Nghếch, thì một bồ lưng kén, còn một bồ nữa thì…

Nó phá ra cười, như một cái máy không thể hãm được nữa… Mẹ tôi phải mắng nó:

– Vô duyên chưa nói đã cười! Khéo! Việc chi mà rũ lên thế! Nói đi đã, rồi lại cười nào!

Đưa tay vuốt ngực, nó cố trấn tĩnh và đáp lại mẹ tôi:

– Thưa bà, còn trong một bồ nữa, thì bác Xã, bác ấy nhét đầy cả…

Nó lại cười rũ lên.

– Đồ đâu mà trắc nết quá đỗi.

– Thưa bà, còn một bồ nữa, thì bác nhét đầy cả những lá mồng năm.

Rồi nó chỉ bó lá ở trên phản và nói tiếp:

– Đó, cái thứ lá quý hóa ấy đó; bác nói bác lấy từ năm ngoái, đúng giờ ngọ, và lấy ở rừng "Poút-Măng"… Rừng "Poút-Măng", một rừng mọi, theo chú nói, thì thiêng lắm, bà nờ! Thiếu một đường, con phải lạy lục bác Xã, bác ấy mới cho được một nắm đó. Chừng ấy, cũng "khắm" chán bà hỉ?

Mẹ tôi, mỉm cười, nói với con nụ:

– Nhờ trời Phật! Nếu quả thật hay, thì chừng ấy, cũng đủ dùng hết cả một đời.

Rồi bỗng nhiên, mẹ tôi ngồi thần ra mà không nói gì. Tôi lại sán đến mẹ tôi và thủ thỉ hỏi mẹ:

– Tết Đoan Ngọ sao thầy con không về mẹ?

– Thầy con mắc đi hành hạt với cụ sứ. Trong huyện sắp mở thêm mấy cái trường mới.

Mẹ tôi nói với tôi như nói với một người lớn, dầu bấy giờ tôi chỉ là một đứa bé lên bảy. Tôi nhận thấy trong lời nói của mẹ tôi, một nỗi buồn u ẩn.

Trong lúc ấy, Việt em tôi đã "thịt" xong trái thị, và cắt cái vỏ thành hình ngôi sao dán lên tường. Mẹ tôi chưng hửng:

– Con thế thì thôi! Đồ, chưa cúng mà đã ra phá, phải tội chết.

Nhưng tôi không thấy một nét giận dữ ở trên khuôn mặt mẹ tôi. Đôi mắt mẹ tôi vẫn hiền lành như bao giờ, nhìn tôi và âu yếm.

– Tối nay, thì con phải ngủ sớm, mai móng tay mới thắm.

Tôi chưa hiểu hết cái câu nói của mẹ tôi, nhưng tôi cũng không hỏi lại, phập phồng, cảm động đợi cái thuật phép lạ lùng. Nhưng thuật phép có gì đâu! Tối đến, ăn cơm xong, mẹ tôi, chị tôi, các bõ già, gọi chúng tôi ra, nhá những "lá móng tay" của chúng tôi ra… rồi, "rịt" vào ngón tay cho chúng tôi. Buộc vào cho tôi xong, mẹ tôi dặn tôi, đến nay tôi cũng không quên được cái câu nói "dễ thương" làm sao:

Con cố đừng cựa nhá! Đứa nào, mai móng tay không đỏ, là không được về ông ngoại ăn Tết đấy.

Nhưng phần riêng tôi, sáng hôm sau, những móng tay, trừ móng tay út, đều bị "chậy" đi, và không được thắm đều; trong khi ấy, những em tôi có những móng tay đỏ tươi như huyết.

Sáng tưng bừng, tôi tròe hai bàn tay cho mẹ tôi và hỏi:

– Của con có tốt không mẹ?

Mẹ tôi cười, không tỏ dấu trách móc:

Của con tồi nhất bọn! Hôm qua tại con cựa nhiều quá.

Lẽ ra, tôi phải bị "phạt", nhưng ngày hôm sau, tôi vẫn được theo mẹ tôi về quê ngoại. Ngồi trên chiếc cáng xanh với mẹ tôi, tôi quên làm sao được đôi mắt trong xanh của mẹ tôi, với cái nhìn hiền lành âu yếm! Nhưng than ôi! Đôi mắt ấy, còn tìm đâu cho thấy nữa: Mẹ tôi đã bỏ tôi mà đi. Nghĩ đến cái Tết Đoan Ngọ đầu tiên ấy của đời tôi, tôi lại càng thêm chua xót: cái lòng thương nhớ mẹ tôi thật mênh mông rào rạt như gió chiều ở biển khơi.

Ngồi co ro một xó, tôi cố ngẩng lên nhìn một lần chót cái mặt hiền hòa ấy, nhưng cái sắc mặt đã xanh như tàu lá: tôi không thể tìm trên cái nét tàn phá, một vẻ hiền hậu ngày xưa…

Bấy giờ dì tôi đã tắm rửa xong cho mẹ tôi. Và người ta đã bắt đầu khâm liệm cho mẹ tôi. Trời ôi! Tôi quên làm sao được vòng khăn nhiễu tam giang, cái quần áo cổ y, và đôi vòng bạc… mà người ta vừa đeo khoác vào cho cái chết ấy! Cái áo cổ y ấy, cái khăn nhiễu tam giang ấy, đó là những đồ mà ông mệ ngoại tôi đã sắm cho mẹ tôi… Mẹ tôi có lẽ chỉ mặc một bận khi về nhà chồng, và than ôi! Một bận nữa là khi về… cõi đất. Mắt tôi quên làm sao được cái khăn nhiễu ấy, và mầu áo ấy, mỗi khi có cơn nắng mới, mẹ tôi đưa ra phơi trước dậu.

Thoạt trông thấy mẹ tôi trong cái bộ áo liệm ấy, thì sự cảm động và thương xót của tôi lại tăng thêm gấp bội. Một cảm giác vừa thoáng qua trong tâm trí tôi: tôi thấy như mẹ tôi không thể chết được. Tôi tưởng như còn diễn lại trước mắt tôi, một cảnh tượng hàng ngày: giữa những hôm mưa lạnh, ẩm ướt, bỗng rớt vào một ngày nắng ráo, mẹ tôi thường mở rương ra, lấy một bộ áo, – vâng – chính cái bộ áo cổ y ấy, để đưa ra phơi ở trên một hàng dậu.

Trong trí tôi lúc bấy giờ, cái mầu cổ y tím sẫm gợi cho tôi một sự tương tự: cái màu sắc đầm thấm, đen sẫm của cả một đời người đàn bà không kiêu hãnh, không ham muốn.

Nhưng khi tôi quay lại, thì trời ôi! Người ta đã liệm xong cho mẹ tôi và bây giờ mẹ tôi chỉ còn là một cái xác chết, bó chặt lại trong vải trắng và trên mặt ấp một tờ giấy vàng.

Lòng tôi quằn quại: Tôi không ngờ trong một phút, tôi cách xa mẹ tôi đến thế. Tôi kêu gào như kẻ điên. Tôi không ngờ; sự đau thương có thể làm cho người ta điên cuồng được.

Mẹ tôi ngày nay đã không còn nữa. Nhưng còn lại biết bao là chuyện xung quanh cái chết của mẹ tôi. Những chuyện ấy sống mãi trong ký ức tôi, có lẽ cho đến cái ngày cuối cùng của tôi ở trên cõi thế. Cái sự sống chết của người đời, nếu có đôi chút thú vị là tại luôn luôn được bao phủ trong một màu bí mật, lâu lâu chỉ bị chọc thủng một đôi chút ánh sáng, yếu ớt quá không đủ chỉ dẫn cho ta điều gì.

Tôi còn nhớ lúc mẹ tôi thụ bệnh, thì tự nhiên ở đâu bay về một con ong tướng, ngay ở cây khế trước ngõ nhà, và rồi chỉ mấy giờ sau, là những ong quân ở đâu tìm đến và đậu choán cả một cành cây. Một tổ ong mật đã bắt đầu gây dựng ở trước ngõ nhà. Thầy tôi nhất là mấy dì tôi, không giấu được vẻ lo sợ. Từ đó, hôm nào, người ta cũng rước thầy phù thủy về cúng. Và mấy lần anh Hưởng, một người anh họ của tôi, bịt mặt lại, cầm một bó "giang" to trèo lên cây để "xông khói" tổ ong mới. Nhưng mà vô hiệu: những con ong chỉ bay tán loạn trong một lúc, rồi chờ khi anh tôi xuống, khói đã tản rồi, thì đâu lại vào đấy; những ong quân vẫn theo tướng của chúng nó trở về đậu ở chỗ cũ.

Thầy tôi nói với chị tôi: đã ba mươi năm thầy mới lại thấy thứ ong "bò vẹ" ấy trở về đóng ở ngõ nhà như thế. Lần trước, nó cũng về đóng thế, thì  quả hôm sau…

Thầy tôi không nói hết, nhưng chị tôi cũng hiểu ngầm. Khắp cả nhà đều có vẻ lo ngại, duy có tôi là chẳng biết gì… Cả mẹ tôi, cũng vậy…

Bầy ong ấy đóng được ba hôm ở trước ngõ nhà tôi. Hình như chỉ cách hôm sau, khi bầy ong bay đi, thì mẹ tôi cũng đi. Cái việc bầy ong ấy, đã để lại trong tâm linh tôi, những ấn tượng rất mạnh. Khiến cho tôi bao giờ cũng nghĩ rằng: trong đời tôi đã được nom thấy một bầy ong, vâng, một bầy ong giang hồ, hết chỗ này bay qua chỗ kia, mang những cái tin sầu thảm lại cho người này hoặc người nọ. Nghĩ đến bầy ong ấy tôi tưởng như có một tai biến tàn bạo từ một dĩ vãng xa xôi đến, kẹp chặt lấy tâm hồn tôi.

Sau cái chết của mẹ tôi được 50 ngày, thì những cây trầu leo ở tường, mà chính mẹ tôi lúc sinh thời đã vun bón, những cây trầu xanh tươi ấy cũng héo dần, héo một cách trông thấy trước mắt mọi người. Tôi còn nhớ như mới hôm qua – hình như là vào một ngày nắng mới, những đường nhà quê đã ráo khô: Bà Mục, người hàng xóm của mẹ tôi, qua thăm nhà tôi; ấy là lần thứ nhất từ khi mẹ tôi chết. Bà hàng xóm ấy qua thăm vườn nhà tôi, tôi thấy bà len lỏi giữa những con đường nhỏ mà trơn lầy, và có khi phải cúi mình sát rạt để tránh những cành đào hay cành mận chĩa ngang qua đường. Tôi trông cái tuổi già ấy phải "gấp đôi" lại mà tôi thương hại vô cùng. Bà vẫn len lỏi, cúi lòn, lâu lâu đưa vạt áo lên để lau những hạt sương trên trán. Bà vẫn cứ đi. Hình như bà muốn tìm lại giữa những cây cối thân yêu ấy, một kỷ niệm gì ngày xưa, một kỷ niệm cuối cùng, cũng chực trốn thoát mình… Bỗng bà đứng lại, và tôi thấy rõ dưới ánh chiều vàng, người đàn bà tuổi tác ấy, đưa vạt áo lên và này, – không phải để lau những hạt sương rơi vướng trên khăn, – mà là để lau những hạt lệ đọng ở dưới mí mắt. Tôi hiểu một cách dễ dàng cái sự cảm động của người đàn bà ấy giữa cái vườn cây là cái sự nghiệp của người bạn không còn nữa.

Mẹ tôi là một bà quan. Bà Mục chỉ là vợ một tên dân.

Nhưng tình xóm giềng mạnh hơn tinh thần giai cấp. Hai cái  khoảnh vườn gần nhau và những cành cây ở hai vườn đã giao đối nhau, kết liên nhau. Đã có lúc, mẹ tôi, trong khi xem vườn gọi người hàng xóm mà biếu một quả cau đầu mùa, hay một lá trầu son. Hai người ấy đã từng, người ở bên này, kẻ ở bên kia vườn, đã từng gọi nhau như hai người cùng một danh phận, để nói chuyện nhau về một giống rau mới trồng, hay một cái chòm nhãn mới lồng… Trong lúc ấy, chồng bà hàng xóm đi buôn kén ở một làng hẻo lánh ở Thakhek hay Paksé. Và thầy tôi, cũng ở một huyện xa, giữa những cờ trống rộn ràng, cỡi trên mình ngựa đi khánh thành một cái ấp mới.

Đến nay, khi chép lại cuốn truyện này mới hơn mười năm thôi, mà sự đời xung quanh tôi đã thay đổi nhiều lắm. Tôi thương tiếc biết bao, khi tôi nghĩ đến cái việc ngày nay trên đất nước tôi, đã không còn những người đàn bà cũ kỹ, hiền lành như mầu áo "cổ y", những người đàn bà lặng lẽ mà thâm trầm gần đất cát biết bao, sống giữa những cây cối thân yêu, hồn của đất nước! Tôi vừa đau đớn vừa căm giận khi nghĩ đến cái lớp đàn bà lòe loẹt kia đã dám kiêu hãnh thay thế cái lớp người đàn bà cũ kỹ ấy, những người đàn bà thùy mị với những bộ răng đen nhánh. Những người đàn bà ngày nay đã để răng trắng, và vì thế, họ có bao giờ như những người đàn bà đời xưa dầu là một bà quan, cũng cầm lấy cái chét để vun bón một cây trầu non, hay một cây cau mới, ở vườn… Họ có bao giờ còn nâng niu những cây cối nữa, và như thế, họ sống xa đất cát biết bao… Nhưng tôi biết nói thế nào, khi người ta gọi đó là sự tiến bộ?

Mà cả tâm hồn tôi ngày nay cũng như một cái gì rất ăn rập với thời thường, những sự khóc cười của tôi cũng gần như là những đồ sáng chế.

Nhưng có một lúc, thật tôi đã được chứng kiến những sự nẩy nở của những tâm hồn giản dị mà chân thực biết bao! Và, có lúc, tôi cũng bị lôi cuốn giữa cái "dòng đời" lừ đừ và "tha thiết" ấy. Làm sao tôi quên được cái buổi chiều nhàn rỗi mà mây đen bay gần mặt đất, lượn đầy trước ngõ tre, một buổi chiều dễ mời mọc người ta đến những chốn âm u, buồn lạnh. Dì tôi cho gọi bà "bóng rong" vào để phụ hồn mẹ tôi. Hôm ấy, những người đàn ông ở trong nhà đều đi vắng, quây quần bên bà "bóng" chỉ có những người đàn bà… Sau một hồi kêu phụ, bà bóng bắt đầu "lên"…

Dì tôi hỏi:

– Thế hồn có nhớ ngày hồn đi, ai liệm cho hồn không?

Hồn đáp bằng thơ:

Dì Sâm với lại dì Hoàn,

Người chit khăn nhiễu, người choàng cổ y…

– Thế hồn ra đi có giận hờn ai không? Có thương nhớ ai không?

Hồn:

Từ khi hồn xuống âm ty…

Ngày ran nỗi nhớ, đêm chia mối sầu.

Trách riêng con tạo cơ cầu,

Tơ duyên ngắn ngủi, nhịp cầu cắt ngang…

Miễn chồng cho được giàu sang…

Con hồn ăn học, giữ rường mối xưa…

 

Đấy những câu hỏi và những câu đáp đại để là như thế. Nhưng những câu đáp ấy đã làm cho tất cả nhà tôi khóc thút thít. Làm sao tâm hồn tôi có thể ngờ rằng đó chỉ là một sự bịa đặt, giả dối. Và cái ngày mà tôi biết rằng: cái chết là sự hết hoàn toàn, thì có lẽ thật đó là một điều đau khổ không lường cho cái đời tình cảm. Nhưng cũng may, trong cuốn truyện này, tôi cũng không còn phải nói đến chết một lần nào nữa… một mặt trời mới, chiếu vào đời tôi từ nay. Ít ra, tôi cũng nguyện ước như thế.

Mẹ tôi mất đã gần ba tháng, tôi mới lại từ biệt làng vào tỉnh học. Tôi không hiểu sao, bấy giờ, xin nghỉ được lâu thế mà ông đốc trường không nói gì. Ba tháng ở cạnh cái chết của mẹ tôi, cũng có vẻ nghiêm trọng, lâu dài như "ba năm" cư tang của một ông quan có hiếu. Tôi cần nói rõ một điều: bấy giờ tôi vừa hơn 15 tuổi. Và tôi đã học lớp nhất trường tiểu học; với cái tuổi ấy, và với cái trình độ ấy của sự học, kể cũng là một điều hiếm thấy trong thời bấy giờ. Mẹ tôi, khi còn sống và các dì tôi thường ngợi khen tôi không ngớt: dì Hoàn tôi thưởng cho tôi một cái áo lụa "Cương Hà" còn dì Sâm cho tôi một cái áo "địa" xanh. Thầy tôi, lẽ ra, cũng phải sung sướng và kiêu hãnh về sự học của tôi, nhưng thầy tôi vẫn dạy tôi theo một phép tắc rất nghiêm khắc cũng như khi dạy các anh tôi hay chị tôi. Với những người con gái thì ông hay đưa chuyện "dì qua" tôi khi còn sống và làm dâu nhà họ Đặng, mà kể lại cho nghe. Thầy tôi thường nói: "Dì qua" (1) các con ngày xưa làm dâu thật cay đắng không thể nói hết, gặp phải một bà gia điêu ngoa, độc ác vô cùng, đối với con dâu mà không mấy khi là không dùng đến lời mắng nhiếc chửi bới, có khi dùng đến roi vọt nữa. Thế mà "dì qua" chúng con, mỗi khi về nhà nghe mệ (2) nội các con hỏi: "bà gia con đối với con có tử tế không?" thì "dì qua" con chỉ vui vẻ đáp như không hề xảy ra việc gì: "Thưa mẹ, mẹ con bên nhà đối với con quý hóa quá chừng!"

