CHIẾN KHU THỪA THIÊN

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tiểu dẫn. Theo dẫn giải ở Tuyển tập Lưu Trọng Lư (Nxb. Văn học, 1987) thì tập truyện ký này in lần đầu vào năm 1952 tại Liên khu IV với nhan đề Chiến khu Ba ; năm 1955 được in lần thứ hai tại Hà Nội với nhan đề Chiến khu Thừa Thiên.  Dưới đây sử dụng bản in lần thứ hai.

N.B.S.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

ÍT LỜI GIỚI THIỆU

 

Chiến khu Thừa Thiên là một căn cứ kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên đã được xây dựng lại một cách vội vàng sau ngày mặt trận vỡ. Viết quyển “Chiến khu Ba”, anh Lưu Trọng Lư đã tả lại một khung cảnh kháng chiến trong thời kỳ cuối năm 1947 đầu năm 1948 là thời kỳ khó khăn gian khổ nhất trong giai đoạn kháng chiến vừa qua.

Là một trong những người đã ở chiến khu Thừa Thiên, được biết chiến khu Thừa Thiên lại được anh Lưu Trọng Lư cho đọc tiểu thuyết ‘Chiến khu Ba’, tôi xin giới thiệu với bạn đọc một vài điểm về nội dung của nó.

Viết quyển “Chiến khu Ba”, tác giả đã nêu lên một vài nét chính của cuộc chiến đấu gay go, gian khổ nhưng đầy tin tưởng của anh chị em trong ban tiếp tế vận tải, của anh em công nhân giữa một cuộc chiến đấu gay go, ác liệt nhưng đầy tin tưởng của toàn dân. Tác giả đã làm cho bạn đọc hình dung được sự liên hệ mật thiết giữa chiến khu với đồng bằng, giữa bộ đội và nhân dân, giữa Bình, Trị, Thiên với Thanh, Nghệ, Tĩnh: chuyện đánh giặc, phá tề, chuyện lúa gạo từ đồng bằng lên, những chuyến lựu đạn, bom mìn hay tài chính từ ngoài Khu vào… đã gắn liền với đời sống, với cuộc đấu tranh của mỗi người trong góc rừng Hòa Mỹ.

Đặc điểm của tiểu thuyết “Chiến khu Ba” là tác giả không đưa một cá nhân nào nổi bật hẳn lên, người ta thấy trong đó cả một đám người. Vì nhiệm vụ mà họ lao mình vào cuộc đấu tranh gian khổ, họ đã chiến đấu không ngừng, không biết mỏi. Vì nhiệm vụ đấu tranh khó khăn mà họ đã đoàn kết và cứ tình hình càng khó khăn gian khổ, tình đoàn kết lại càng chặt chẽ đầm ấm hơn. Người ta tìm thấy ở nơi đây mối tình anh chị đối với em, cha mẹ đối với con, giữa những người không bà con, không làng họ. Đây không phải là thứ tình cảm bồng bột nhất thời. Họ thương yêu, đùm bọc lẫn nhau vì họ là những người có cùng lý tưởng, chung một mối thù. Khi nghe tiếng súng giặc lùng hay có tin giặc khủng bố, câu chuyện ở làng bác hay làng tôi, việc xảy ra ở xóm trên hay xã dưới, ý nghĩ lúc đầu của mỗi người có chỗ khác nhau nhưng đều chỉ kết thúc bằng những tắc lưỡi nghiến răng, máu căm thù giặc trong tim mỗi người lại một dịp sôi lên. Khi bác Cầm nhớ lại hành động của bọn giặc ở Sơn Tùng  đối với vợ con bác, khi mẹ Thẩm đeo lủng lẳng chùm chìa khóa đã mất hết cả hòm rương, và cứ mỗi người là một bầu tâm sự có những uẩn khúc khác nhau, nhưng đều giống nhau ở một chỗ: “Giặc Pháp và bè lũ Việt gian đã gây nên tội ác, đã gieo ra tang tóc”. Càng căm thù giặc Pháp, họ càng yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

Khi nghe tin bộ đội hành quân, khi nghe tin bộ đội đánh đồn, đó là hướng Sơn Tùng hay Mỹ Chánh, giặc chết mấy thằng da trắng hay da đen, lúc đầu nhiều ý nghĩ còn có chỗ khác nhau nhưng khi có tin chiến thắng bay về, người ta lại nhìn nhau vui mừng, sung sướng cùng tin tưởng ở ngày mai.