Cái gương nhẫn nhục ấy, vô lý biết bao, bất công biết bao, nhưng thầy tôi cũng nhét vào tâm trí các chị tôi tưởng như là nhét một món ăn rất hiền lành. Còn đối với bọn con trai chúng tôi, thầy tôi cũng dạy những điều tương tự, lấy ở trong cuộc đời của những người đã qua, "chú qua", "bác qua"…và nhiều khi cũng lấy ở trong sách vở thánh hiền nữa. Đại để, ý thầy tôi là muốn đào luyện chúng tôi thành những kẻ phục tùng, cúi đầu mà chịu, cam tâm mà chịu, đau khổ mà chịu. Cũng may, cái điều xấu đến đâu, cũng có một điểm tốt. Cái giáo huấn ấy đã tập quen chúng tôi với sự đau đớn gian nan, nghèo khổ. Nhưng mà nhiều khi thật quá đáng! Với cái chết của mẹ tôi, là cái chết của tất cả cái gì êm ái ngọt ngào nhất ở trong đời chúng tôi. Từ đây tôi phải cứng rắn, mạnh dạn như cái cành kia sắp phải rời cây mẹ, để tự mình chôn chặt vào đất, tự tìm lấy khí lực. Cái tình "phụ tử" chỉ là một sự nảy nở theo lý trí. Cái tình ấy, lẽ ra không nên gọi là "tình" nữa. Vì "tình" tức là cái gì người ta kéo vào mình, bao trùm lấy, ôm giữ lấy, cái gì cột chặt lại. Mà "lý" là cái gì người ta "buông ruỗi" ra, xô đẩy ra. Chỉ nói về phương diện tinh thần, ở xã hội Việt Nam, người con trai ở tuổi tôi đã coi như là một cành cây phải lìa cây mẹ. Người ta cần cứng rắn với nó, để nó có thể cứng rắn với đời.

Mẹ tôi mất được một tháng, thì thầy tôi cũng vào lúc về hưu trở về làng cũ, coi vườn, dạy con. Cái khoảnh đời ấy thầy tôi thường ví một cách nôm na với "cái đời gà sống nuôi con" – từ cái chỗ quan chiêm đẹp đẽ bây giờ nhảy vào một khuôn vòng chật hẹp, cái khuôn vòng một người nội trợ. Và với cái cuộc đời ấy, tất cả những cái khó chịu hàng ngày, những cái vụn vặt bận bịu làm cho người ta phải bực tức. Nhưng dầu sao, tôi cũng không thể dung thứ cho cái tấm lòng sắt đá của thầy tôi, khi ông gọi tôi lên dặn tôi mấy câu khuyên răn theo lệ thường, trước lúc tôi lên đường vào tỉnh. Muôn nghìn lời thánh hiền cũng không làm cho tôi khó chịu bằng cái cử chỉ, mà tôi phải nói là tàn nhẫn, của thầy tôi. Các bạn có biết ông thân sinh tôi đã nói với tôi những gì và giao cho tôi bao nhiêu để làm tiền lộ phí từ làng lên tỉnh? "Đây con cầm lấy hai hào này để làm tiền ăn dọc đường". Tôi ngẩn người ra trước lời nghiêm huấn. Tôi không thể ngờ lòng thương con của thầy tôi, nhưng cắt nghĩa làm sao được cái cử chỉ ấy của một người cha đối với một người con, khi tiễn cái ông con lên một con đường hơn 50 cây số, mà tất cả lộ phí chỉ có hai hào. Người ta có muốn dạy con sự cực khổ, nhưng mà sự cực khổ ấy cũng phải có hạn. Thầy tôi, tất nhiên cũng có thể tính cái độ đường cho tôi, vì ngày xưa đã từng đi thi đi cử, thì cũng đã biết mấy lần đi con đường của tôi rồi. 50 cây số… Hai con sông! Một cái đèo! Rồi lại mấy chục cái dốc! mà điều này, thầy tôi lại càng không được quên, tôi là một người học trò chữ tây, và tôi lại là một cậu con quan! Lúc nhỏ, tôi đã từng đi cáng xanh, cái thứ cáng, nếu không phải là con nhà dòng dõi thì dễ thường đã đi được. Mà nào phải chỉ có độ đường chua chát. Sau 50 cây số là những đêm dài dằng dặc kế tiếp nhau, những đêm ôn tập bài vở, – vì bấy giờ tôi chỉ còn vỏn vẻn một tháng nữa thì thi bằng tiểu học. Thầy tôi hẳn phải biết cho tôi như thế, nhưng có bao giờ ông lại muốn rằng con cãi lại lời cha mẹ. Vì vậy, lúc cầm lấy hai hào bạc, tôi cố vui vẻ hết sức, dầu bấy giờ dưới mắt tôi đã rưng rưng hai giọt lệ. Cũng may, hôm ấy, cùng đi với tôi, lại có thằng cháu tôi nữa. Có lẽ ra đi, nó cũng bị một cuộc tiễn đưa chua chát như tôi cho nên nó cũng nhận lời đi bộ với tôi một cách vui vẻ lạ thường. Tôi còn thấy lại một cách rõ ràng trong tâm cảnh tôi, cái hình ảnh của hai anh chàng loắt choắt, len trên những ngõ tre làng nhỏ hẹp bùn lầy để đi ra con đường cái. Tôi mang ở trên vai, một cái khăn gói, ở trong ấy…tất cả giang sơn sự nghiệp, tất cả cái đời học sinh của tôi… Mặt trời vừa mới mọc. Nhưng mặt trời cũng không cười… Mà lòng tôi cũng không cười, cả hai chúng tôi cũng không hát, tuổi trẻ ở trong chúng tôi thật quả đã chết từ ngày hôm ấy. Tôi buồn nao nao. Quýnh, đứa cháu tôi cũng như lây cái buồn tôi. Lần thứ nhất tôi cảm thấy mẹ tôi chết hẳn trong lòng tôi. Cũng chết bao nhiêu những hình dáng hiền lành, của thời thơ ấu. "Chiếc cáng xanh" mà tôi lấy làm đề cho tập bút ký này, – cái chiếc cáng xanh ấy từ lâu là để móc ở trên rầm, võng thì bị chuột cắn thủng đi, cái diềm cũng bị bở nát. Và trên con đường từ làng ngoại, cũng không còn bao giờ có lại những cuộc du lịch hàng năm, những cuộc du lịch đầy thành kính và đầy thi vị. Cũng tại mẹ tôi đã chết… mà cũng tại một cuộc đời thái tây rất văn minh đã đến ở trước ngõ người Việt Nam… Từ làng nội đến làng ngoại tôi, sau này, người ta đã vỡ một con đường mới, dành cướp của truông núi tất cả cái bí mật của nó. Sau này, tôi có mấy lần đi thăm làng ngoại tôi, thì than ôi! Tôi chỉ đi bằng ô-tô của anh tôi… con đường ấy bây giờ chỉ có dài có 15 phút đồng hồ… Tôi còn biết nói thế nào được! Vì sự nhanh chóng ấy, người ta gọi là sự tiến bộ kia mà!

Nhưng mà tôi phải trở lại với cái cuộc du hành của hai đứa lúc bấy giờ. Tôi còn nhớ khi đi khỏi làng tôi và đã đến địa phận làng bên cạnh, thì một việc hơi vui vui đã xảy ra. Một đứa con gái nhà quê mặt trông cũng sạch sẽ ngồi cắt cỏ ở vệ đường ngừng hát, và nói với tôi:

– Kìa anh khóa! Anh khóa đi mô rứa! cho em theo với nào! Để khăn gói em mang cho!

Thật tình, tôi chỉ thấy ở trong lời nó, một vẻ đùa cợt hiền lành. Tôi đáp:

– Đi thì đi…! Lại đây mà đi với anh.

Có ngờ đâu, người con gái nhà quê ấy, bỏ cắt, chạy theo chúng tôi thật, và nhất định đòi mang cho được khăn gói của tôi mới nghe. Tôi cũng chiều nàng. Nhưng bây giờ là cô con gái đi trước. Và tôi rảo bước theo mà cũng không kịp. Đến nỗi tôi phải van xin, cô cũng không chịu buôn tha cho. Chốc chốc, cô chỉ ngoảnh lại nói với chúng tôi:

– Ô tê! Việc chi mà phải bận! Cứ để em mang cho có được không…

Rồi cô ấy hát to:

– Khăn gói theo chồng, nước mắt như mưa.

Và quay lại chúng tôi:

– Nhưng tôi thì tôi không khóc đâu! Vì chồng tôi thế nào cũng thi đỗ Trạng nguyên…

Tôi cười:

– Chúng tôi là những ông khóa chữ tây…

– Thế chữ tây thì không có ông trạng à?

– Không.

– Có.

– Không mà!

– Mà em bảo có thì đã sao!

Rồi nàng lại nhăn cái hàm răng đen nháy và cười với chúng tôi… nhưng nàng vẫn không tha cho. Nàng đi thẳng về nhà nàng, đặt cái khăn gói xuống phản và nói với mẹ nàng:

– Khăn gói của chồng tôi đó!

Người đàn bà ấy, cũng bằng một giọng thản nhiên hỏi lại:

Thế chồng con là ai nào?

Người con gái chỉ tôi và nói :

– Đây chồng con đây!

Rồi quay lại phía khăn gói, và toan mở ra :

– Để xem trong khăn gói của chồng tôi có những gì nào.

Rồi nàng mở ra và không cần xin phép tôi.

Tôi cũng không hề phản đối… và nhìn một cánh ngạc nhiên cái người con gái có những bộ điệu từng tững ấy. Mẹ nàng lại còn "ngộ" hơn: nhất định giữ chúng tôi lại đến sáng hôm sau mới đi. Không hiểu sao chúng tôi cũng nhận lời, như nhận một điều rất hợp lý… Rồi sáng hôm sau chúng tôi từ biệt nhau không có một lời bịn rịn, không có một câu tình tứ. Nhưng một sự lạ lùng hơi làm cho tôi hơi cảm động: khi vào đến tỉnh, hai hôm sau, mở cái khăn gói ra, tôi thấy có một quan tiền kẽm. Tôi dầu nghèo kiết đến đâu, dầu thầy tôi có bóp chặt sự ăn tiêu của tôi đến đâu tôi cũng không phạm đến tiền của nàng. Sau này khi trở về làng, tôi tìm trả, thì nhà nàng đã đổi chủ. Hỏi người hàng xóm, mới hay nàng đã… chết.

Không, nàng đã đi lấy chồng xa.

Vâng, thì cũng thế.

 

***

 

Ngày năm ấy, tôi thi đỗ bằng sơ học, mà lại đỗ đầu nữa. Tôi nhớ hôm ấy, thầy tôi cũng có mặt ở tỉnh. Vì vậy, tôi không hề tỏ một vẻ vui mừng, dầu bạn bè tôi và cả những người nhà quê mà tôi không hề quen biết, cũng đều xúm lại quanh tôi và tán dương cái ông "thủ khoa" tý hon.

– Này cậu! Thế rồi về "làng miềng" có định rước không hỉ?

Một người nhà quê khác đáp:

– Ấy, như làng tôi, thì dân sẽ đi quá ba làng là ít, để đón vị "tân khoa".

Tôi biết thuở bấy giờ cái bằng "sơ học" mà họ vẫn gọi bằng "ri-me",[a] có giá trị lắm: cái thời người hiếm, của hiếm, cái gì chẳng quý… Nhưng đó là với những làng khác, chứ đối với làng tôi thì sự đỗ đạt ấy vẫn bị coi thường. Ngày nay, cái anh "khóa sinh" giật được cái bằng "ri-me" cũng như ngày xưa người ta giật cái "tú tài".

Đậu tú tài thì đừng hòng dân làng rước đó chúc? Dầu sao thì ít ra tôi cũng phải lấy đó làm một điều kiêu hãnh với thầy tôi. Không nữa, tôi cũng cho đó là một dịp tốt để tôi trả thù thầy tôi là người chỉ cho tôi hai hào bạc để ăn đường, một con đường gần năm mươi cây số. Tôi quên làm sao được cái nét mặt tàn nhẫn của thầy tôi.

Về đến nhà trọ, tôi vẫn hằm hằm đặt cái "chồng sách thưởng" xuống bàn, và như muốn nguýt thầy tôi. Nhưng thầy tôi vẫn "lạnh lùng" như không. Chỉ hỏi tôi:

– Sách đâu mà nhiều thế con?

Tôi cố lấy giọng tự đắc, đáp:

– Bẩm sách người ta thưởng cho con, vì con đỗ đầu kỳ thi ri-me.

Tôi cố tìm một vẻ sung sướng hay kiêu hãnh trên mặt thầy tôi. Nhưng ông vẫn lạnh lùng như không:

– Năm nay, thầy sẽ cho con vào Kinh học với các anh con.

Tưởng được vào Kinh học thì tôi sung sướng lắm? Tôi chỉ cầu sao người sinh ra tôi tỏ cho tôi một chút vui mừng trong lúc này, thế là đủ lắm rồi. Tôi có cần gì hơn nữa! Tôi sực nghĩ lại cái sự đi bộ của tôi trên con đường 50 cây số mà tôi không sao nén được căm hờn.

Trời thì nắng như thiêu. Những trận "gió cát" đưa lên đường hơi nóng làm cho tôi muốn chết ngốt. Khốn nỗi bấy giờ tôi đâu đã có một đôi guốc gỗ để kéo lượt thượt. Quýnh, người cháu tôi và tôi phải vào trong một xóm ở bên đường xin tàu chuối để kết làm những đôi "dép" tạm mà đi cho đỡ bỏng chân, – vì có nên thú rằng: có những quãng đường chỉ là những quãng đường cát. Cái mũ trắng của tôi cũng không đủ che cái nắng đúng ngọ: chúng tôi phải trèo lên những cây "sầu đâu" ở bên đường để bẻ những cành lá tạm làm những cái ô che nắng… Nhưng mà đi bộ được năm cây số, thì những đôi dép chuối ở dưới chân chúng tôi phải mòn và rách hết. Chúng tôi bất đắc dĩ lại phải xuống lánh nắng ở dưới một cái cống. Bấy giờ chúng tôi mới đưa những vắt xôi ra ăn với nhau. Những kẻ được ăn bằng mâm vàng đũa ngọc cũng không thể có cái sung sướng của chúng tôi. Từ đấy đến nay đã hơn 15 năm rồi, chưa bao giờ tôi lại tìm thấy cái vị thấm thía và não nùng của những nắm xôi ấy!

Tôi sực nhớ đến mẹ tôi hai khóe mắt bỗng rưng rưng. Quýnh dỗ tôi bằng sự nói xấu thầy tôi:

– Ông ấy, cứ ngày xưa mà khổ như chúng mình thế này xem có đỗ được cái cử nhân không?

Tôi lau nước mắt nói thêm:

– Đừng nói cái cử nhân, hãy nói cái tú tài xem có giật được không nào?

Rồi hai chúng tôi cười với nhau một cách đắc ý. Sự hăng hái lại đột khởi ở trong lòng: chúng tôi lại trở lên đường, không sợ gì những cơn gió cát nữa. Và từ đó mỗi khi nghĩ đến nông nỗi ấy, chúng tôi, nhất là tôi, lại càng chúi đầu mà học, tưởng như thế là có thể trả thù thầy tôi được. Quả vậy, cái công học của tôi không uổng: Tôi đã đỗ thủ khoa vào kỳ thi ri-me ở tỉnh. Ấy là tôi chưa kịp nói rằng kỳ thi ấy có những ba trường Pháp-Việt cùng thi và số thí sinh đến non bốn trăm người. Một người khác ở địa vị thầy tôi thì chỉ thiếu một nước là đưa cậu "quý tử" đi từng nhà người quen mà khoe ầm lên. Và cái sự khoe khoang ấy chính đáng biết bao! Nhưng đằng này thầy tôi chỉ đáp bằng những câu nói cụt ngủn và lạnh lùng, đáp lại những người đến hỏi mừng.

Duy có dì Sâm tôi, nghe tin tôi đỗ, đi hết hai ngày đò ra thăm cho kỳ được. Vừa đến ngõ, dì tôi thấy tôi đã chạy lại ôm sập lấy tôi và khóc như mưa như gió. Vừa khóc vừa kể:

– Em (chị mẹ tôi) ôi là em! Em đi đâu nay không về mà xem con em rạng rỡ mặt mày…

Tôi cũng cảm xúc lắm và tâm hồn gần như mê loạn không còn biết dì tôi còn kể những gì nữa.

Dì tôi thấy vẻ lạnh lùng của thầy tôi đối với sự thi đỗ của tôi, thì dì tôi cũng hơi giận, cho rằng thầy tôi không yêu tôi. Tôi cũng nghĩ như thế. Mãi về sau, tôi mới hiểu được thầy tôi, là khi thầy tôi buông tay gọi các con lại bên giường và dặn một lần cuối :

– Thầy làm quan, các con cũng biết đấy, mà nhà vẫn nghèo. Tất cả hương hỏa ông bà truyền lại chỉ có một chữ…

Thầy tôi bấy giờ không nói hết, nhưng chữ ấy là chữ "nhẫn"… 

Đã đành rằng trên thế giới có những núi sông đẹp hơn những núi sông ở quê hương tôi, có những dân tộc hùng mạnh hơn dân tộc tôi. Nhưng không bao giờ, người ta sinh ra ở đời lại có quyền chọn một quê hương, chọn một huyết thống theo ý muốn của mình… Vì thế tôi đã là một người Việt Nam.

[…………………………………………………………………………….] [b]

Giẫy núi Giăng Màn chạy sát suốt bờ bể. Cái giống người xen lấn với nhau trên một ít đất ruộng, phải dồn ép một bên bởi những núi đồi và một bên bởi những đụn cát. Những đụn cát xua đuổi bởi những cơn sóng bể và những cơn gió mùa, mỗi ngày lấn vào đất một tý, và như xô đùn bởi một sức mạnh vô hồi của cát sóng. Những cây phi lao không ngăn cản nổi những trận "gió cát" … Những cây ấy đẹp quá để mà hữu ích về một "tích sự"  gì : quanh năm, chúng reo hát những bài ca nỉ non hay thánh thót…

[..............................] [c]

Trước sự tấn công mãnh liệt của gió cát, họ phải lùi, và vừa lùi, họ vừa kiếm một đường thoát, một đường thoát vĩnh viễn. Họ đã rời khỏi những hạ bản và đến chỗ cao nguyên. Họ đã chiến thắng những quả núi hoang. Những cái "rẫy" mới vỡ đất còn đỏ ối. Cái mầu đỏ "chất phác" và mới mẻ ấy như muốn kiêu hãnh lại với cái mầu trắng của đụn cát, cái mầu trắng nõn nường và thuần nhã…

Giữa cái "khoảnh sống còn" một ngày thu bớt đi bởi sự xâm lấn của những đụn cát, và một ngày một mở rộng ra bởi sự bành trướng bằng những "rẫy" mới – nhưng sự bành trướng không bù nổi sự xâm lấn, cho nên một cảnh tượng nghèo nàn, khốn khổ đã bày ra trên cái đám người chen chúc trên một ít bình địa eo hẹp ấy. Người dân ở đây quanh năm ít khi có đủ gạo bắp mà ăn ngày hai bữa. Một phần lớn người dân phải ăn sắn trừ cơm, cái thứ sắn mà người ta trồng ở những rẫy mới vỡ. Sự khốn khổ không phải chỉ có thế! Những đụn cát mênh mông, lại những dải núi cộc cằn, và cái sự sống về vật chất của người dân, đã gây nên một cuộc đời tinh thần rất nghèo nàn [...] [d] Đi hàng chục cây số, hàng trăm cây số, không tìm được một ngôi chùa. Thảng hoặc chỉ gặp được một cái thành cổ, gạch đã vụn nát, đất đã lún, cái thành của vua lỗi hay vua lồi: dấu tích của một ông vua Hời ngày xưa. Người sống, quanh năm không được một tiếng chuông chùa. Người chết, lúc buông tay, không được nghe một bài kinh cuối cùng để tiễn đưa vong linh về nơi "Tây phương cực lạc".

Những đêm dài ghê sợ chỉ nghe có tiếng hò hét của những ông thầy phù thủy, đuổi xua những con ma Hời nhất định quanh quẩn ở đất nước này để cướp xin những "lá đa hớp chào"!

Thảng hoặc những năm "hung độc", có sự dịch biến về thời tiết: nếu là mặt trời ăn mặt trăng thì họ reo mừng vui sướng, nhưng nếu là mặt trăng ăn mặt trời, thì coi như là có sự khốn nguy: từ người này gọi người khác, từ thôn này gọi thôn khác, từ làng này gọi làng kia: họ gọi dậy để cứa chữa mặt trời, bằng không thì năm ấy mùa màng sẽ mất hết. Họ lấy dùi gõ vào nia, gõ vào sàng, gõ vào mẹt. Họ gõ vào mâm, họ gõ vào nồi, họ gõ vào thau… Họ gõ bất kỳ vào một cái gì. Lại tiếng trống ở đình. Tiếng mõ ở điếm. Tiếng thanh la ở giáp Đông và giáp Đoài. Người ta tưởng như giặc cướp đã đến ở đầu làng, ở trước xóm, ở ngoài ngõ…

Những người sinh vào ngày giờ như thế, có một tâm hồn "bất định" và luôn luôn sợ hãi. Nhưng họ không tin ở Trời, Phật. Họ chỉ tin ở những yêu tinh, quỷ quái, những con ma bờ và ma xó… Nhà thờ của họ: một gốc đa, một bờ giếng. Vị giáo chủ của họ: những ông thày phù thủy chuyên làm sai lạc Đạo đức Kinh. Tôn giáo của họ: những tà đạo có thể có và có thể tưởng tượng được! [................................] [e]

Trong lúc ấy, một vài trường học mọc lẻ tẻ đó đây! Cái ánh sáng từ những ngôi sao hiếm hoi ấy phát ra, còn yếu ớt quá, rụt rè quá, không đủ để đuổi xua cái màu đen tối nặng nề bao phủ các thôn xóm. Vả, thực ra, người dân thủa bấy giờ không mong đợi, cũng không cầu xin một thứ ánh sáng nào hết. Họ chỉ ước nguyện sao cho những trường học ấy đưa lại cho họ những vị tân khoa, để họ được cái vinh dự đưa hèo, hoa , võng, lọng ra mà đón rước. Vì thế, ở nhiều làng, những ông nghè tân khoa chỉ là những cậu bé vừa giật được bằng tuyển sinh (cũng tương tự như cái bằng yếu lược bây giờ), một cảnh tượng khốn đốn là chỉ tại lúc bấy giờ nền học nho đã vội vàng xách nón ra đi, mà cái nền học tây chưa kịp đến. Tôi còn nhớ những câu hỏi ngớ ngẩn của người nhà quê lúc bấy giờ. Những ông già đã có cái sự từng trải của cả một đời người, nay cũng tự nhiên trở nên bé nhỏ, khờ dại, ngớ ngẩn trước những cậu bé vừa ở những trường tổng hay ở trường huyện về, những cậu bé vừa hôm qua dậy còn gào thét như những con vẹt  "Voici le tableau noir" [g] hay là cao hơn thế:

[……………………………] [h]

Một ông già, một hôm hỏi tôi :

– Thế thì cái bằng Ri-me cũng như ngày xưa cái bằng Tú tài cậu hỉ ?

Tôi không hiểu gì cũng đáp :

– Kể thì cũng rứa rứa, nhưng về sự học, có phần gay go hơn.

– Thế còn bằng Cô-lê-le ? Cũng như xưa kia, bằng Cử nhân chứ gì !

– Ấy cũng thế cả.

 Thực ra, cả tôi, cả ông cụ nhà quê ấy, cả bao nhiêu người nữa lúc bấy giờ cũng không thể hiểu được cái bằng Ri-me hay là cái bằng Cô-lê-le có giá trị đến bậc nào. Nhưng là chắc có giá trị lắm! Vì xưa kia chỉ ở một làng tôi, ở một nhà tôi, mỗi khoa đã có bao nhiêu ông cử ông tú, mà nay từ khi học tây, thật trong làng tôi, cả tổng tôi, cả huyện tôi cũng chưa ai đỗ được cái bằng cô-lê-le (complémentaire) [i]  bao giờ cả. Làng tôi xưa nay có tiếng là làng văn vật, không hiểu sao, cũng đâm ra "đốn" thế. Riêng tôi, tôi nghiệm thấy như thế này: hễ làng nào có tiếng là văn vật, làng ấy lại chậm tiến trên con đường tây học. Vì lẽ rằng những nhà khoa giáp cũ, những ông đồ nho hay chữ, họ còn vẫn tin ở sự cao quý của chữ nho, cho nên họ không muốn gửi con cháu họ tới ngay những trường tây học. Nhưng người làng tôi thì họ không tin như thế.

[………………………………] [k]

Trong làng tôi, có một ông đồ nho hay chữ, đã từng đỗ Cử nhân và ra làm quan. Nhưng việc đời rắc rối lôi thôi, "Quan lớn Lê" – người làng tôi vẫn gọi một cách cung kính như thế – "Quan lớn Lê" phải treo ấn từ quan về làng dạy học. Học trò của ngài – phần nhiều là những người đỗ đạt lớn sau này ở trong vùng tôi – "Ngài" là một nhà nho chính tông, tính tình rất nghiêm khắc. Cái nghĩa khí của ngài, hàng huyện đều biết và sợ. Người ta còn truyền tụng nhiều chuyện rất lạ về cái tính nghiêm khắc của ngài. Lúc bình thường, ngài ngồi một mình bao giờ cũng quay mặt về phía trong. Cái khăn đội trên đầu ngài, nếu một khi cái khăn vô ý rơi xuống đất, ngài sẽ vất đi mà không dùng nữa. Ngài thường cắt nghĩa cái cử chỉ của mình: Cái khăn này là để thờ trời, thờ vua, thờ ông bà tổ tiên. Một khi nó đã rơi lấm mà còn đội lên nữa, chả hóa ra mang tội bất kính với các đấng trên đầu trên cổ.

[…………………………] [l]

Tôi đã nói : cái văn bằng "tiểu học" mà người dân quê vẫn gọi một cách buồn cười là bằng "Ri-me" đối với làng tôi là một làng "văn vật", thì thật chẳng có nghĩa lý gì, nhưng đối với những làng khác, thì cái bằng ấy quả có một giá trị to tát. Chẳng hạn như ở làng Khương Hà là làng của Mượn, người ta xôn xao và rộn rịp về cái tin Mượn đỗ bằng "Ri-me" như là một vinh dự xưa nay chưa từng có : thần làng đã bắt đầu "linh ứng" và đất làng đã sắp phát… Người ta đã tổ chức một cuộc đón rước hết sức linh đình đối với các vị tân khoa. Những người dân "hèo hoa võng lọng" không phải chỉ chực đón ở địa đầu làng như ngày xưa đón rước một ông Tú. Muốn cho cuộc đón rước trọng thể hơn nữa, họ phải mang cơm nắm đi đón chực vị tân khoa ở địa đầu tổng mình. Vì thế, cái cuộc đón rước ấy, phải đi qua những mấy làng.

– Ấy cũng là một cách cho làng trên xã dưới đừng cho có ai chê miệt làng ta là làng "mít nài, dây sắn" (1) nữa.

Từ ông Phó, cụ Trùm xuống đến cậu Xeo, anh Mô của làng Khương Hà đều trầm trồ nhau như thế. Mà ai cũng có quyền hỉ hả về cái đỗ đạt của Mượn… Khắp hàng Tổng, người ta đều nói đến. Những ông Bá, ông Điển [m] có gái "trộng", đã nhờ mối mai tin đi tin về với nhà dượng tôi là ông đề Viễn. Cái mũi của dượng tôi "hỉnh" lên gần bằng cái mũi sư tử. Còn dì tôi được thể, lại kén già. "Cô này thì phải cái dáng đi vất vả. Còn cô kia, được cái miệng rộng, nhưng phải cái lỗ mũi trống. Của vào lỗ hà, ra lỗ hổng cả". Trong lúc ấy thì Mượn vẫn hiền lành, nhún nhường, vô tội. Nghe thầy mẹ nói thế nào, Mượn cũng chỉ biết "dạ". Đến nỗi, đã làm cho một "mụ mối" phải kêu lên : "Cậu cả lành như một cục đất". Thật ra cục đất còn có chỗ kiêu hãnh hơn. Mượn vẫn biên thư cho tôi luôn, giọng thư vẫn một vẻ bình tĩnh không thay đổi: không vui mà cũng không buồn. Mượn tường thuật lại cho tôi, như những bài luận trường. Mượn tường thuật lại cho tôi nghe những việc xẩy đến: này cuộc đón rước, này sự thăm hỏi của bà con, này việc "khao" hàng xã, này việc mối mai… Trong bức thư cuối cùng, Mượn cho tôi hay rằng : dì, dượng tôi đã nhất định hỏi con gái ông điển Tiệp ở làng Thanh Lăng, và ngày cưới đã định là 20 tháng một.

Lúc đầu tôi tưởng không vào được, nhưng sau dì tôi cho người ra nằn nì bảo tôi vào dự lễ cưới cho được. Tôi không thể từ chối.

Làm sao tôi quên được đám cưới của Mượn, đám cưới đầu tiên của đời tôi. Tôi nhận thấy, ở trong đám cưới ấy, tất cả cái đặc biệt, cái hay ho, và cái ngây ngô về phong tục ở vùng quê tôi.

Cái điều đáng ngạc nhiên hơn hết chính là chú rể? Một chú rể tuy đã 16 tuổi mà vẫn loắt choắt. Bao giờ, trên mặt chú rể, cũng có một vẻ ngơ ngác như lạc loài tới một chốn lạ và không hiểu đâu vào đâu. Sự học tây, ở anh, đã làm cho anh cách biệt với những người xung quanh: từ cách ăn nói cho đến lối chào mời, anh không thể nào thành thạo như những đứa trẻ khác cùng tuổi và từ nhỏ không rời khỏi làng xóm. Cái khăn lượt với cái áo thụng xanh làm cho chú rể trở nên trịnh trọng một cách đáng thương. Và hãy tưởng tượng, anh phải đóng cái y phục ấy suốt ngày lẫn đêm! Vì rằng làng vợ cách một con sông dài, cho nên ngày 20 là ngày chính thức mà đám cưới đã phải xuống đò ngay tối hôm 19. Cả thảy là 6 chiếc đò dự vào đám cưới. Cứ hai chiếc thì kết lại làm một. Chiếc đẹp nhất, có kết hoa, dành cho cô dâu và những người đàn bà bên nhà gái.

Sáng hôm sau, sau khi chúng tôi đã ăn mặc chỉnh tề và đám cưới sửa soạn lên bến, thì bỗng có tiếng pháo nổ trên bờ. Tôi hỏi thầy tôi :

– Pháo đâu mà nổ sớm thế, thầy ?

Thầy tôi chưa kịp đáp,thì một ông lão đã đáp thay :

– Đấy, cheo đấy! [n]

Một ông lão khác:

– "Cheo bến" đấy…

Một ông lão khác :

– Chưa mở mắt, đã cheo rồi !

Nhiều người trong thuyền cùng cười rộ. Duy trên vẻ mặt Mượn, có chiều cảm động, nhưng đám cưới cũng cứ lên bờ. Hai anh trai cầm hai cái đèn đi trước, đến một người "cồng" một cái  "ché" bành. Rồi đến một ông cụ già đầu râu bạc phơ bưng một cái hộp, hộp phủ một tấm vải điều.

Tôi chưa kịp hỏi, dì Sâm đã cắt nghĩa cho tôi :

– Cháu nà! Dì dượng nhất định nhờ cố Viên bưng hộp, vì cố là một người đã "thọ", lại trong sạch, con cháu của cố, đầy đoàn đầy lũ.

Tôi hiểu rồi : mượn cố Viên bưng hộp, là người ta cũng nguyện sao cho cái tình của trai gái được già đời như ông lão kia, và đông con đông cái như gia đình lão.

Nhưng trong cơn im lặng, một giây pháo nữa lại nổ ! Đám cưới bắt buộc phải ngừng lại. Tôi ngẩng trông ra. Hai cái "án thư" đã đặt ở hai bên đường…

Tiếng pháo vừa dứt, một chàng trai ăn mặc theo lối "lễ sinh" ở trong một đám cúng, cất cái giọng rất giòn rất xinh để đọc mấy câu thơ nôm mà một ông đồ trong làng đã làm ra, mấy câu thơ ấy chỉ để chúc mừng cặp trai gái được "bách niên giai lão". Đến nay tôi còn nhớ bên tai cái giọng bình thơ ngân nga ấy, đầy hoa tươi, đầy trăng sáng :

Gái làng gặp được rể sang…

Ông Tơ bà Nguyệt biết đường xe duyên,

Mong cho đôi lứa hai bên,

Trăng sao sáng tỏ, ngày đêm thuận hòa.

Chúng tôi chỉ bỏ ra mấy quan tiền kẽm thì họ lấy kéo cắt cái giây hồng ấy, và lại để cho chúng tôi đi.

Đi được một quãng nữa, lại có một cái giây khác giăng qua đường, nhưng lần này không phải là một cái giây hồng mà lại là một giây mũi bò, vì đám cheo này chỉ là một đám cheo không pháo, cũng không án thư, đám cheo của những kẻ chăn trâu. Cũng lại cho chúng một ít tiền, đám cưới mới lại đi được. Chúng, một bọn hơn ba chục đứa, sau khi đã nhận tiền, cùng cất đều giọng hát một bài cheo cũ để mừng chúng tôi.

Nhưng mà như thế đã hết nợ đâu. Từ biệt bọn chăn trâu, đám cưới, khi vào đến đầu làng, đã thấy cờ quạt, kèo hoa rực rỡ, với lại những ông già lụng thụng trong những bộ áo rộng xanh.