Đây là một đám người vì nhiệm vụ mà đoàn kết chiến đấu và nhờ chiến đấu mà tiến bộ. Đây không phải là thứ tình cảm bồng bột nhất thời, tinh thần đoàn kết thân ái của họ được bắt nguồn từ tinh thần yêu nước chân thành và chí căm thù giặc. Đây là một đám người từ nhiều nguồn gốc xã hội khác nhau, nhờ tinh thần đoàn kết đùm bọc nhau mà đều làm tròn nhiệm vụ và tiến bộ: chị Vinh, anh Cang, không phải như bác Cầm, mẹ Thẩm đã dày dạn phong sương, cũng không giống anh Và, bà Tảo đã qua nhiều cơn thử thách, mỗi người có một vẻ khác nhau nhưng tinh thần thân ái đoàn kết đã kết cả mọi người thành một khối. Đám người bé nhỏ trong khu rừng rộng lớn bao la, nhờ biết đoàn kết mến yêu đùm bọc nhau nên mọi khó khăn gian khổ đều đã vượt qua: đoàn kết thành một nguồn an ủi tinh thần, giúp họ vượt qua cả thiếu thốn ốm đau. Đoàn kết thành một sức mạnh nên đoàn người mới khỏi ốm, vì nhiệm vụ bảo vệ kho tàng đã chuyển được hơn 20 tấn lương thực dưới làn mưa đạn của giặc. Họ không biết nài hà tỵ nạnh. Họ sôi lên một không khí đoàn kết, hoạt động và chiến đấu không ngừng.

Qua nhiều cơn thử thách, khối người đó nhờ đoàn kết đã chiến đấu và chiến thắng, đó là điểm nổi bật lên trong tiểu thuyết “Chiến khu Ba”, và đây là điểm mà tác giả xây dựng và cũng đã thành công.

Đọc tiểu thuyết “Chiến khu Ba”, anh chị em nào đã từng sống trong cuộc sẽ bảo rằng: “Tiểu thuyết “Chiến khu Ba” chưa tả được hết những nét chính trong cuộc sống hồi đó”, nhiều bạn đọc khác có thể nghĩ rằng: “Có gì đặc biệt lắm đâu?”. Đúng như thế, trong phạm vi cuốn tiểu thuyết này, tác giả chưa nêu lên hết cả những nét chính của cuộc chiến đầy gay go ác liệt như nhiều bạn đòi hỏi, nhưng nó đã nói sự thật và cũng đã tả được một vài nét trong những nét chính rồi. Trong đó không có gì cầu kỳ và đặc biệt lắm, nó chỉ tả được sự cố gắng của những người đã tin tưởng và quyết tâm làm tròn nhiệm vụ của một công dân.

Đến nay, giữa lúc cuộc kháng chiến ngày càng trở nên gay go ác liệt, tiểu thuyết “Chiến khu Ba” đã ghi lại được một vài nét về cuộc chiến đấu đã qua, nó nhắc nhở chúng ta tình đoàn kết thân ái trong cuộc kháng chiến gian khổ trường kỳ, nó giúp chúng ta thấy được những sự tiến bộ lớn lao ngay trong thời kỳ đó và từ đó đến bây giờ, tăng thêm lòng tin tưởng chắc chắn vào chiến thắng ngày mai.

L.K.4, ngày 12 tháng 3 năm 1952

HOÀNG ANH

Chương I

GIA ĐÌNH SUM HỌP

Chiến khu Hòa Mỹ lúc bấy giờ người ta gọi tắt là xê-ca Hòa Mỹ là chiến khu của tỉnh Thừa Thiên. Xê-ca Hòa Mỹ gồm có xê-ca 1, xê-ca 2, cho đến xê-ca 10, xê-ca 11.

Xê-ca 3 là một trong những xê-ca đông đúc nhất; ngoài những trại thuộc ban kinh tiếp tế, dân quân, vận tải, ban quân trang, ban sửa chữa vũ khí, ty bào chế… Xê-ca có một kho lương thực lớn nhất của chiến khu.