Một tràng pháo chào mừng của những ông già. Lại một tràng pháo "đáp lễ" của đám cưới. Người ta đòi sự trình diện của ông… rể làng. Người ta nói vài câu về lệ làng cho chú rể biết, nghĩa là, nói xa chẳng qua nói gần, nghĩa là… người ta muốn đòi một món tiền cheo, và đây là một cái cheo lớn vì là cheo làng. Đám cưới chỉ phải trả vài đồng bạc, là thoát. Nhưng mà nào đã thoát cho. Tôi nhớ như sau cái đám cheo làng ấy là cheo… họ và sau cheo họ là cheo đình, và sau cheo đình, là cheo chợ, và sau cheo chợ là cheo xóm, và tất cả đám cưới của anh Mượn tôi đã phải trả món nợ hơn 20 quan tiền kẽm. Thủa bấy giờ, chừng ấy là một món tiền. Theo thời giá đó là giá tiền một con heo lớn. Nhưng thực ra một người "vợ… cách làng" còn tốn kém hơn một con lợn nhiều. Là vì ta chưa tính vào đấy cái kho báu ở trong hộp. Tôi còn nhớ cái lễ thứ nhất, khi hai họ vừa an tọa, là cái lễ mở hộp, đựng những đồ tế nhuyễn, mà còn bí mật đối với những người lúc bấy giờ. Nếu là trong một đám cưới người cùng làng, thì cái hộp ấy, sẽ đưa thẳng đến người con gái, và chính tay nàng sẽ mở ra – mở lúc nào cũng được – trong hộp có những gì, chỉ một nàng biết cũng đủ, có quyền không nói với cha mẹ mình. Nhưng ở đây, là một sự gả bán cách làng. Làng có quyền biết người ta mua cái người con gái của làng bằng cái giá nào. Một ông cụ già về họ con gái đứng dậy, bằng một cái giọng trịnh trọng :

– Trình hai họ, tôi xin phép hai họ cho tôi mở hộp.

Bao nhiêu mắt đều đổ dồn cả vào những vật lấp lánh, lẻng kẻng ở trên một vuông vải điều; mọi người hồi hộp đợi sự xướng tên những vật.

– Thưa hai họ, này một đôi bông vàng (hoa tai), một cái khâu (mà tại sao lại không là hai?) vàng, một đôi xuyến, một chiếc vòng bạc. Một cái áo cổ y, một cái áo xuyến, một cái quần lãnh, một cái khăn nhiễu Tam Giang, và thưa hai họ, một cái giây lưng… thao…

Một tiếng hỏi lại :

– Hết ?

– Thưa hai họ hết.

– Không còn gì nữa.

– Thưa hai họ, còn.

Cái ông già tuyên đọc ấy, liếc mắt nhìn cái mảnh giấy hoa tiên ở trên những quan tiền kẽm và nói :

– Và thưa hai họ, còn nữa… Còn bốn cọc bạc nữa, mỗi cọc một chục, và về tiền cả thảy 50 quan.

Tôi thoáng nhận thấy trên mặt của những người họ nhà gái, thoáng qua một vẻ thất vọng. Không phải thất vọng vì món tiền nhỏ quá mà là tại món tiền to quá và làm cho họ không thể sát hạch vào đâu được. Một sự quên sót cỏn con về phía nhà trai cũng sẽ bị họ đưa ra, và làm to chuyện.

Một ông bô lão, sau khi đã hơi quá chén, quên giữ gìn :

– Theo lệ làng tôi, lẽ ra đám cưới trước khi vào nhà, phải vào yết đình đã.

Một ông nhà giai đáp lại :

– Nhưng mà thưa cụ, đã có lễ cheo đình rồi.

– Nhưng cheo là cheo mà…

– Thưa cụ đằng nào cũng thế.

– Không, hai đằng khác nhau lắm. Cheo là cheo của dân xã, chứ không phải là cheo của Thần. Xin cụ đừng quá vội… mà có điều phạm với các ngài trên đầu trên cổ.

– Làng chúng tôi không bao giờ có cái tục như thế… mà khắp cả hàng tổng dễ thường không đâu có. Cheo thì khỏi yết. Thưa cụ, chỉ xin làm rể làng chứ có phải là đỗ đại khoa đâu mà phải… yết thần.

Một ông "bô" ở bên nhà gái, có vẻ là tay "ăn nói", bẻ ngay lời biện bạch của ông cụ bên phe nhà trai :

– Cụ nói chí lý lắm ! Nhưng làng tôi đã có tục như thế, muốn làm rể làng có thể nào mà không tuân lệ làng được không ?...

– Thưa cụ, không phải có ngần ấy, chú rể ngày mai ngày kia còn phải đến trình cụ Tiên chỉ, cụ Chánh, cụ Lý… và cả với anh Mõ, anh Xeo cũng phải để chúng nó biết mặt chú rể mới. Thưa các cụ, tục làng chúng tôi như thế, không muốn tuân theo thì cứ việc trả vợ lại cho làng.

Một cái cười dài để tán thưởng cái ông cụ già sách hoạch, hùng biện, lời lẽ như sắt đanh. Nhưng cái lý luận ấy làm cho họ nhà trai hơi bị mích chạm, rồi từ đấy, những lời đi tiếng lại giữa hai bên, có khi đã có sự cọ sát nhau, nhưng rồi cũng giàn xếp được ngay. Người ta vẫn không quên rằng một đám hội họp như thế giữa thôn quê là một dịp để hạch sát lẫn nhau.

Một ông cụ già về phe nhà trai nãy giờ im lặng, cất cao giọng nói :

– Trình hai họ, bây giờ thì hộp đã mở xong rồi, thì xin họ nhà gái cho chúng tôi biết cái cô dâu mới của chúng tôi ra làm sao chứ?

Và lấy giọng bông đùa :

– Xem có đui què mẻ sứt gì không nào ?

Cái câu nói bông đùa ấy vẫn làm cho nhiều người không thích. Một người trai trẻ ở bên nhà gái đáp lại :

– Thưa cụ, có sứt mẻ què đui thì bây giờ cụ cũng không thể nào biết được. Chỉ có chú rể là sẽ biết mà thôi, nhưng mà chắc chú không nói.

Cái câu nói chua chát và hơi xấc xược làm cho ông cụ già hơi nóng mặt, nhưng làm cho họ nhà gái thích khoái lắm, và cười ồ lên.

Thầy tôi cũng xen vào một câu :

– Thôi, trời cũng đã chiều, xin hai họ liệu sơm sớm cho chúng tôi xuống đò. Vậy xin cho dẫn dâu ra.

Trong lúc ấy, thì hai người đàn bà đứng tuổi cầm hai tay một người con gái thẹn đỏ như một quả gấc, từ trong buồng bước ra chính giữa nhà và nói :

– Thưa họ, dâu họ đó. Hồi nãy còn là người của bên chúng tôi, bây giờ đã là con cháu của họ. Họ tha được nhờ, họ bắt xin chịu.

Người dẫn dâu, trong câu nói khéo léo ấy, là cốt xin họ nhà trai chước cho cô dâu khỏi lạy họ, và người ấy đã thu phục được mọi người: người ta thảy vui lòng "chước" cho cô dâu. Nhưng không vì thế, họ nhà gái quên không hạch nữa. Vẫn người dẫn dâu nói :

– Thôi cô dâu cảm ơn họ đi. Nhưng nhân thể, trước mặt hai họ, bà con hai bên cho cô dâu chú rể những gì nào?

Tức thì trong đám người, có tiếng nói rụt rè :

– Tôi xin cho cô dâu 10 trự bạc.

Đó là lời dì Nhung tôi.

– Còn tôi, gọi là… chỉ có thế…

Một tiếng hạch :

– Xin hô to cho họ biết.

– Ông chú cho cháu rể…15 trự.

Bây giờ, một người đã đứng sẵn để tuyên đọc :

– Dượng cho cháu gái… một cây lụa… Thím cho cháu… một đôi hoa. Ông cho cháu một cái khế 1 mẫu ruộng, cha mẹ nhà gái cho vợ chồng 5 mẫu ruộng và 100 bạc mặt. Và cha mẹ nhà giai cho vợ chồng một cái nhà riêng, 10 mẫu ruộng và 300 trăm bạc mặt cho vợ chồng làm vốn riêng.

Những con số ấy hình như làm cho người ta bấy giờ đều hể hả. Người ta quay ra ăn no, chén say, và câu chuyện cũng tan dần. Cho đến chiều thì tiếng người cũng đã ngớt, trong nhà chỉ còn thưa thớt một ít người, chốc nữa dự lễ đưa dâu.

Tôi không hiểu sao người ta đã khéo lựa cái giờ đưa dâu vào cái giờ mặt trời chưa lặn hẳn và đêm cũng còn chưa tối hẳn, cái giờ mà hình như những vật, những hình bóng dị thường sắp xuất hiện.

Thế là người bạn mà tôi đã yêu mến như một người tình nhân đã lấy vợ rồi. Không biết có nên tuyên bố rằng "tôi đã mất chàng" hay là "chàng đã mất tôi". Vì rằng, sự lấy vợ ở trong đời một người, là một việc tối quan hệ, một việc đổi thay lớn. Người xấu sẽ tốt ra và người xấu sẽ tốt lại. Người cao thượng sẽ trở lên bần tiện, và người bần tiện – ôi hạnh phúc ! – sẽ trở nên cao thượng ! Có thể như thế được không ? Sao lại không có thể như thế được. Cưới vợ, nếu đó là sự cưới tình yêu, tình yêu sẽ làm chủ người bạn của ngài. Tình yêu sẽ làm chủ tất cả. Nó sẽ xây một nhà vàng có bốn bức vách, có bốn bức cửa song, và giam bạn ngài ở trong đó. Ấy là cái lúc ngài nên xử ra một người biết tâm lý. Tốt nhất là ngài nên xa bạn, xa dần dần, xa mỗi ngày một tý, nhạt dần dần, nhạt mỗi ngày một tý, cho đến lúc nhạt hẳn, xa hẳn, mất hẳn. Ngài nên dè chừng là có lúc sẽ tới đó và không nên hận lòng bằng một chút tiếc thương. Nhất là ngài không nên đến lượn vượn quanh cái lồng son đã nhốt bạn. Vì :

Nào hay để lạnh lòng son thiếp

Tình mải vui cảnh đẹp trời xa…. 

Một là con chim kia, thấy cái hình ảnh của rừng xa đồng rộng mà phá lồng vỗ cánh bay theo, hai là ông sẽ bị nghi oan: người ta chẳng ngại gì mà không vu cho ông là có cái ý rủ rê. Từ đó, nếu người bạn của ông đâm ra thơ thẩn, đâm ra vơ vẩn, lại hay đi sớm về khuya, người ta sẽ đổ trăm tội lên đầu ông. Ông là người rủ rê, ông là người cám dỗ, ông là người… trong văn chương của người đàn bà Việt Nam chẳng thiếu gì tiếng để tặng ông. Vậy trong việc xử sự hằng ngày, cũng như trong việc kinh bang tế thế: Đề phòng trước vẫn là một điều hay. Tốt nhất là ông nên biết ý mà tránh xa. Và ông không nên khờ khạo mà trách tình yêu là ích kỷ, vì thưa ông, có tình yêu nào mà lại không ích kỷ? Ích kỷ là một điều kiện thứ nhất để sung sướng. Mà sự kết liên, sự hòa hợp của hai linh hồn, hai thể chất là để tìm hạnh phúc. Có ai đi trách một gia đình mới mẻ kia lại đầy dẫy, lại chứa chan hạnh phúc? Vậy ông nên cố yên tâm, coi như là mình đã đánh mất đi một người bạn, và khi đánh mất một cái gì, kẻ đại ngu mới suýt soa, mới tiếc hối, mới đâm ra ngơ ngẩn… Tôi có người bạn mỗi lần mất một cái bút máy, một cái đồng hồ, hay là một vật vô giá trị đến đâu, cũng bỏ mất ba ngày trời: ăn không biết mùi thịt, ngủ không thèm kê gối. Người ấy chỉ có thể là một người dại mà thôi. Nếu tôi là người kia thì tôi đã đau khổ và không chừng đâm ra "dại người" nữa, vì đời tôi đã biết bao nhiêu lần mất bạn. Mỗi khi có một cái thiếp mời, thì quen mồm, lại nói: "Đây lại một ông bạn chết nữa. Biết phúng cái gì bây giờ ?"

Mà trời ôi! Tôi đã nhận biết bao nhiêu thiếp mời, trong cái khoảnh khắc là gần nửa đời người. Người bạn cuối cùng đã gửi tới cho tôi cái thiếp mời, có cái nhã ý biên vào một góc thiếp : "Xin miễn cho đồ mừng". Người ấy thật quả là kẻ đã biết người biết của, hiểu người hiểu ta, mới thốt ra được một câu làm nhẹ bỗng cả tâm hồn. Vì thật khó lựa được một vật xứng hợp, khi – trời ôi ! – người ta chỉ thấy trong các dịp vui của bạn, cái buồn của mình. Tôi có nên kể ra đây một mẩu chuyện cỏn con, nhưng chắc nó sẽ chẳng làm hài lòng những vị tân lang và tân giai nhân. Tôi có một người bạn nhỏ, một người bạn gái thường ngày hiền lành như bụt, nhưng hôm ấy, trong bữa tiệc cưới một người bạn, nàng đã uống nhiều rượu quá. Nàng đã say đến cái độ quên mình là một người con gái. Trước mặt mọi người, nàng ôm lấy người bạn sắp chết – (theo nghĩa họ là lấy chồng) mà khóc nức nở, và quay lại trỏ... tân lang mà nói : "Anh là một người tàn nhẫn ! Anh đã cướp của chúng tôi một người bạn!" Vẫn biết rằng, rượu là kẻ chính phạm trong cái cử chỉ ấy. Nhưng cái tấn bi hài kịch ấy làm cho người ta ngẫm nghĩ hơn là buồn cười. Ai có trách người bạn nhỏ ấy, thì người bạn ấy sẽ nói: "Thưa ông, tôi say... ". Nhưng ta há chẳng nghe cái chuyện một kẻ tục phàm, trong cơn say rượu lại làm nẩy được ở trên cung đàn, những điệu mầu nhiệm lạnh người. Vậy thì trong cái lời nói của cô bạn say, tôi cũng thấy ẩn chứa một sự thật. Nhưng một đám cưới có bao giờ cũng là một dịp buồn không?

Tôi không tin hẳn như thế: nếu đám cưới cuối cùng mà tôi dự xem, là một cuộc tiễn đưa qua bên kia thế giới, thì đám cưới thứ nhất, với tôi, là một sự vui mừng. Tôi tưởng cần phải cắt nghĩa về sự cách biệt ấy, và đó không phải là một điều khó giải. Theo sự nhận xét của tôi, thì ngày xưa, người ta lấy nhau nhưng mà không yêu nhau. Cho nên một người bạn cưới vợ, là một dịp cho mình vui sướng. Và người ta không hề có cái nạn mất bạn. Trái lại một khi bạn đã có "nhà riêng" thì ta lại cho đó là một dịp rất tiện cho sự tới lui. Và sự tới lui có vẻ thân mật hơn ngày trước. Được như thế là tại ngày xưa, cưới chỉ là một bổn phận không phải đối với mình, mà là đối với tổ tiên. Người ta chỉ có cái sứ mệnh là tiếp tục dòng dõi. Người ta không ghen với hạnh phúc, vì thực ra hạnh phúc không có, hay là hạnh phúc không ở sự hòa hợp của hai tâm hồn, mà ở sự con cái. Nhưng bây giờ thì cuộc đời đã đổi thay, cũng đổi thay tất cả những quan niệm về nhân sinh. Vì những cặp vợ chồng đời nay họ yêu nhau – hay ít ra là họ tưởng như thế, – cho nên ai đả động đến cái tình yêu, đến cái hạnh phúc ích kỷ của họ, kẻ ấy sẽ bị coi bằng một con mắt không nhân nhượng. Ta hãy trông những cặp vợ chồng "tân thời" kia dạo quanh hồ Hoàn Kiếm, hoặc mới cưới hoặc cưới đã lâu, tay trên tay dưới, họ đi cạnh nhau, khít nhau, giữ lấy nhau và tưởng như hạnh phúc, tình yêu có thể trốn thoát khỏi mình. Có lẽ ngay cái đêm thứ nhất trong đời công cộng của hai người, một cơn bão táp đã đến xáo lộn những làn chăn gối và biết bao sự bẩn thỉu xấu xa – mà họ đã che giấu – vì điều quan trọng là họ phải làm ra mặt "yêu nhau", để tỏ cho những ông "bồ côi bồ cút" biết rằng: "Thèm thuồng đi! Ước mong đi! Chúng tôi là những người sung sướng! Một ngày kia, hãy như chúng tôi!".

Trong đời tôi, tôi đã mất nhiều người bạn. Một khi họ có vợ rồi, họ ra mặt làm sang với tôi. Nhưng cũng có người như Mượn, thì sự lấy vợ không thể làm cho bạn tôi đổi thay lòng dạ. Anh càng ngày càng thân với tôi thêm. Trong một bức thư anh viết cho tôi, sau lúc lấy vợ được vài tháng, có câu: "Mượn không thể sống một ngày mà không tơ tưởng tới người bạn xa, ở sau rặng núi... ". Trời ôi, sao mà quý báu thế! Cái thời mà tình bạn đặt trên hết mọi sự, cái thời mà người ta lội qua không biết bao nhiêu sông, trèo qua không biết bao nhiêu núi để tới thăm một người bạn mà không thể gặp, đành để lại một cái thiếp có mấy câu thơ! À cái thời nhàn hạ ấy cao sang! Giá cái thời ấy cứ kéo mãi ra! Nhưng rồi đến lượt tôi, tôi đã cưới vợ. Không biết những sự thay đổi nào đã đến trong tâm hồn tôi, và sự thay đổi ấy có quyết định  được đời tôi không ? Tôi chỉ nhớ rằng : tôi với Mượn tuy suýt soát tuổi nhau, mà tôi cưới vợ sau Mượn đến 7 năm. Không biết những quan niệm của chúng tôi có khác biệt nhau không ? Đó là những điều tôi cần nói lại đây, trong cái "tiểu thuyết" này của đời tôi: tôi chỉ có biết chép mà thôi, và sẽ không nói thêm một điều gì.

Tôi chỉ nhớ trước ngày cưới của tôi ba điều : 1/ Tôi đã vui sướng, 2/ Tôi đã chạy ngược chạy xuôi để mượn cái áo gấm, 3/ Tôi đã tập lạy. Ba điều ấy, trừ điều thứ nhất, chả làm cho tôi vui sướng chút nào! Hai điều sau, nhất là điều thứ ba, là cả một vấn đề. Kể cứ thành thực và thật thà chép lại đây, không phải là không có chỗ lý thú.

Trước hết, tôi cần phải nói một điều này là khi tôi cưới vợ thì thầy mẹ tôi đã mất hết cả rồi. Như vậy nghĩa là trong việc hôn nhân của tôi đã không thể nào có sự cưỡng ép được. Tôi đã tìm lấy vợ tôi, và tôi chỉ đề nghị với anh cả tôi, là việc thành. Nhưng như thế, không phải là không có sự trở ngại gì ư? Nếu mọi sự đều ở trong tay tôi, ở trong quyền hạn tôi, thì tôi đã muốn rằng cái đám cưới ấy không bao giờ có. Và tôi đã muốn rằng vợ tôi về thẳng nhà tôi mà không có điều kiện gì. Trời ôi! Giá ở đời việc gì cũng dễ dàng trôi chảy như thế! Nhưng người đời, trái lại, không có một dịp nào là không làm cho cuộc đời trở nên phiền toái. Thật ra bên nhà vợ tôi, họ không thách một điều gì trên sức tôi, nhất là họ không thách tiền bạc gì hơn hết. Họ chỉ thách rằng: dầu tôi là người nào (nghĩa là con Trời con Phật) nữa, thì hôm cưới tôi cũng phải có mặt và mặc áo gấm phủ áo thụng xanh, và điều này mới rắc rối: tôi cũng phải lạy 24 lạy như bất kỳ một chú rể nào ở trần gian. Mặc dầu anh tôi đã viện đủ lý lẽ : nào "chú em" là một người theo tây học, nào "chú em" từ bé đều được chước lạy, và "chú em" là một nhà báo. Vâng, toàn là những cớ hay ho cả, nhưng không thể nào làm xiêu lòng ông nhạc tôi được. Một là tôi phải lạy đủ 24 lạy, hai là tôi mất vợ. Cố nhiên là tôi chẳng bao giờ để mất vợ. Nhưng cái vấn đề này thật là đã làm cho tôi tự trong thâm tâm, phải nhục nhằn, phải đau đớn... Tôi không có ý gì nghịch lại "cổ truyền" nhưng thú thật rằng: bấy giờ tôi thấy trong cái sự "lên vai xuống gối" có cả một sự quỵ lụy, một sự hàng phục, một sự đê hạ mà tâm hồn tôi không đời nào chịu được, dầu người tôi lạy là một đấng thiêng liêng nào, dầu cái cớ khiến tôi lạy, là một cớ đáng tôn thờ đến bậc nào!

Nhưng tôi đã trót hàng phục trước cổ truyền rồi, tôi không muốn tìm những lẽ chính đáng để biện hộ cho mình. Cái điều quan trọng đối với tôi bây giờ là phải lạy, và lạy thế nào cho đúng phép. – Vì lạy không phải là một hình thức cần phải tuân hành cho hợp đúng, mà lạy còn là một nghệ thuật nữa. Xưa nay, từ bé đến lớn, tôi là một "đứa cứng", cứng với các "ngài trên đầu trên cổ" như thầy tôi thường nói. Mỗi lần có một lễ kỵ lễ chạp nào, thì tôi tìm cách trốn lạy. Hay là có lạy nửa lạy đối với tôi chỉ là một trò chơi mà thôi, lạy, đối với tôi, chưa bao giờ là một hình thức thiêng liêng. Độc giả cho phép tôi kể lại đây vài câu chuyện "bất kính" để tỏ rằng : từ nhỏ đối với sự lạy, tôi vốn không tỏ một lòng tôn trọng.

Ngày còn nhỏ, tôi có hai người anh, nhưng thực ra đối với tôi chỉ là hai người bạn; chúng tôi xem nhau như là những người cùng lứa cả. Đùa, đùa, chúng tôi có một việc đùa. Mà việc ấy hình như không có một giới hạn nào! Hai anh tôi: một người tên là Song, một người tên là Lạc. Nhưng chúng tôi chỉ gọi nhau bằng tên tục mà chúng tôi đã đặt cho nhau. Lạc thì hiền lành, thật thà, vô tội, không hề giết một con muỗi. Còn Song thì "cú trán". Cái danh từ ấy ở miền tôi mới tả hết được cái tính của Song, danh từ nghĩa gần như là : ác, dữ, độc, hay làm hại người khác. Song chỉ chuyên làm cho tôi và nhất là Lạc bị phạt, có khi bị đòn nữa. Mà tôi nhớ rằng: trong những ngày kỵ ngày chạp Song mới tìm đủ cách làm cho chúng tôi bị rầy la, và bị thầy tôi đánh. Chính cái lúc nghiêm trang nhất trong cuộc lễ, cái lúc khăn đen áo dài, chỉnh tề đứng lại trước bàn thờ, thì Song chạy vào phía trong bàn thờ, nhìn thẳng vào mặt hai chúng tôi, và với những cái ngón tay "dèo đeo" của anh, anh làm đủ trò – trò người và kể cả trò khỉ – khiến cho một khi chúng tôi đã trót nhìn vào đấy, thì không thể nào nín được cười. Hoặc khi chúng tôi vừa sụp nằm xuống, chính là lúc Song liệng qua, và rất lanh lẹn rất tài tình, Song đưa một ngón tay gãi vào dưới lòng chân của chúng tôi. Trời ôi! Ai mà có thể cầm giữ được! Những lúc như thế, chúng tôi đâm ra cười, giữa sự nghiêm trang của lễ kỵ, chúng tôi cười như điên. Tiếng cười ấy làm cho mọi người, họ hàng làng nước, nhìn chúng tôi một cách ngạc nhiên, và thầy tôi rất xấu hổ vì cái sự mất dạy của chúng tôi. Thầy tôi là một ông nhà nho của Khổng Mạnh cho nên đối với sự "suồng sã" đó, ông rất bất bình. Ông thường nói: "Cái đồ bất kính với ông bà ấy, thì làm nên trò trống gì!". Quả vậy, lời nói ấy sao mà đúng thế! Tôi thì viết láo viết lếu (Trời ôi! cái nghề!). Anh Lạc tôi thì làm nghề thầu khoán, mà anh Song tôi cũng chỉ làm đến thầu khoán mà thôi! Có lẽ không phải tại mả nhà chúng tôi không "phát" mà tại ông bà tổ tiên chúng tôi muốn nghiêm phạt sự bất kính của chúng tôi đối với các ngài. Những chuyện lặt vặt ấy chép lại đây chỉ để tỏ rằng: cái lạy đối với tôi chả bao giờ có thể là một điều nghiêm trang, thiêng liêng cả. Và từ khi tôi đã có dịp rời khỏi quê nhà, và mỗi khi có trở về nữa, tôi cũng hết sức tìm cách để tránh lạy. Thực ra, những người khác, cũng sẵn lòng "chước" cho tôi cái lễ nghi phiền phức ấy.

– Thôi, chú nó mặc tây, miễn cho chú !

– Thôi để chú vái ba vái cũng được.

Cũng nhờ thế, đã lâu lắm, lạy đối với tôi chỉ còn là "chắp tay vái ba vái" nữa mà thôi. Xin ký nhận một điều này là tôi đã thực hành cái sự cải cách này trước cái dụ đức Bảo Đại khi ngài lâm chính. Vậy thì, một người đã cải cách cái hình thức ấy, đến nay lại trở lại với nó thì nghĩ có khổ tâm không? Nếu không, thì...

Tôi đã nghĩ kỹ, tôi đã cân nhắc. Những đêm dài tôi chỉ thao thức về cái việc "lạy" ấy. Cuối cùng tôi đã quyết định: tôi sẽ lạy, và tôi có thể nào làm khác được ư? Tôi bèn nhờ người đi mượn hộ một cái áo thụng xanh. Hai tuần, trước ngày cưới, và trước mặt các anh tôi, các chị tôi, và suốt ngày tôi phải "tập luyện" lại cái món thể thao cổ truyền ấy. Luôn luôn, tôi hỏi các chị tôi :

– Thế này đã được chưa ?

– Còn thế nào ấy !

– Thế nào nữa mới được. Trời ôi !

Thú thật, tập rượt đến đâu, không bao giờ tôi có thể làm vừa lòng được những ngài "ngự sử" của tôi. Một là tại những lời đàn hạch của họ quá nghiêm khắc. Một là tôi chỉ là một người rất vụng về, xưa nay chưa làm một điều gì được gọn gàng chu đáo cả. Hai điều ấy, cũng có chỗ đúng cả. Làm cho tươm tất 24 cái lễ, – tôi biết – không phải là một việc dễ dàng gì!

Cho nên tôi cứ tưởng chừng như ngày hôm ấy sẽ có hàng trăm con mắt đổ dồn vào chú rể đã vụng về lại càng vụng về hơn nữa, và tôi sẽ nghe có tiếng xì xào xung quanh tôi, có thể làm cho tôi ngượng và để rơi cả cái khăn đội ở trên đầu :

– Này xem chú rể.

– Chú rể có vẻ ngượng nghịu làm sao chúng mày hỉ ?

– Nầy, không khéo vướng phải đũng quần mà ngã bây giờ.

– Gớm, chỉ mới mấy lạy mà đã đổ mồ hôi mồ kê ra cả. Trông thảm quá.

Một vài tiếng sẽ bênh vực tôi :

– Người ta ăn học tây. Từ bé có lẽ người ta...

Một tiếng khác lại cãi lại :

– Người ta là ông trời con đi nữa, người ta cung phải biết lạy...

– Trừ phi là người ta không muốn lấy vợ.

– Muốn được vợ thì phải chịu khó chứ !

Tôi tưởng chừng nghe những tiếng xì xào như thế, và khi nghĩ đến cái dư luận nghiêm khắc sau này mà tôi đâm lo. Tôi biết những người ở phe nhà giai sẽ hết sức bao dung cho tôi. Nhưng còn những ông cụ râu dài ở bên nhà gái, chắc đối với tôi, lời đàn hạch của các ngài sẽ nghiêm khắc biết chừng nào.

Cũng may mà...

Về cái áo thụng xanh, người ta không phải khó khăn gì mà mới kiếm ra được. Mà tất cả việc gì cũng thế, không có một sự trở ngại nào đáng kể. Bên nhà vợ, tuy rằng chưa biết gia thế tôi, cũng không muốn làm khó dễ với tôi. Nếu có một sự trở ngại là ở trong lòng tôi vậy: tôi tưởng như mình là hạng người, không thể nhất đán mà trở nên một ông rể như trăm nghìn ông rể khác, một ông rể ngoan ngoãn, thực hành đúng những lời trong cuốn sách của cổ truyền. Mà trước hết, sao mình lại phải là một chú rể. Xưa kia tôi thường ao ước, thường mơ mộng, thường tha thiết một điều là: ở mãi như thế, trọn đời, như một chàng tráng sĩ ở Liêu Đông, một mình một ngựa rông bốn phương. Nơi nào có hoa nở, có trăng lên, có rượu uống, có gái đẹp, có đàn hay, thì sẽ có mình ở đó! Đời sẽ thích thảng biết chừng nào! Ung dung tự tại biết chừng nào! Nhưng  ai có qua những phút tự do, – một thứ tự do không giới hạn, – sẽ thấy tự do không còn quý hóa một chút nào! Ai đã ở giữa ngàn sâu và bể rộng một cách ngao ngán đến kinh sợ. Ta muốn trốn trước cái quãng dài rộng trước mắt ta bao trùm lấy ta. Những lúc ấy, ai lại không muốn rẽ núp vào một chỗ để cái nhân giới giang hồ của mình phải chắn ngang bởi những bức vách. Hơn thế nữa, tôi muốn rằng: con ngựa của tôi cột vào một bụi tre đầu xóm, tháng ngày ăn rào rạo những bụi cỏ hiền lành vô tội, những bụi cỏ không ham say, không tha thiết. Tôi cũng cầu cho tôi một điều tương tự như thế: người ta sẽ buộc đôi chân tôi, với một dây chỉ hồng... Dây mỏng manh, nhưng sẽ không bao giờ đứt, vì chân tôi không hề cựa cậy nữa. Ai đã qua những giây phút, những ngày tháng tự do và lang bạt như tôi, một chiều kia sẽ có, nao nức ở trong lòng, một mối cảm vô cùng tha thiết, chẳng hạn, người ta thấy quãng đường mênh mông ở trước mắt chỉ có thể làm ngao ngán mà thôi, và người ta muốn triền miên trong những hạnh phúc của một gia đình, hạnh phúc có lẽ ích kỷ, nhưng mà hạnh phúc rõ ràng chắc chắn... Trời ôi! Những ngày tháng đuổi theo những bóng đẹp, những mộng bất thành, ngày tháng ấy tôi đã phí hoang đi, mà nào có ngắt hái được cái gì.

... Mưa chi, mưa mãi

Buồn hết nửa đời xuân

Mộng vàng không kịp hái ?

Thực ra sao lại không ? Có lẽ tôi không hái được một quả nào, một quả thực nào, nhưng mà bây giờ, tôi thấy lại ở trên đầu lưỡi, một cái mùi vị chua chát... chỉ có cái mùi vị ấy là thực. Vậy thì khi có cái ý muốn nghiêng cái thân thế mình trên một thứ hạnh phúc dễ dàng, lịm mình trên cái êm dịu của gối bông, tự xây dựng một gia đình nghĩa là một cái ổ trong những ngày phong sương, thì đó chỉ là một điều dĩ nhiên mà thôi! Mấy ai đã thấy cái thú được nằm yên để trôi theo cái dòng "dĩ nhiên" mà không hề cưỡng lại một tý nào!

Vậy thì tôi đã quyết lấy vợ... Dầu là mua bằng cái giá rất đắt, tôi cũng chẳng từ. Huống hồ ở đây không có sự thách hỏi nào đáng sợ cả! Người ta chỉ muốn rằng: tôi là một chú rể, phải có hình thức một chú rể mà thôi... Điều kiện trước tiên là tôi phải khoác vào mình cái áo rộng xanh và như cổ tập đã muốn, tôi phải lạy đúng 24 lạy... Điều ấy, tôi đã làm. Mà làm thế nào, tưởng thuật lại đây, cũng là một điều thú vị. Nguyên quê vợ tôi cách xa quê tôi đến mấy tỉnh. Mà điều này mới ngoắt nghéo! Tôi muốn rằng đám cưới tôi là một đám cưới "tân thời", một đám cưới toàn ô-tô... mà điều này mới ngoắt nghéo: nếu thuê ô-tô từ quê tôi mà đi, thì thật là một sự tốn kém lớn mà "cái ngân sách đám cưới" của tôi không kham nổi. Tôi phải đi tàu vào một thành phố gần quê vợ tôi, rồi từ đấy, chúng tôi mới thuê ô-tô. Muốn cho người ta có cảm tưởng rằng đây là một đám cưới bằng ô-tô, thì ít nhất chúng tôi phải thuê đến năm chiếc. Nhưng do một sự trù tính sai lầm của mấy anh tôi, cái đám cưới từ quê ra đi, chỉ không hơn 10 người mà khốn nỗi không có một người đàn bà nào. Sở dĩ như thế, là tại nhà tôi nhiều đàn bà quá, cho người này đi thì sợ rằng mích lòng người kia. Mà những người đàn bà ấy là những chị dâu tôi, nghĩa là vào một hàng lứa với nhau cả. Nhưng khi vào đến đây, chúng tôi mới sực nhớ ra rằng: không có đàn bà thì đám cưới sẽ bất thành, và sẽ là một điều "khó coi" hết sức... Nhất là khi chúng tôi sực nhớ ra rằng, bên nhà gái có ngỏ ý cho biết là hôm ấy nhà gái sẽ làm hai mâm cỗ rõ ràng: một bên là đàn ông còn một bên là đàn bà. Bên đàn ông, được rồi: chúng tôi đã có thừa lắm! Nhưng còn bên đàn bà, thì biết tính sao đây? Sẽ lấy "đàn bà" đâu cho bên nhà gái họ "tiếp"? Thật là nguy nan... Một người bàn rằng nên ra Huế  "lấy " vào ít người, nhưng như thế là phải đánh "điện" khất nhà gái thêm vài ngày nữa mà hai ngày sau là hai ngày rất xấu. Tôi lại được cái rất dị đoan. Không bao giờ tôi lại chịu để hoãn lại. Nếu sau này, vợ chồng tôi đâm ra cãi cọ nhau mà đập hết bát đĩa, thì ai sẽ là người đền cho tôi? Cho nên dầu thế nào thì đám cưới cũng phải cử hành trong ngày đêm ấy. Cái áo thụng xanh, tôi đã mượn được rồi. Nhưng còn những người đàn bà, những cô thiếu nữ xinh như mộng, là phấn hương, là trang sức, là hoa hột của đám cưới thì ta lại không hề thấy? Ai là người sẽ không tủi cho điều ấy? Vợ tôi, sau này, biết đâu lại chẳng vin vào cái cớ rất chính đáng ấy, mà làm khó dễ với tôi, mà xin ly dị với tôi cũng nên. Tôi là người lo sợ thứ nhất. Tôi phải giục anh hai tôi :

– Anh hai, quen ai ở đây kiếm hộ mấy người?

– Chú em muốn tôi kiếm ai bây giờ, ở đây tôi cũng lạ lùng như chú...

– Còn anh ba?