Đó cũng là kho bảo tàng những cái quý báu của triều đình Huế mà người ta đã đoạt lại được khỏi sự tàn phá của giặc.

Những cái hòm trong đựng hốt bào của Đồng Khánh, một vài bức tranh Âu Tây thời Minh Mạng. Giữa cái đám đồ cổ đó, một vài tập tự điển của Larút (Larouse) thế kỷ 20,  một vài hòm đựng lựu đạn điếc, những cuộn giấy Mỹ, những súc ka-ki Nam Định, những tập sách chữ Hán không đầu không đuôi… và sốt dẻo hơn hết là những thùng đường, thùng muối, ruốc, những bao cá khô ở đồng bằng vừa mới tải lên, tất cả những kho hàng đó do một anh dân quân tên Hậu coi giữ.

Hậu hằng ngày đốt lửa, hun kho, đuổi ẩm thấp. Tầng trên là nơi chứa kho tàng và cũng có thể nói là nơi ở của Hậu. Hậu không mấy khi rời khỏi kho. Lắm lúc người ta bước vào kho, tuồng như thấy vắng lạnh: không một tiếng nói, không một bóng đi. Nhưng thật ra Hậu đang lúc cúc một  mình ở một kho nào đó, hoặc xem mối ở nơi sàn sách cũ, hoặc tháo từng súc ka-ki ra đo. Chỉ những lúc đó người ta mới thấy được bóng anh Hậu đi đi lại lại để giữ đồ phơi và mới thấy vẻ linh hoạt của người giữ kho.

Tầng trên kho vắng lặng, trái lại tầng dưới thì từ hôm ban xay giã tới làm việc, trở nên vui nhộn một cách đặc biệt. Gọi là ban xay giã, thật ra mới có xay thôi. Một vài cối xay với vài chị em, toàn là những chị em nông dân. Từ sáng sớm chị em đã vào kho gánh lúa ra. Rồi cứ hai người một xay, cùng xay cùng hò… toàn câu hò kháng chiến, hò cách mệnh, hay đôi câu hò ân tình ân nghĩa ngày xưa.

Mấy chị em nông dân đó từ các miền xa lạ ở trong tỉnh về… Nhưng mỗi chị như đeo trên lưng một gánh tình cảm. Từ kháng chiến đến nay trong đời các chị: bao nhiêu đau xót, bao nhiêu ly tán do quân địch gây ra.

Chị Đức ở Phong Thái cha chết, mẹ chết chỉ còn lại hai chị em, người em trai bị Tây bức hiếp theo nó, không hiểu còn sống hay đã chết.

Chị Xoa người Phong Lai Nịu qua một đời chồng không có con. Gia đình còn một bà mẹ, một người em trai, em gái. Mặt trận vỡ, làng chị Tây lập được tề ngay, vì thế đến nay không rõ tin tức nhà ra sao cả.

Trong chị em có chị Chanh hình như có nhiều chuyện đau thương hơn hết, mà chị lại không hay kể lể tâm sự với ai. Chị không phải là người lớn tuổi, chị mới 22 tuổi. Nhưng chị lại được các chị em tin cậy hơn hết. Người không đẹp, mà có duyên. Ít lời ít nói mà công ăn việc làm thì siêng năng. Giữa hội nghị ý kiến của chị luôn luôn được các chị em tán thành. Chị hay làm, lại siêng học, luôn có tinh thần trách nhiệm, biết giữ của công nên được chị em trong ban xem như người chị cả.

Nhưng người làm cho cả chiến khu để ý đến ban xay hơn cả là “con Diên”. Nó nhỏ út hơn hết, mới 17 tuổi, mà tính nó lại trẻ con nên ai cũng gọi nó là “con” mà không gọi là chị. Trước nó đi làm biệt động đội, làm liên lạc viên. Nó được cái mặt mũi sạch sẽ, miệng cười tươi roi rói, đôi mắt sắc lẻm. Thời kỳ ở bộ đội, cũng có những tiếng tăm không tốt về nó. Bà Tảo trưởng ban tiếp tế chiến khu giới thiệu nó với ban xay giã là có ý đưa nó vào một cơ quan không có đàn ông. Hôm giới thiệu nó bà còn gọi Chanh dặn riêng: Con nớ, nói cho mà biết, nó đĩ lắm đó! Liệu mà coi chừng cải tạo nó lại, hai tuần báo cáo cho tôi một lần về công ăn việc làm của nó. Thực ra từ hôm vào trong ban xay giã nó cũng chẳng có việc gì đáng phải báo cáo, chỉ có cái tội là nói mách nói leo. Nhưng có nó nhiều khi cũng vui chuyện. Suốt ngày nó chỉ ngồi đùa “cắp đôi cắp đũa” chị này với anh kia, anh kia với chị nọ. Chị Chanh với anh Và thương binh, chị Xoa với bác Cầm, chị Đức với anh Minh công nhân. Không biết sự cắp đôi cặp đũa có đôi chút lý do gì không, nhưng lắm lúc đùa rồi cũng hóa thật cũng nên.