– Đàn bà! thú thật tôi chả quen ai cả !

– Còn đàn ông?

– Thì nhiều lắm…

– Được rồi!

– Nhưng đàn ông, mình đã có thừa rồi.

– Chú ba đến ngớ ngẩn... Hễ quen đàn ông là quen đàn bà... Mình nhờ vợ con người ta đi hộ cũng được chứ!

– À phải đấy! Này ở đây, tôi quen một ông Tham lục lộ, một ông Giáo, một ông Thông ga...

– Được rồi! Chú đi ngay cho, muốn mượn vợ thì phải mượn cả chồng, như thế mới tiện.

Tôi theo anh ba tôi, đi tới những nhà ấy. Nhưng trong ba người ấy thì một người đã mất vợ là ông Tham lục lộ, ông Thông ga nhất định đi một mình mà thôi và cho như thế là đủ lắm rồi (làm sao họ hiểu được cái bản tâm của chúng tôi). Chỉ có hai vợ chồng nhà giáo là nguyên vẹn mà thôi. Và đến phút cuối cùng, chúng tôi còn bắt thêm được một cặp vợ chồng một ông thầu khoán nữa. Bà vợ được cái bẻm mép. Anh ba vỗ vai tôi mà nói :

– Chú em đừng lo. Có bà này thế nào cũng nổi đình đám.

Nhưng theo tôi, đàn bà mà làm nổi đình đám thì cũng là một điều đáng lo. Đến nay, tôi nghĩ tới điều ấy mà không sao khỏi buồn cười: Trong đám cưới của tôi chỉ có hai người đàn bà mà một người thì rất "bẻm mép" còn một người thì lành như một hòn đất. Dầu sao đó cũng vẫn là một điều rất tủi nhục cho tôi: trong cái đám cưới cả một đời người của tôi, lại không có lấy một người thiếu nữ, biểu dương sự trẻ trung và son đẹp.

Cố nhiên là hai người đàn bà mà chúng tôi đã mượn được đó, ngồi chung một xe. Bà thầu khoán, tinh ranh, biết là mình đang đóng vai gì, còn cái nhà bà giáo, thì trông bộ ngơ ngác, không hiểu sao mình lại có thể ở đấy. Thật là buồn cười mà cũng thật là đáng thương. Buồn cười cho những người khác, mà đáng thương cho tôi. Cũng may, bọn đàn ông chúng tôi cũng đã bù vớt được những sự kém cỏi về đàn bà. Những anh tôi, hôm ấy, đã tỏ rằng mình là những người sành thạo có quyền nói "Đời ta, đã được dự biết bao đám cưới sang trọng". 

Đã tìm được người ấy rồi, chúng tôi không còn phải đợi gì nữa để cử hành lễ cưới. Chúng tôi thuê 5 chiếc ô-tô. Bốn chiếc dành cho bốn người đàn ông, còn một cái dành cho người đàn bà ấy mà chúng tôi đã "tóm" được. Đến bây giờ tôi vẫn không làm sao có thể quên được cái vẻ mặt ngơ ngác và bơ vơ của người đàn bà ấy, giữa cái đám cưới của chúng tôi. Có lẽ bà ta cũng không hiểu cái vai mình phải đóng là vai gì. Có một điều này là rất nguy cho chúng tôi mà cũng rất bỡ ngỡ cho nhà gái. Nguyên bên nhà gái họ tưởng rằng: đám cưới chúng tôi một nửa là đàn ông và một nửa là đàn bà, cho nên họ bày ra hai mâm cỗ rõ ràng mà họ gọi là "hai cái bàn độc" (theo kiểu các chú).[o] Một cái bàn độc dành cho đàn ông, và một cái bàn độc dành cho đàn bà. Nhưng mà tôi chưa muốn nói tới cái ấy vội. Những cái xe hơi cưới, lẽ ra cứ vào thẳng bên nhà gái. Đằng này, theo luật thành phố sở tại – những xe hơi thuê, chỉ trừ một cái của nhà – đều phải bị ngừng lại ở ngoài thành phố. Cũng may, điều ấy chúng tôi biết trước, nên chúng tôi đã đánh điện để thuê một cái khách sạn nho nhỏ đặng làm nhà cưới. Nói rằng "nhà cưới" thì không đúng, vì chúng tôi chỉ coi đó là một cái trạm để dừng chân và sửa soạn trước khi tới nhà gái. Ở đấy, chú rể, phải cởi âu phục mà khoác lễ phục đám cưới nghĩa là khoác vào mình một cái áo gấm, một cái quần lụa, đội lên đầu cái khăn đóng chữ "nhơn". Cái chữ "nhơn" ở trên đầu như nhắc cho tôi biết rằng: "Anh là một người, một người lớn, hãy coi chừng!" Mà thật vậy, trong tâm hồn tôi, từ phút này có một sự đảo lộn. Tôi  thấy rằng, cái "cánh cửa niên thiếu" đã đóng ập lại sau lưng, tôi đã bước vào một thế giới khác. Mấy anh tôi ngắm nghía tôi và nói một câu nửa đùa nửa thực: "Chú em đừng có lờn khơn nhá. Chú nên nhớ hôm nay chú đã là một người chồng. Và ngày rày năm sau chú sẽ là một người cha". Tôi cũng biết rằng: trong cái vẻ mặt, trong cái giọng nói ấy, có một cái gì rất nghiêm trọng mà tôi không thể đem ra đùa được. Nhưng khi tôi nghĩ rằng: những người vừa lên giọng đàn anh mà khuyên tôi đấy, xưa kia cũng chỉ là những đứa trẻ tinh nghịch hay đùa gãi vào lòng chân tôi trong lúc tôi lạy… thì tự nhiên, tôi thấy xung quanh tôi, trước mặt tôi, không còn có cái gì là nghiêm trang là đứng đắn nữa. Tôi sợ cái ý tưởng ấy cứ ám ảnh tôi hoài thì thật là nguy. Trong lúc ở trong một cái không khí trầm hương nghi ngút, giữa một cuộc lễ nghiêm trọng, giữa những vẻ mặt đứng đắn mà cái ý nghĩ nguy hại ấy lại cứ đến ở trong tôi. Bỗng dưng giữ lúc mọi người đều chú mục vào cả tôi, mà tôi nghĩ ngay đến những thằng bé tinh nghịch trong thời thơ ấu rồi tôi phì cười, thì không biết những ông cụ râu tuyết ở bên nhà gái sẽ đối với tôi thế nào. Việc ấy mà xẩy ra, thiên hạ sẽ nhìn tôi bằng con mắt nào? Và không chừng, tôi có thể mất vợ là khác nữa. Cũng may "ý nghĩ" tinh nghịch ấy chẳng dám đến trong giờ phút nghiêm trọng này. Tôi đã đội cái khăn chữ "nhơn" trên đầu, một cách rất đứng đắn. Nói một cách khác, tôi là một người rể hoàn toàn, người ta không thể trách vào đâu được. Tôi đã làm 24 lạy với tất cả sự thành thạo, sự khéo léo của một chú rể An Nam. Trong khi lạy, tôi lên gối, xuống gối, tôi nâng hai tay lên trán hay chắp tay xuống ngực một cách gọn gàng, chăm chỉ, khiến cho trong đám đông có tiêng xì xào khen tôi "Kể thì cũng lành nghề lắm! Chắc gã ấy cũng đã luyện tập riết mới được như thế!..." Mà chính tôi cũng phải ngạc nhiên về tôi. Thật tôi không ngờ tôi có thể là một chú rể. Mà lại là một chú rể "cừ"  nữa! – 24 lễ làm xong, tôi thấy nhẹ hẳn người đi. Và cho đó là món "cheo" nặng nhất trong đời tôi đã trả xong. Anh Hai tôi phải rỉ vào tai tôi, để tỏ lòng cảm phục: "Kể chú em còn khá hơn tôi ngày xưa nhiều lắm". Sau này bà nhạc tôi, cũng cứ tấm tắc khen tôi mãi : "Chà con không biết đấy, chứ lúc bấy giờ má sợ lắm, má chỉ sợ con lạy không quen, vướng phải đũng quần mà ngã…"

Té ra, tôi đã làm xong 24 lạy, người ta coi như là tôi đã làm được một sự phi thường. Nhưng thực ra, đám cưới không phải chỉ có thế. Sau cuộc lễ, còn có "cỗ" nữa. Như trên kia đã nói, đám cưới của tôi chỉ có một người đàn bà thôi. Nhưng nhà gái không ngờ như thế họ "đề" ít ra cũng có năm bảy thiếu phụ hay thiếu nữ, trẻ trung, xinh đẹp, nghĩa là những độc giả xứng đáng với cuốn thơ kia là các cô dâu. Và chung quanh cô dâu là những ngôi sao hầu, cũng không kém phần rực rỡ… Có ngờ đâu, cái rực rỡ của những vì sao như lòe chiếu ở chỗ không người. Tôi quên làm sao được cái cảm giác lạnh lùng. Khi tôi ngoảnh trông về mâm cỗ đàn bà, nếu chỉ có những cô con gái thì chính lại là ở phe nhà gái. Rồi tôi nhìn cái đầu tóc hoa râm của người đàn bà kia đại diện cho phe phụ nữ nhà giai, thì tôi không khỏi "tủi". Nhưng thực ra, người đàn bà ấy là một tay ăn nói "cự phách" trong nữ giới. Nếu đôi khi, tôi nghe những tiếng nói đanh thép trùm hết cả bữa cỗ, chính là tiếng nói của người đàn bà ấy. Tôi chỉ tiếc rằng: nước ta chưa có đàn bà làm nghị viên, để cho những người như thế, có thể trổ tài hùng biện. Vì rằng ở nước ta, nếu có một nền văn chương rất phong phú, ấy là cái nền văn chương của phụ nữ. Riêng nói về sự hùng biện thì hôm ấy, ở mâm cỗ đàn ông, cũng có nhiều người đã tỏ rằng mình là tay "cừ". Nhưng hoàn toàn là những người đã nói sau khi rượu vào. Vậy không biết rượu nói  hay người nói.

Anh Tú tôi là người nói đầu tiên. Anh thay mặt nhà giai kể lại cái lai lịch cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ. Có lẽ không giữ mình được ở trên cái dốc yên sĩ,[p] anh tôi đã khởi câu chuyện của mình, và nói rộng đến vấn đề hôn nhân ngày nay. Một diễn giả nữa thay nhà gái, nối lời anh tôi. Ông này, cũng không kém trôi chảy và biểu đồng về tất cả những ý kiến mới mẻ của anh tôi về việc hôn nhân. Mọi người ở đây, hôm nay hình như toàn là những kẻ muốn đổi mới cả. Duy có tôi là không hiểu sao, tôi vẫn đóng một bộ quốc phục nặng nề tàn nhẫn, vẫn giữ lấy cái cổ tục trong lúc mọi người đều theo mới. Thiếu một tý nữa, tôi đã đứng dậy và tưởng mình cũng là một diễn giả. Cũng may, tôi vẫn nhớ tôi là một chú rể, nghĩa là người phải chịu đựng tất cả những điều khó chịu, những sự phiền toái của cổ tục. Nếu không chịu như thế, thì có một cách là tôi đành để mất vợ. Hôm ấy, từ hôm ấy và đến suốt đời tôi còn phải đóng lên đầu chiếc "khăn chữ nhân".

Tôi không muốn thuật lại đây cái đêm đầu tiên của cuộc phối hợp, của cuộc đời công cộng. Cái đêm đã cho người ta những cảm giác vừa sỗ sàng, vừa gắn bó, những cảm giác vừa lả lơi, vừa nghiêm trọng, vừa rộn ràng, vừa bi thiết. Một thế giới cảm giác, mở ra trước tâm hồn ta. Đến nay tôi tưởng chừng như những cảm giác mãnh liệt ấy còn reo ở trong da thịt tôi, và cho tôi một cái dư vị xót xa, thèm tiếc: thèm tiếc một cõi thiên đường đã vỡ rồi:

Còn đâu những giờ nhung lụa

Tình ấm trong chăn

Mộng trùm lên gối

Rượu tân hôn không uống cũng say nồng!

Cái thú không phải là đã có một cảnh thiên đường, mà là được mất một cõi thiên đường, đã có một thiên đường ở trong dĩ vãng, ở trong duyên kiếp. Không còn gì làm cho ta thèm muốn hơn là khi theo làn khói thuốc xanh, hay là trong hớp café cuối cùng, ta đã tìm lại được cái dư vị của một cõi thiên đường, của những ngày hoan lạc mà ta đã được qua trong một kiếp này hay từ trong một kiếp trước. Vì rằng sự đau đớn đi qua bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu mạnh. Còn như sự sung sướng ở trong ký ức của ta bao giờ cũng hiện ra như một cái bóng xa mờ. Cho nên, những ngày giờ nhung lụa đầu tiên của tình ái có lẽ vừa qua trong đời ta, mà tưởng chừng như đã lâu lắm, làm cho ta dễ có cái cảm giác sảng khoái rằng: Ta đã có một tiền kiếp xa xôi. Mà cái hôm động phòng chẳng hạn, là một cái đêm của ta ở một kiếp nào giữa cái ánh sáng xanh dịu của tiên nga. Ôi! Những làn gối trắng tinh, không có một dấu vết, những nệm bông như muốn lún, lún thêm mãi dưới làn da thịt, một cái không khí thanh tân. Những cảm giác say sưa thú vị, một cảnh thiên đường. Đó không phải là những cái mà ta có thể tìm thấy hai lần. Cảnh thiên đường ấy, mỗi ngày rơi một mảnh, cho đến lúc vỡ tan tành. Tôi không dám nói xấu cuộc đời, nhưng tôi không thể giấu được sự thực. Sự thực là với đêm đầu tiên của cái cuộc đời công cộng của hai tâm hồn, người ta đã đi đến cái tuyệt đích của hạnh phúc. Hôm qua còn là sự tiến tới, sự lên cao, nhưng hôm nay là sự thụt lùi, sự xuống thấp. Hôm qua, người ta mở mắt ra trước những cảnh tượng mỗi phút mỗi thay đổi, người ta đi tới những miền xa lạ, nơi đợi chờ muôn cảm giác bất ngờ, hôm nay người ta đi xuống một cái dốc, và soát lại những cảnh đã cũ, đã quen mắt. Cái dốc ấy đưa người ta từ một "đỉnh mộng" đến cái "hố đời". Ở Âu Tây, người ta có quan niệm rất thiết thực và rất đầy đủ về hạnh phúc. Người ta ước ao được luôn luôn sống một cuộc đời sôi nổi, đầy nguy hiểm, và trong một lúc, có thể sống được 10 cuộc đời. Người ta muốn "nhân" cái bản lãnh lên mãi. Người ta muốn có muôn cánh tay để ôm ghì lấy cuộc nhân sinh, người ta muốn có muôn mắt để toát ra muôn luồng điện. Người ta ước ao một sự phong phú đến cực điểm. Người ta muốn giàu về tiền của, giàu về cảm giác, giàu về sự vui, và giàu về sự buồn, người ta muốn sự đau đớn ngang với sự thích khoái. Nói tóm lại, người ta uống cho đến hớp rượu cuối cùng, dầu hớp rượu ấy đã đưa lại cho người ta một mùi vị chua chát hay đắng cay. Người ta cầu sự vui, nhưng người ta cũng không sợ sự đau khổ. Người ta là hạng người thiết thực: người ta không mơ ước một cảnh thiên đường  xa xôi và huyền diệu ở ngoài cõi thế. Cảnh thiên đường của người ta là ở ngay trong cõi đời của mình, ở trong cái cõi này mà người ta có những sự đau khổ để làm đượm thêm những sự sung sướng của người ta. Không gì buồn chán bằng một thế giới chỉ có những ngày nào cũng giống ngày nào, quanh năm hay trọn kiếp người ta sống trong những sự đàn địch múa hát, sống trong sự huy hoàng, kiêu sa và không hề biết có sự thiếu thốn, sự lo âu, sự đau buồn. Đó chỉ là cảnh thiên đường của những người tàng tật đã mất hết những quan năng để hưởng thụ. Đó là một cuộc đời thiếu hụt, một cuộc đời bị giam, cầm, một cuộc đời bị cắt xén. Nhưng những người đầy sức khỏe ở tận phương Tây kia, những người muốn đập mạnh, muốn vươn xa, những người đầy khí lực, đầy ham muốn, chỉ ao ước một cõi rất giàu thịnh, một quả đất rất rộn ràng vang động muôn nghìn tiếng rạn nở, một quả đất âm thầm mà chan chứa những ham say, những điên cuồng. Họ là "người", cái giống người hoàn toàn đầy đủ. Cho nên hạnh phúc của họ là sự liên tiếp vô hồi của những ham muốn, những đê mê. Mục đích của sự sống, với họ, chỉ là sự sống mà thôi. Và sống tức là hưởng thụ, hưởng thụ cho cạn, cho hết, hưởng thụ cho đến tuyệt cùng. Và với họ, chỉ có những cảm giác là "thực" mà thôi!

Nhưng họ không phải là tất cả cái giống người đã rải rác khắp quả địa cầu. Hơn một nửa, than ôi! chỉ là hạng người đi ở đây mà mơ tưởng ở kia, chân ở quả địa cầu mà hồn gửi ở cung trăng. Hơn một nửa giống người sống giữa sự thực, đi bên cạnh cuộc đời, mà như bơi trong một giấc mộng. Hơn một nửa giống người đã đau ốm, đã tật tàng, không còn biết hưởng thụ, không biết thâu nhận những cảm giác, một giống người sợ sống, và thích lịm hồn trong mộng ảo hão huyền. Người ta đã tưởng tượng ra một cảnh thiên đường xa xôi, bất thành, để mơ ước. Người ta muốn thu hẹp cả cái sự thực sâu xa, mênh mông vào trong một giấc mơ xinh đẹp. Giữa hưởng thụ và mơ ước, người ta đã chọn sự mơ ước. Với hạng này, hạnh phúc chỉ ở ngoài cuộc đời ; càng lún sâu vào cuộc đời, người ta tưởng chừng như bị che lấp, bị giam cầm bởi cuộc đời, vì người ta quên rằng ở trong lòng cuộc đời cũng đã có đủ những vật liệu để xây dựng một cảnh thiên đường. Cái quan niệm sai lầm ấy, than ôi! đã làm thiệt mất gần một nửa cuộc đời của kẻ thư sinh này…

Xưa kia, tôi chỉ biết có một sự mơ ước. Và tôi tin rằng: cũng chỉ có thể có một cõi thiên đường là cái đêm đầu tiên của Tình của Mộng. Cõi thiên đường ấy, với tôi, không còn gì nữa, và từ ngày ấy, cuộc đời tôi đã xuống một dốc ác hại. Nhưng thực ra, tôi có mất nhiều như tôi tưởng thế không. Trước mắt tôi, tôi còn có trọn cả một cuộc đời, cả một cánh rừng hoang mênh mông cho tôi khai khẩn. Vâng, tôi sẽ khai khẩn cái cuộc đời của tôi. Bao giờ, với tôi cũng chỉ là một sự bắt đầu. Cả một thế giới cũ đã đóng lại. Nhưng một thế giới mới đã mở ra. Một cảnh thiên đường khác cũng đã lại hiện nữa.

Xưa kia là thiên đường của tuổi Mơ mộng. Bây giờ đã là thiên đường của cuộc đời. Không, mỗi tuổi, có một thú. Mỗi tuổi có một thiên đường. Péguy,[q] một nhà văn cận đại ở Pháp đã nói: "Tôi đã lập ra một đảng những người bốn mươi tuổi !".

Ừ nhỉ? Tại sao không? Ta lại không lập ra một đảng 30 tuổi. Bốn mươi tuổi mà người ta còn tưởng như ở giữa cái tuổi niên hoa. Thì sao ta đã muốn già rũ giữa cái tuổi ba mươi? Riêng tôi nghiệm thấy rằng: không một cái gì đã chết hẳn đi, mà không nẩy nở một cái gì khác. Tôi đã mất đi một "Chiếc cáng xanh", một bà mẹ, một đứa bé đầy mộng ảo là tôi. Cái hình ảnh của tôi ngày xưa, tôi đã mất cả một thế giới, cả một thời. Nhưng mà nào tôi đã mất hết. Hôm nay dừng lại trong một cái quán, để ngoảnh lại xem con đường mình vừa đi. Tôi thấy rằng: những việc đã xẩy ra tôi đã quên đi hầu hết, mà ác hại! tôi chỉ còn thấy cái dấu vết ghê lạnh của những cảm giác đi qua trong tâm hồn tôi, trong đời tôi.

Nếu tôi không nhớ lầm, thì tôi đã đi cáng nhiều hơn là đi đò. Mỗi cái đều có một cái lẽ sở dĩ. Chúng tôi đi cáng là những lúc chúng tôi muốn vào làng ngoại, để dự những ngày kỵ ngày chạp. Còn khi chúng tôi đi đò, lại có một mục đích khác. Nguyên lúc mẹ tôi về với thầy tôi, ông ngoại tôi có cho mẹ tôi một cái khế là 10 mẫu ruộng. Mười mẫu ruộng ấy là về hàng ruộng tốt, nên hoa lợi hàng năm cũng khá. Đấy là thầy mẹ tôi không tiện làm lấy, cho nên phải cho người ta "làm rẽ" và mình chỉ được thu một phần nửa mà thôi. Nhưng cái "phần nửa" ấy, cả nhà tôi không dùng hết, phải đưa ra bán. Thầy tôi không có tiền hưu trí, phải mong ở lấy tiền bán thóc mà tiêu dùng hàng ngày. Tôi nghĩ lại, sự tiêu dùng cần kiệm của nhà tôi thủa bấy giờ mà không khỏi bồi hồi cảm động. Nếu sự phung phí có cái vẻ to tát, rộng rãi của nó, thì sự cần kiệm cũng có một vẻ dịu dàng khả ái. Nhưng hình như tôi đã muốn nói ra ngoài câu chuyện.

Cái hoa lợi hàng năm ấy, nếu là năm được mùa thì chúng tôi vào chở một lần. Nếu là năm hung hạn, thì chúng tôi phải để hai năm mới vào chở. Thường thường thì ruộng ấy làm được hai mùa: mùa tháng năm và tháng mười. Mà cũng có năm chỉ làm được một mùa thôi. Vì lẽ ấy, có khi 3 - 4 năm chúng tôi mới vào chở một lần cũng có, điều này thì họa hoằn. Mà chở thì bao giờ cũng chở bằng đò. Cứ đầu tháng tư, cả nhà tôi đã sửa soạn đò nốc, trai bạn để đi chở lúa. Thật là những dịp rất hay để làm náo động cái cảnh gia đình hiu quạnh.

Lúc đi, mẹ tôi sắm đồ ăn trước mấy ngày. Mẹ tôi kho thịt khéo lắm, và có một thức ăn làm cho khắp vùng tôi ai ai cũng phải khen ngợi: ấy là món cá tràu (cá quả) kho rim. Mẹ tôi kho khéo quá có thể cất để hàng tháng được, và càng để lâu càng ngon một cách lạ. Không những cá tràu mà cả những thứ cá khác, mẹ tôi kho cũng có tiếng. Tôi nhớ rằng cứ vào độ tháng 10 tháng 11 là lúc biển hay mù, có cá ngon. Mà trong những thứ cá biển ở vùng tôi, người ta cho cá ngừa, và cá nhợ là quý hơn hết. Mỗi khi có người "làng rào" có con "ngứa" hay "con nhợ" thì thế nào họ cũng mang vào cho mẹ tôi, thường thường thì để đổi lấy thóc, nhưng cũng có khi lấy tiền, những đồng tiền kêu lẻng kẻng một cách vui vẻ biết bao! Chúng ta ngày nay ở vào một cái thời mà những bạc chỉ bằng giấy, ta nhớ lại tiếng kêu của đồng tiền, đồng hào hay đồng bạc bà đầm, thì không thể không bồi hồi…

Những "con ngứa" hay những "con nhợ" ấy, mẹ tôi mua từ tháng 10 mà để dành đến Tết mới đưa ra ăn, có khi, ra Tết rồi mà còn cá kho để ăn với bánh chưng.

***

 

Mỗi lần đi như thế, cũng thuê đến ba chiếc ghe lớn, và tất cả gia nhân trai bạn, người chèo kẻ chống cũng đến vài chục người. Tất cả nhà tôi  không xót một người nào là không đi. Nhà cửa thì giao cho một người tớ già săn sóc. Ngày nhổ sào đi, tôi đứng trên mui thuyền trông cái cảnh tấp nập xung quanh, tôi tưởng tất cả chúng tôi là một đội thủy thủ bạo dạn sắp theo một cuộc chinh phục xa xôi và dữ dội. Ba chiếc đò, cũng đợi gió nồm là cùng giương buồm lên, băng ra giữa vời sông, lướt theo nhịp hồ khoan của người giữ lái.

Tôi không nhớ lần ấy là lần thứ mấy tôi theo thầy mẹ tôi về quê ngoại. Nhưng tôi quên làm sao được những giờ êm dịu tôi nằm ở khoang đò không có mui và tôi lặng ngắm vòm trời sao, khi tiếng hò của các trai bạn vừa ngắt. Dầu là một đứa trẻ mà tâm hồn tôi bấy giờ như thoát ly khỏi cái xu xác nặng nề, và như đưa đẩy bởi cái điệu nhịp êm đềm của các vì sao. Rồi trầm ngầm hằng giờ cho đến khi thiêm thiếp đi mà không biết. Khi tỉnh dậy thì gà đã bắt đầu gáy sáng, và đò chúng tôi đã ghé vào một cái bến. Sông Ngân Hà bấy giờ đã bạc phếch. Tôi nghe có tiếng đọc rì rầm, tiếng nghe có khi tha thiết có khi buồn nhọc. Ấy là lần đầu tiên tôi nghe những người đạo Thiên Chúa đọc bài kinh sáng của họ. Và cái bến chúng tôi vừa ghé vào chính là bến Thanh Lăng. Bến Thanh Lăng ! Cái tên khêu gợi như tên một xứ huyền diệu của nước Tàu cổ.

Tôi nhớ năm nào thuyền chúng tôi cũng ghé lại cái bến ấy để cho thầy tôi lên bờ thăm một người bạn cũ của thầy tôi, một người bạn đồng liêu, làm đến Chưởng ấn rồi về hưu. Quan Chưởng lúc bấy giờ đã mù cả hai mắt, ngài không đọc sách được, mà vườn dược đối với ngài cũng mất đi một phần thú vị lớn. Nhưng cũng nhờ thế, cái cảnh nhàn ngài dành cả cho văn thơ. Ngài là một tay thơ nôm có tiếng thủa bấy giờ ở vùng tôi. Thời thường, thầy tôi đọc thơ ngài cho nhiều người nghe. Có điều là trước mặt con cái trong nhà thì thầy tôi chẳng bao giờ đọc đến những câu thơ rất suồng sã của nhà thi sĩ ở bến Thanh Lăng. Một hôm, tôi cũng nghe trộm được trọn một bài, hình như là một bài "nhà trò" mà thầy tôi ngâm lại cho một người bạn già cùng nghe. Tiếc rằng bài hát nhà trò ấy, đến nay, tôi chỉ còn nhớ có một câu:

Mặc son phấn bên mình cọ kẽ…

Ừ mà cái câu thơ trai lơ thật! Bởi thế nên thầy tôi không muốn những câu thơ như thế lọt tai chúng tôi. Như chương trên đã nói, thầy tôi là một ông nhà nho chính tông, dạy con theo một giáo dục cực kỳ nghiêm khắc. Thú thật, bây giờ những câu thơ như thế, tuy không hiểu lọn nghĩa, tôi cũng lấy làm thích thú vô cùng. Nhớ được một câu, ngâm to lên trong lúc vắng người, tôi tưởng có cái thú được nếm một mùi vị khác thường, cái mùi vị của quả cấm. Nhiều khi hiếu kỳ, tôi muốn biết mặt đến cả cái con người đã đẻ ra những câu thơ lẳng lơ ấy, tôi xin phép được bưng điếu theo thầy tôi, vào cái "nhà lẩm" bí mật kia, sau những rặng tre lồ ô. Nhưng chả bao giờ tôi được cái may mắn vào thăm nhà thi nhân ẩn dật. Thầy tôi kiếm đủ lẽ để bác sự yêu cầu của tôi.

– Con đi mần răng được. Từ bến vô nhà còn ngái lắm. Mà đường thì quanh co, gai nành lắm, không có guốc có giầy thì đi răng được.

Thủa bấy giờ, thực ra, những ngày hội to, lễ lớn, thì tôi mới được đánh cái áo địa xanh, đeo cái khánh bạc, và xỏ đôi giầy kinh, một thứ giầy dừa mũi cong. Nhưng ngày thường, thì tôi chỉ đi chân không mà thôi. Làm gì có đôi guốc gỗ mà kéo. Vì thế thầy tôi không cho tôi lên bến. Đến nay, cách đấy đã gần 20 năm rồi, tôi cũng chưa có dịp nào bước chân lên bến Thanh Lăng để thăm nơi ở của nhà thi sĩ thân yêu. Ngày xưa có tên tiểu đồng trỏ vào núi mà nói với khách :

– Nhà thầy ta ở sau cái mù mịt ấy của ngàn núi.

Tôi cũng chỉ dặn với mình: "Trong cái bến Thanh Lăng bí mật ấy, một nhà thi sĩ đã sống và đã chết rồi".

Vì nhà thi sĩ ấy chết trước thầy tôi một năm. Thầy tôi có làm hai câu đối nôm để viếng ông bạn của cả một đời mình; bấy giờ thầy tôi cũng đã già yếu lắm rồi, không còn biết thương tiếc nữa. Chỉ có tôi, đương học ở Kinh, tình cờ nghe được tin cụ Chưởng chết, tôi lấy làm thương tiếc vô cùng. Tôi tưởng như cả một quãng đời, cả bến Thanh Lăng đã chết ở trong lòng tôi vậy.

 

***

 

Nhưng hình như tôi đã bỏ dở câu chuyện.

Khi thầy tôi lên bờ thăm ông bạn già, thì mọi người ở trong  các thuyền đều đã dậy hết. Trong lúc ấy, tiếng đọc kinh của những nhà ở bến Thanh Lăng đã nghe thưa dần. Trời vừa hửng sáng. Tôi ngồi trông ra ở phía "bậc". "Bậc" bị nước sông ăn sâu vào, cho nên ở nhiều chỗ trông như những cái hang tối, đất đỏ ối như đất núi. Và trên "bậc" là những vạt ruộng, dâu xanh – không phải là những vạt ruộng, chỉ là một đồng dâu mông mênh.

Mẹ tôi nói với một người đầy tớ già :

– Chà các chú, coi năm nay dâu tốt quá, ở miền này có vẻ tươi hơn ở miền ta nhiều lắm.

– Có lẽ ở đây, vừa rồi có mấy trận mưa.

Bỗng mẹ tôi như không lưu ý đến câu đáp, quay lại nói với chị tôi bằng một giọng lo âu :

– Này con, mẹ sợ đi vắng, mụ Vấn ở nhà không coi hết những nong tằm. Tằm đã ăn lên, "quấy" lắm.

Rồi từ đấy mẹ tôi bỗng dưng mất vui và không hứng nói chuyện nữa.

Tôi biết lắm! Ở trên đời này, có hai thứ sinh vật đã "quấy" người mẹ hiền ấy, làm cho bà mất ăn mất ngủ: ấy là những đứa con của bà, và những nong tằm. Đời mẹ tôi, tôi đã nhiều lần nói, thật là một sự hy sinh vô hồi. Những đứa con lên một, lên ba, đến lên 10, – cho đến khi thành gia thất. Và những lứa tằm "vừa mới nẩy", cho đến lúc ăn lên, cho đến khi chín, và "hóa ngài", và kén, và kéo dệt tơ. Than ôi, đếm làm sao được những ngày giờ ngay ngáy, lo âu của người đàn bà ấy, ở bên cạnh những đứa con và những nong tằm !

Đến nay mẹ tôi đã chết. Mà cái nghề tầm tang cũng đã chết ở trong làng tôi rồi. Tôi còn quên làm sao được những thời kỳ đẹp đẽ của sự chăn nuôi, những cảnh đầy thơ, đầy êm ái, đầy tôn nghiêm của nghề tầm tang. Tôi quên làm sao được những mảnh trăng rơi đầy trên những ruộng dâu. Tôi quên làm sao được những tiếng đều đều của guồng xa. Nhưng nhờ cái gì mà tôi nhớ được mãi cả một thời dĩ vãng và không để rơi rớt mất một giọt thơ, một hạt ngọc. Ấy là tại… tại…

Vâng, tôi không ngần ngại gì, mà kể lại đây cái nguyên nhân ngớ ngẩn đã cho tôi trở nên một người khách của văn thơ.

Cũng chỉ tại lúc bấy giờ, tôi theo một sự tin tưởng mấy mươi đời, mẹ tôi lượm những con "ngài hóa" (một thứ nhộng vàng) để dành cho đứa con thân yêu của bà. Tôi còn nhớ như mới hôm qua, lời mẹ tôi nói với tôi giữa hai bã trầu :

– Này! Con cố mà ăn đi! Nuốt đi! Con sẽ sáng láng hơn người.

Thì ra mẹ tôi muốn tôi nuốt những con nhộng vàng để trở nên một người sáng láng. Những con nhộng ấy không biết có đưa lại cho tôi một sự gì không. Nhưng quyết đến ngày cuối cùng ở trên cõi thế, tôi cũng không thể nào quên được cái tấm lòng, – tôi nói cả một tấm lòng ấy – là tấm lòng mẹ đối với con.  Chép lại chuyện này, tôi xin dâng trả lại mẹ tôi những cái gì là hương là hoa ở trong tôi, ở trong đời tôi, đời một  văn sĩ tầm thường.