Cứ mỗi bận anh Minh đi lĩnh gạo, anh ấy mới đến đằng xa thì ở trong này Diên đã thúc chị Đức. Có hôm chị Đức đang sàng gạo, sẵn cái nia, chị lia vào đầu nó. Nó trông anh Minh mà cười, chị Đức thì đỏ cả mặt. Anh Minh lúc đầu cũng không biết gì, sau dần dần cũng hiểu rõ. Thế là có khi tình cờ hai anh chị gặp nhau thì cả hai bên đều bẽn lẽn. Nhưng cái thành tích vĩ  đại của Diên là đối với bác Cầm. Thường không có chuyện gì Diên cứ xuống nhà quân trang ngồi với bác, bày việc ra trêu bác. Bác Cầm vốn tính người nóng nẩy nên mỗi lần bị trêu, bác tức đuổi cho Diên kêu la chí chóe ầm cả cơ quan làm ai cũng khó chịu. Sự trêu chọc đó nhiều khi quá phép, có lần Chanh kêu Diên ra chỉnh:

− Bác Cầm ứng là vai cha vai chú của mình, không nên trêu bác như người đồng vai đồng lứa.

Nghe lời Chanh, Diên có sửa chữa được đôi chút. Rồi lại vài hôm thôi lại tính nào tật ấy.

 

***

 

Ngay từ khi ở thôn Hà Lạc là nơi quân địch thường hay lui tới sục sạo, chị Vinh vẫn chưa tập được thói dậy sớm. Có dậy sớm, chải xong đầu tóc cũng mất chán thì giờ. Nhưng từ ngày ở rừng, chị cũng dậy sớm được như mọi người, như các chị em khác. Vì thực ra không dậy sớm không được. Ở núi mặt trời lên sớm, mới bảnh mắt ra tiếng chim “đi họ đi hàng” nó đã chí chóe. Từ trên trại đi xuống núi, chị cứ ngó quanh ngó quất để tìm cái thứ chim lạ ấy.

− Quái thật! Mới chu chéo đó mà lần mô rồi không tìm thấy. Lên ở trên này hơn tuần lễ rồi, sáng nào cũng tìm mà vẫn chưa thấy mặt mũi con chim ấy ra sao cả.

Cái đó đối với chị cũng thành một trò chơi của bà mẹ đối với con. Mỗi lần thằng Duy khóc, chị dỗ nó: “Để mạ đuổi con chim cho hỉ!”. Rồi chị lấy một hòn cuội vứt vào chỗ nó hót, chỉ nghe tiếng động nhẹ, chớ chim không dám lộ mình. Thực ra lòng chị vui lên, cái gì chị cũng thấy có vẻ dễ chịu cả.

Hàng ngày những bữa cơm gạo lức không giã, đồ ăn chỉ độc vị nước ruốc, lắm hôm chị không sao nuốt được. Nhưng thấy các chị em khác nuốt ngon lành vui vẻ cả, chị không lý nào lại phàn nàn. Vả từ đồng bằng ít hôm nay đã lên được vài chuyến bí. Ồ! Những trái bí lửa tươi ròn, chính tay chị thu nhận và sắp lên tầng hàng trên kho. Những trái bí được đánh số như quân số trong một đội ngũ. Cái triển vọng những chuyến bí từ đồng bằng tiếp tục lên làm cho chị chứa chan hy vọng. Với lại còn những chum cá khô nữa. Có thể rồi đây cứ một ngày một lên nhiều. Cái tình cảnh một chút ruốc đặc đổ vào một nồi nước đầy, khuấy ra để cho hàng chục người vừa chan vừa húp, tình cảnh ấy theo chị rồi đây sẽ chấm dứt.

Chị Vinh đã vui với công việc, cứ mỗi buổi sáng xem xét xong kho bí thì chị mới lên kho xay. Tội nghiệp, trong lúc chị xem kho bí thì chị Chanh đã mang thằng Duy lên kho xay bỏ nó vào cái nồi đã móc sẵn ở đó. Bên tiếng hò xay lúa thêm điệu hát ru con. Tiếng chị Chanh đưa em sao mà ngọt ngào thế. Chị người Mỹ Lợi, giọng ru Huế mà đa đá Quảng Nam. Đến nỗi có lần anh Hậu giữ kho nghe không sao chịu nổi, từ trên gác kho đã phải gọi chị Chanh mà nói: “Chào! Tiếng ru của chị nó làm tôi nhớ vợ nhớ con quá!”. Và từ đó, các chị mới biết anh Hậu thầm lặng kia hàng ngày chỉ đếm đường, cũng có một niềm tâm sự…

Riêng chị Vinh cứ mỗi lần nhìn thấy chị Chanh đưa thằng Duy ngủ, chị lại thấy một mối tình chị em đằm thắm giữa chị và các chị em. Từ hôm tới đến nay, các chị họ cắt cho chị làm những việc nhè nhẹ: bắt đầu sàng sảy, nhặt những hạt thóc, hạt sạn. Họ dạy cho chị cách trùm khăn cho bụi cám khỏi bám lên tóc. Rồi họ dạy cả cho chị hò. Hò ô, hò giã gạo. Họ thường kể chuyện đồng áng cho chị nghe. Nhưng chị đối với họ cũng là một nơi để cho họ thủ thỉ những tâm sự của mình. Chanh là người kín đáo nhất, thế mà rồi một hôm Chanh ngồi bắt chấy và nhổ những sợi tóc bạc cho chị, Chanh cũng dốc ngỏ cho chị những nỗi niềm sâu kín của mình như một người em ngã vào lòng chị.

Được nhận những chuyện tâm tình của những chị em, Vinh cảm thấy như được sống trong một gia đình ấm cúng vô cùng. Tất cả là trong một gia đình mà thằng Duy là đứa cháu bé dại nhất. Nó có các chú, các cô, các anh, các chị, và nó có cả ông nó nữa.

− Con nín đi, ông đi Hòa Mỹ về ông mua kẹo về cho.

 Từ dưới suối bước lên, bác Cầm đã bô bô cái miệng:

− Thằng Duy mô! Thằng Duy của ông mô?

Thế là Vinh lại bồng thằng Duy xuống để lãnh quà cho con. Chẳng có gì, nhiều khi chỉ là cái kẹo bằng que tăm. Nhưng mà chút ngọt đối với thằng bé ở rừng cũng là quý vô vạn. Và đó cũng là chút tình của ông đối với cháu. Bác Cầm đi đâu ba, bốn ngày không về là thằng Duy đã hỏi:

− Ôông đi mô mạ!

Mạ nó phỉnh nó:

− Ôông Tây bắt rồi!

Nó không tin, nó vừa khóc vừa kêu:

− Mạ phỉnh, mạ phỉnh, ôông đi Hòa Mỹ.

Thằng Duy còn có một người chú, chú Và. Chú là một thương binh, cụt cả hai tay và mặt chú đầy những vết thương. Ngày còn ở Huế, khi mới cướp chính quyền, thằng em chú vào cắm cờ ở trường Thiên Hữu bị bọn Pháp bắn chết. Cả Trung Bộ, chính quyền, bộ đội lên tận chùa Từ Đàm làm lễ an táng. Chú Và chú lấy dao chặt ngón tay út mà thề sẽ trả thù cho em. Chú vào bộ đội làm trinh sát. Trong trận Thuận Hóa, chú bị Pháp bắt, nó lấy dùi nung đỏ xăm vào mặt chú. Lần ấy chú trốn được. Lần thứ hai, trong trận Đồng Dương, chú bị bom một lúc mất cả hai bàn tay. Nay chú về ở chiến khu. Trại chú ở cũng gần ban xay, chú ở với mấy người nữa, − một tổ máy khâu, may đồ cho Tỉnh đội bộ dân quân, chú có nhiệm vụ, cứ vài ba ngày xuống đồng bằng tiếp tế thêm thực phẩm để bồi dưỡng cho anh em. Vì trong số anh em thương binh, chỉ có Và là làm việc được, còn phần nhiều yếu lắm, cần phải được bồi dưỡng thêm. Từ sáng sớm chú đã bảo người ta cài cái móc “cùi khách” lên vai, chú đi đến đâu thì tiếng hát đến đó. Có người gọi chú là con chim chiến khu. Có khi chú được coi như là cái đồng hồ.