 

***

Tôi đã nói ở những chương trên rằng: cuốn truyện này không phải là một cái tiểu thuyết như trăm nghìn cái tiểu thuyết khác nghĩa là phản ảnh của cuộc đời. Đây chính là cuộc đời với tất cả những điều vụn vặt, những sự phiền toái, với tất cả những sự lộn xộn của nó. Không nên tìm thấy ở đấy một thống hệ hay một trật tự nào. Dầu là một kẻ ngăn nắp đến đâu, cái cuộc đời của họ cũng không phải là một sự thực nghiệm, đúng với sự tính toán của họ. Cái đặc tính của cuộc đời chả phải là sự tự nhiên có thể, nó dàn xếp, sắp đặt theo một định ý nào, một định ý mầu nhiệm mà ta không thể biết được, nhưng trong cái công trình ấy là cuộc đời không bao giờ người ta thấy dấu vết của một bàn tay, của một nhát búa, của một mũi kim, của một nét bút, của một sự trù tính nào. Không có một chút dấu tích nào của sự uốn nắn, của sự đẽo gọt. Đấng đã tạo ra một cuộc đời là một nghệ sĩ hoàn toàn. Sở dĩ có sự nhận xét như thế là vì trong cuộc đời của tôi, tôi không thấy một cái gì là giả dối, là gượng gạo như tôi thường thấy ở trong một cuốn tiểu thuyết vụng. Một là, khi tường thuật lại đây, tôi theo cái trật tự, nghĩa là cái lộn xộn tự nhiên của cuộc đời hay là sắp đặt nó lại theo cái thứ tự của giống người, cái thứ tự của luận lý. Tôi đã lựa điều thứ nhất và hy sinh điều thứ hai. Trong cuốn truyện này cuộc đời của tôi, hiện lại, sống lại trong ký ức tôi thế nào, thì tôi mang nó xuống giấy y như thế. Có lẽ tôi đã bỏ sót nhiều việc – vô tình hay hữu ý – nhưng mà cuộc đời của tôi nó không quan hệ ở những ấn tượng của nó ở trong tâm hồn tôi. Tôi chỉ dựng lại đây một cuộc đời tình cảm, một thế giới cảm giác. Xin các bạn đọc biết cho rằng: những "việc chả quan hệ một tý nào", ở đây, chỉ cốt để chứng nhận một điều gì. Chứng nhận một giai đoạn của tâm hồn chẳng hạn. Không nên cho những việc một sự quan trọng mà nó không có.

Có một điều mà từ trước tôi chưa kịp nói – nhưng chắc độc giả cũng đã nhận thấy – ấy là sự trống trải ở trong cái cuộc đời tình cảm của tôi, sau khi một người đã bỏ tôi mà đi. Người ấy chính là mẹ tôi. Mà từ đấy không ai thay thế được mẹ tôi hết. Thầy tôi, các anh chị tôi cũng không thể nào lấp được cái trống trải của tôi. Phải đợi đến ngày trong đời tôi, một người đàn bà khác lại đến. Người đàn bà sau mẹ tôi đó, đã đưa lại cho tôi biết bao dịu ngọt, êm đềm, biết bao âu yếm, biết bao tươi vui, biết bao ấm cúng. Người ấy đã tạo lại cho tôi một gia đình. Nhưng tôi phải nhận rằng: với người đàn bà ấy, không phải là sự trống trải vẫn còn, nhưng thật ra, mẹ tôi chưa thật là hoàn toàn được có người thay thế. Tôi vẫn có cảm tưởng rằng: mẹ tôi đã ở xa, rất xa tôi rồi.

Kịp đến lúc một "sinh vật" cỏn con khác ra đời mới lại bù được sự thiếu thốn to tát của tôi. Tôi còn nhớ mãi cái đêm hôm ấy, lần thứ nhất trong đời tôi, tôi nghe có tiếng trẻ con khóc. Tiếng khóc ấy lúc đầu làm cho tôi ghê rợn. Tôi nghĩ đến cái thế giới mầu nhiệm mà đứa bé ấy vừa từ giã – vì bao giờ tôi cũng ví dụ rằng: nó phải từ một thế giới nào mà lại, – mà tôi hơi sờ sợ. Tôi thấy rằng: nó có trên lưng một dĩ vãng nặng nề hơn tôi; tôi không muốn tin rằng nó là một đứa bé. Tôi nhận ra cả cái đạo Phật huyền bí còn sống ở trong tâm hồn tôi, chỉ còn có thế. Cũng may, cái tư tưởng mà tôi gọi là "bất nhẫn" ấy, cái tư tưởng ấy sẽ tan ngay, kịp khi tôi thấy mặt đứa bé. Tôi sung sướng và cảm động biết bao khi tôi dần dần nhận thấy rằng từ cái miệng, cái trán, cho đến đôi mắt, – nhất là đôi mắt – đều giống tôi y hệt. Không những sung sướng, tôi còn thẹn thùng nữa. Mà không hiểu thẹn thùng vì sao?

Mỗi ngày tôi tìm thấy ở nó, một cái hình ảnh hoàn toàn về tôi, một cái ý bất diệt về thân thế tôi. Từ đấy, tôi mới thấy rằng cuộc nhân sinh không có thể bi quan được nữa, vì mình sẽ được có người thay thế để dự chứng cái hậu lai man mác. Sự thẹn thùng dần dần đổi thành lòng âu yếm. Tôi không thấy xa đứa trẻ nữa, mà cũng tưởng như gần mẹ tôi hơn. Cho đến một ngày kia, ở bên tôi, mẹ tôi đã được hoàn toàn thay thế, mà thay thế bởi một đứa bé. Ấy là lúc cái tình "cha con"  bắt đầu nẩy ở trong lòng tôi. Và cái tình ấy mới làm sống được cái tình mẹ con tôi ngày trước. Tôi yêu đứa bé với tất cả sự âu yếm của một bà mẹ. Tôi theo dõi với sự vui mừng tăng lên mãi, tôi theo dõi cái sự nẩy nở của tâm hồn trẻ dại ấy. Đứa bé lớn ở hình vóc của nó và ở trong lòng tôi. Tôi có cảm giác rằng cạnh tôi, đã mọc lên một cái rừng cây non sương, líu lo muôn nghìn tiếng hót. Và ở rừng ấy, mỗi ngày tôi tìm ra một sự mới lạ. Và cái vui sướng của tôi không bao giờ ngừng nữa.

Cạnh tôi, đứa bé mỗi năm thêm mỗi tuổi. Mỗi tuổi, nó đưa lại cho tôi những vui thú bất ngờ. Với hai tuổi, nó nói cái giọng của chim. Với ba tuổi, nó nói cái giọng của thần minh. Và với nó, một hôm tôi có cái ý gây dựng lại một thế giới không còn nữa mà tôi luôn luôn tiếc nhớ.

Tôi muốn may cho nó một cái áo địa xanh. Tôi muốn sắm cho nó một cái khánh vàng đeo ở cổ. Và điều này nữa: một vòng tràng đạc cột ở chân. Mẹ tôi đã may sắm cho tôi thế nào, thì tôi lại may sắm cho nó thế ấy. Nhưng than ôi! Thời thế đã thay đổi: cái áo địa xanh và chiếc khánh vàng ngày nay chỉ tiêu biểu cho một nền quý phái lạc thời. Còn cái tràng lục lạc (hay là tràng đạc) ở thời này người ta cũng không buồn cột vào cổ những con vật nữa. Nhưng trời ôi! Làm sao tôi quên được những tràng lục lạc ấy, và bên tai như còn nghe cái tiếng rung của nó. Không phải là tiếng lục lạc cột ở chân một đứa bé, mà là tiếng rung của một thời, của một thế giới đã sập đổ, đã đổi rồi. Bao giờ tôi quên được cái thời trẻ dại ấy! Tiếng rung một ngày thêm lạnh lùng, thêm thương xót. Tiếng rung! Có tiếng gì cao to át được cái tiếng rung ấy? Trong tiếng rung kia tôi nghe có tiếng nói tỉ tê, thỏ thẻ, âu yếm của một người đàn bà. Người đàn bà ấy là một bà mẹ.

 

***

Đêm khuya trong một phố im lặng và vào một giờ im lặng nhất, những tiếng động của những chiếc xe, chỉ là từ một phố khác dội lại. Và ngoài tiếng gió rít trong khe cửa chỉ nghe có tiếng dọc sắt não trong đường xe điện. Cái tiếng rề rề ấy, cũng như còn rung chuyển đôi vai tôi. Da thịt ta bấy giờ như rạn nở ra, và những luồng cảm giác chuyển mạnh dưới làn da. Trong lúc ấy, ta chỉ muốn có một sự cọ sát, một sự cử động nào thì từ cuối phố một tiếng rao dài và buồn thảm như một ngày mưa gió đã qua. Tẩm quất! Tẩm quất! Cái người làm nghề nắn xương và nắn da ấy, chính đã đi qua vào một lúc mà người ta rất đương mong đợi hắn.

Tập bút ký này chính là một sự "tẩm quất" cho tâm hồn vậy. Sự so sánh có lẽ thô lỗ nhưng mà rất đúng. Những kỷ niệm, những cảm, những tình, những hình ảnh, những sự thực bấy lâu chất chứa tràn ngập trong người, bây giờ mới tìm được nẻo thoát. Cần phải đụng mạnh, cần phải xát mạnh vào chỗ tụ đọng lại muôn nghìn cảm giác, người nghệ sĩ sẽ có một thứ sảng khoái mà không ai có, một sự sảng khoái thuần túy, hồn nhiên. Giời ôi! Còn gì sung sướng hơn là được hồi tưởng lại những việc đã qua, úp mặt vào hai bàn tay mà khóc rưng rức? Còn gì buồn hơn là được buồn lại một lần nữa những cái buồn đã qua. Còn gì khoái hơn là đưa những ngón tay mỏng, dịu và huyền bí – có phải là những ngón tay nghệ thuật? – để gọi dậy lên làn da cả một luồng cảm giác, một thế giới cảm giác. Tôi đã nói nhiều lần và cần nói lại một lần nữa là tập bút ký này không phải chỉ là nơi ghi chép những việc đã qua trên cái thân thế của tôi, mà chỉ là làm sống lại những cảm giác của một tâm hồn non sương, bừng sáng; thực ra trong ngày thơ ấu, tôi đã cười nhiều hơn là tôi đã khóc, nhưng trong sự hồi sinh của thời thơ ấu, trong sự sống lại này, tôi đã khóc nhiều hơn tôi đã cười. Vì sự "sống lại" đó nếu cho kẻ nghệ sĩ ở tôi những khoái trá bất ngờ thì trái lại đã làm cho con người ở tôi đau đớn ê chề, như quằn quại bởi những hoài niệm và tiếc nhớ; tiếc nhớ những cái gì chỉ đến có một lần mà thôi.

Nhà nghệ sĩ được hai lần sống mà con người ở tôi, thật phải hai lần chết.

Nhà nghệ sĩ đã mót lại, và trời ôi! hắn ta có bỏ sót  một cái gì! – nhà nghệ sĩ trong cái mùa gặt dĩ vãng ấy hẳn đã "mót" lại tất cả những cảm giác vướng rơi trong tâm hồn. Cái thú ấy thật quả là ích kỷ nhưng mà là có thực. Cho nên, tập ký ức này là một cái khoái trá riêng của một nghệ sĩ mà lại là một đau đớn cho cái con người phải sống lại nó. Trong một buồng sáng, trên những trang giấy sáng ngời, kẻ nghệ sĩ đã đặt lên những cảm giác sung sướng của mình, nhưng chốc nữa khi những trang giấy đã dày lên, và âm u và đặc sịt những chữ, một thiếu niên chưa ngoài ba mươi tuổi sẽ gục đầu vào đấy để mà đau xót về những cái không còn nữa.

Những cái đã mất không phải là không thay thế được. Một bà mẹ đã đi để lại một chỗ trống ở trong lòng tôi, trong đời tôi. Một đứa bé đến, ngồi vào cái chỗ xưa kia của mẹ tôi. Đứa bé ấy đã làm cho tôi thấy rằng, trong người tôi có một sức yêu đương mãnh liệt. Sức yêu đương ấy đã làm cho tôi nhớ đến mẹ tôi, – tôi toan nói là cái sức yêu đương mãnh liệt ấy đã làm cho tôi trở nên một bà mẹ. Trong tâm hồn tôi lại bắt đầu nảy nở một nguyên lý, một nguyên lý bất diệt: tôi sẽ sáng tạo ra sự yêu đương. Một mặt trời khác bắt đầu mọc ở trong đời tôi. Tôi còn thiếu gì nữa đâu để mà sung sướng, để mà hoàn toàn sung sướng? Nếu tôi có quyền được tiếc, ấy là tôi chỉ tiếc không được, từ trong cuống họng tôi, phát ra những cái điệu nhịp mơ hồ là những tiếng hát ở bên nôi một đứa bé. Tiếng hát ru của cái dĩ vãng êm đềm, ru một cái tương lai đẹp đẽ. Với sự biến đổi của thời đại, tiếng hát ru ấy không thể vãn hồi được nữa. Cái tiếng xình xịch của một thế kỷ cơ khí đã làm át mất cái tiếng ru của bà mẹ. Một tiếng hát ru mà ở trong ấy đương run rẩy cả một thời. Nhưng có sức mạnh nào, có cái tiếng ồ ạt nào có thể át được cái tiếng dội ở trong hồn tôi, tiếng dội của những câu hát ru con?

Mỗi khi tôi muốn hồi tưởng lại những cảnh vừa qua, tôi lại tưởng chừng như còn nghe văng vẳng bên tai tiếng người đàn bà ấy…

Bấy giờ hình như là một ngày đầu hạ, mà vào lúc ban trưa. Mầu nắng tươi ròn…

Trong một cái nhà ngang, trên một cái võng, mẹ tôi ngồi đưa tôi và hát ru tôi. Có lẽ mẹ tôi đã hát những câu :

Ru cao hát bạo em nghe,

Lá bù, lá bíu, lá tre, lá vằng.

hay là :

Trăm năm dù lỗi hẹn hò,

Cây đa bến cũ con đò khác xưa.

Những câu vô nghĩa hay có nghĩa, nhưng bây giờ với tôi chỉ là những điệu nhịp thần tiên để mang tôi tới những miền rất xa ngái.

Có khi vì sức quyến rũ của âm điệu, tôi chợp mắt, mê ly, nhưng cũng có khi giật mình bởi một lúc tiếng hát sang câu hay chuyển điệu, tôi lại mở mắt trao tráo ra nhìn. Tôi tưởng như còn thấy ở trước mắt cái mầu nắng mới tuôn chảy trên sân đá, và trên những hàng dậu ở ngoài xa, phấp phới những áo quần mầu đỏ choét hay xanh lè, là những mầu sỗ sàng lòe loẹt, mầu của những tâm hồn quê mùa chất phác.

Những mầu xanh, đỏ ấy sống mãi ở trong tâm hồn tôi, phấp phới như những lá cờ đã chiến thắng. Và bây giờ đây, tuy cái khung cảnh đầy thơ ấy không còn nữa, nhưng mỗi khi thấy một mầu nắng mới hắt bên song hay trước thềm, tôi lại mường tượng lại bóng dáng mẹ tôi, rồi đôi mắt tôi ướt lệ: sự hồi tưởng ấy cũng vừa làm cho tôi bâng khuâng mà cũng vừa làm cho tôi sung sướng.

 

Nguồn:

Lưu Trọng Lư : Chiếc cáng xanh, tiểu thuyết // Những tác phẩm hay,  Nxb. Tân dân, 93 Hàng Bông, Hà Nội, in xong ngày 20/8/1941; 152 tr. 13x19cm.

 

 


 


[a] Ở đoạn này tác giả dùng cả 2 dạng: “mẹ” và “me”. Ta biết, trong thơ Lưu Trọng Lư thường dùng “me” để nói về mẹ đẻ của mình (“Tôi nhớ me tôi thủa thiếu thời”… “Hình dáng me tôi chửa xóa mờ”, – bài “Nắng mới’ trong tập “Tiếng thu”) – N.B.S.

[b] khái: hổ, cọp.

(1) Tiếng qua là để chỉ một kẻ đã qua đời. (nguyên chú)

(2) Tiếng mệ ở vùng tôi nghĩa là bà. (nguyên chú)

[a]  école primaire : trường tiểu học, bậc sơ học trong hệ thống trường Pháp-Việt ở Đông Dương trước 1945.

[b] Chỗ này bản in để chấm lửng liền 2 dòng, dự đoán có chừng 15-20 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.

[c] Chỗ này bản in để chấm lửng liền 2 dòng, dự đoán có chừng 15-20 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.

[d] Chỗ này bản in để chấm lửng nửa dòng, dự đoán có chừng 4-6 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.

[e] Chỗ này bản in để chấm lửng liền 2 dòng, dự đoán có chừng 15-20 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.

[g] chữ Pháp trong nguyên bản: “Đây là cái bảng đen”.

[h] Chỗ này bản in để chấm lửng liền 2 dòng, dự đoán có chừng 15-20 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.

[i]  cours complémentaire : lớp bổ túc.

[k] Chỗ này bản in để chấm lửng trên 2 dòng, dự đoán có chừng 20-30 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.

[l] Chỗ này bản in để chấm lửng 2 dòng, dự đoán có chừng 15-20 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.

(1) Mít nài là một thứ mít hoang "mít nài dây sắn" có nghĩa là dốt nát vô học. (nguyên chú)

[m] Ông Phó: có thể là “Phó lý” (người phó của Lý trưởng); cụ Trùm: trưởng họ đạo (dân theo Ki-tô giáo) trong làng; Ông Bá: bá hộ (người giàu ở nông thôn); ông Điển: có thể là “điển nông” (chức quan coi sóc việc nhà nông) hoặc “điển bộ” (viên chức giữ sổ sách).  

[n] “Cheo” : nghĩa là “chiêu thân”. Lệ cũ, hễ có đám cưới đi ngang qua làng nào thì làng ấy đem ít thước lụa đỏ giăng ngang đường mà đón, gọi là “nhai lan”, khi ấy, nhà trai phải đưa tiền, khác làng thì 3 quan, cùng làng thì ít hơn, mà xin làng nhận và cho đi qua, nghĩa sự việc ấy gọi là “chiêu thân” (H.T. Paulus Của: Đại Nam quấc âm tự vị, 1895-96)

[o] “các chú”: ý nói Hoa kiều.

[p] “yên sĩ” ở đây ý muốn nhắc tới từ “yên-sĩ-phi-lý-thuần”, âm Hán Việt diễn tả một từ tiếng Pháp  INSPIRATION, nghĩa là “cảm hứng”. 

[q] Charles Péguy (1873-1914), nhà thơ Pháp.