− Các chị ơi! Không dậy mà làm việc, chú Và chú đã đi rồi đó.

Nhất là khi chú ở đồng bằng về, cả chiến khu 3 đều mong đợi chú. Ăn cơm xong, Chanh đã bồng thằng Duy đi đón chú Và.

Thằng Duy đưa tay ra một cách mau mắn, vì chú Và về thì thế nào nó cũng có quà. Không phải luôn luôn có kẹo bánh, vì chú Và làm gì có tiền mua? Nhưng nhiều khi chỉ là một trái ớt đỏ, một trái cà dê, một chùm “mù tru” mà chú đã xin được hay một vài cái vỏ hến hình thù kỳ dị.

Không riêng thằng Duy và chị Chanh là đợi anh Và. Những buổi chiều ăn xong người ta đều ra suối. Mấy chị ở Ty bào chế ngồi xũ tóc bên những tảng đá, đọc sách hay nói chuyện văn nghệ, chuyện tâm tình. Những anh cán bộ nhân viên các ty, các ban, ra xúm ba xúm bảy nói chuyện voi chuyện cọp hay những chuyện đánh giặc đồng bằng. Những chị ở ban “xay giã” cũng thừa chút ánh mặt trời tàn giặt phơi cái khăn trùm đầu hay chiếc khăn lau mặt. Những anh tiếp tế ngoài việc chùi nồi rửa bát còn lấy gạo buổi sáng hôm sau ra vo để cho ngày mai khỏi vội mà lại được ngon cơm hơn. Nhưng những người đó đều nóng ruột nhìn về phía đông trong ngõ lách mà nói:

− Bây giờ anh Và vẫn chưa về hỉ? Hay lại có chuyện gì rồi.

Mọi người bàn tán:

− Không khéo dưới ấy lại bị giặc lùng.

Người ta ngài ngại cho anh lắm. Đã có lần bác Cẩm nói với anh:

− Hai lần chết hụt mà rồi lần thứ ba chết thật đó. Tôi đề nghị với chú đừng đi nữa. Không bì các anh các chị ấy được. Họ lành lặn, gặp thằng Tây họ cũng quăng được trái lựu đạn, không nữa thì vùng mà chạy. Chứ chú không lẽ đứng để cho chúng bắt à?

Chú Và chỉ đáp:

− Tôi cũng biết thế, nhưng bác nghĩ tôi khâu không được, viết không được, tăng gia cũng không được, làm cái gì cũng không được cả. Thì chỉ có việc mang cùi đi như thế này nhờ đồng bào mua cho được cái gì thì bỏ vào cùi nấy về mà đỡ đần anh em đôi chút.

Chiều chiều mọi người đều trông chờ anh về. Có người trông anh như trông mẹ về chợ. Có kẻ trông anh như trông tờ báo hằng ngày. Anh chưa về, những người ngồi trên những tảng đá chưa muốn đứng dậy. Nhưng khi tiếng hát của anh vọng từ đằng xa, ấy là o Chanh trước hơn ai cả, cầm hai tay của thằng Duy vỗ vào nhau và nói to như nói dùm cho nó:

− Hoan hô! Hoan hô! Chú đã về.

Thế là mọi người đã xúm lại. Người ta đỡ cái cùi trên vai chú xuống. Người ta đặt xuống đất và sắp ra từng thứ một. Một mớ cà, một bát mắm ngọt, một mớ khoai lang và một chùm ớt xanh đỏ làm cho mọi người long cả mắt lên…

− Và gói gì đây nữa…

Tiếng chú Và đã hò lại:

− Đừng! Đừng! Quà thằng Duy đó.

Chanh cầm lấy, sung sướng, bồng thằng Duy chạy một mạch về trại. Và gọi giật Chanh lại, nói đùa một câu:

− Cho cháu chứ không phải cho cô đâu mà cô mừng.

Câu nói làm cho  mọi người cười rũ. Trước khi người ta sắp đồ vào cùi và mắc lên vai cho chú, người ta còn bắt chú kể lại cho họ nghe những tin tức mấy hôm nay, ở Phò Trạch, ở Ưu Điềm. Chuyện thằng Tây, chuyện Việt gian ở trong đồn, chuyện đồng bào làm ăn chống khủng bố.

Khi chú đã thuật hết và mọi người không biết hỏi gì nữa, thì như tờ báo đã đọc xong, xếp lại, thì mọi người cũng nhổm đít đứng lên. Thế là cái ngày hôm ấy ở chiến khu 3 đã kết thúc một cách hoan hỉ.

 

 

Chương II

NHỮNG NGÀY BI ĐÁT

 

Khi người ta ở đồng bằng ngủ bờ, ngủ trạng, có đêm hai con mắt thau láu không nhắm qua được một phút: nào chó béc-giê, nào Việt gian, nào bao nhiêu mối lo, nay lên được chiến khu, được yên ổn, có suối trong tha hồ mà lặn hụp cả ngày, có bóng im coi tờ báo cuốn sách không chút hồi hộp, thì người ta có một cảm giác khoái trá vô cùng. Có người bảo: “Cứ như thế này, dầu nước ruốc với cơm không giã kéo mãi cũng được”.

Nhưng mà rồi những thú vị đầu tiên cũng qua lần, người ta lại rơi vào thực tế càng ngày càng khó chịu. Những hạt gạo không giã cứ mỗi lần đi ngoài vẫn còn nguyên hình. Những nồi nước ruốc cứ thêm nước dần, mà bớt ruốc lại.

Lúc đầu có người tự an ủi: “Thôi miễn là có chút nước, đẩy miếng cơm vào là được rồi”. Nhưng mà dần dần, đến bữa cơm, đứng trước những nồi nước ruốc đầy bặp, người ta có cảm giác đến rùng rợn, ngao ngán. Có người đã phải bảo: “Giá không có mấy bát cơm thì làm răng mà húp cạn được cả cái nồi nước ruốc to tướng ấy”.

Nhưng cái khổ sở, cái tai nạn chính của chiến khu chính là thời tiết, bệnh tật. Những ngày mát rớt lại của mùa xuân đã qua rồi! Suối con đã cạn nước, đến cả suối lớn chỉ còn là một dòng nước chảy ri rỉ. Ngồi một lúc ở suối, muỗi cắn nổi mụn đầy người. Số người sốt rét đã lên đến 50% rồi 60% và cuối cùng đến 80% rồi. Bộ đội, công nhân, cán bộ nằm la liệt. Đã có những người cuồng vì sốt rét. Khắp chiến khu người ta nói chuyện chị Oanh, một nhân viên của Ty bào chế, một thanh nữ 16-17 tuổi sau mấy cơn sốt rét tự nhiên phát điên. Có hôm chị không kể gì áo quần rách nát chạy từ cơ quan này đến cơ quan khác, nói những lời rất tục tằn hay thét lên những lời chửi rủa thô bỉ  đối với bọn thực dân Pháp. Có hôm chị ăn mặc rất tươm tất, trên mặt bôi phớt một chút phấn hồng, tay cầm nhành “lách” xon xon nhảy qua suối hát những điệu rất tình tứ. Có kẻ cho rằng Oanh điên vì tình. Bác sĩ thì chứng nhận một cách quả quyết: Chị điên vì sốt rét… Trời càng nóng, nước khe càng khô thì chị càng điên hơn nữa.

 

***

 

Từ sáng sớm Trại y tá chiến khu 3 đã chật ních những người. Được có một cái sập thì những người bệnh tới trước đã chiếm mất rồi. Những người tới sau, ốm nhẹ ngồi dựa vào chân sập, ốm nặng nằm bừa cả xuống đất. Bác Cầm ngồi ở một góc, lâu lâu uốn lưng một cái, những đốt xương sống của bác kêu răng rắc. Nghe tiếng rên “hừ hừ” của những người bệnh, mặt bác nhăn nhó, miệng nói lẩm bẩm một mình. Xốn xang khó chịu về những tiếng rên trong trại, bác chống gậy bước ra ngoài. Bác ngồi dựa lưng vào một cây mít nài. Chống lại sự dằn vặt của cơn sốt, bác chỉ rít chặt hai hàm răng. Thấy có người khấp khểnh bước vào, bác nheo mắt lại nhìn. Khi nhận ra được là bác Cẩn ở ban sửa chữa vũ khí thì bác gắng cười hì một cái, nói với bác Cẩn:

− Té ra là cái quân sốt rét nó cũng không nể ba thằng già mình nè! Úi chà! Trong nớ (bác trỏ vào trại) anh em họ “đờn hòa” (1) với nhau vui đáo để, vô xem một chút. Không thì ngồi đây với tui.

Bác Cẩn chẳng nói chẳng rằng cũng ngồi lại bên bác Cầm, lưng dựa vào cây mít nài.

Trong trại, giữa đám bệnh, anh y tá trẻ loăn xoăn lít xít một mình, hết vực người này nằm xuống lại vén chăn cho người kia. Lâu lâu anh chổng mông lên phùng mang trợn mắt, thổi phành phạch vào bếp lửa để nấu cái ống tiêm.

Anh bệnh nhân ngồi dựa ở chân sập, mở mắt ra thấy anh y tá vẫn thổi phành phạch mà lửa vẫn tắt lên tắt xuống, hắn thở dài một cái, và thốt ra một câu như chẳng nể nang gì anh y tá:

− Tui đã rầu mà ngó anh thêm bực!

Anh y tá trẻ vẫn chẳng lưu ý gì đến câu nói của anh bệnh nhân, vẫn kề sát miệng vào bếp thổi, tro mun bay đầy mày đầy mặt. Hú vía! Nước quả đã sôi thật! Cái ống tiêm bắt đầu bắn lên bắn xuống lạch cạch. Anh y tá thở ra một cái hả hê, quay lại nói với đám bệnh:

− Anh mô, chị mô tiêm trước dậy mà tiêm.

Thế là cả đám người nằm trên sập lồm cồm ngồi dậy cùng một lúc, làm cho anh y tá đôi mắt đảo đi đảo lại một cách hoang mang:

− Thôi các anh các chị nằm xuống đã. Tiêm cho ông Sinh trước cái đã để ông về. Kính lão đắc thọ…

Bác Cẩn nghe tiếng “kính lão đắc thọ” giục bác Cầm:

− Ta vô tiêm trước đi bác!

Bác Cầm hừm một cái:

− Xôi thịt chi mà “lão” với “tráng”; ai tới trước thì tiêm trước, ai tới sau thì tiêm sau cho khỏi lộn xộn.

 Nhưng khi tiêm xong người thứ nhất, người thứ hai, thứ ba, bỗng anh y tá cầm lấy ống thuốc vàng lắc đi lắc lại và kêu lên:

− Chết cha! Hết thuốc rồi bà con nờ!

Câu nói của anh làm mọi người chồm dậy sửng sốt. Có tiếng nói cáu kỉnh: Chớ anh cầm nơi tay không phải là thuốc, thì là chi đó? Anh y tá bình tĩnh đáp: Nhưng mà thuốc ni không tiêm được.

Thế là từ đám bệnh nhân, nhao nhao lên mỗi người một tiếng:

− Anh ni đến là ngớ ngẩn! Thuốc gì là thuốc không tiêm được?

− Không tiêm được thì người ta chế ra làm gì?

− Không tiêm được thì răng không nói trước, chờ cho bầy tui đến đây rồi mới nói.

Anh y tá ráng gân ráng cổ phân trần cho được:

− Thuốc ni là do bên Ty bào chế ra. Số là bà con chưa rõ...

Tiếng xôn xao của quần chúng như át cả tiếng nói của anh:

− Bà con để cho tôi nói hết đã. Ty bào chế vì thuốc tiêm thiếu, cho nên đã phải lấy thuốc viên chế thành thuốc nước để tiêm. Mấy lần trước không sao cả. Nhưng lần này, tiêm vào có người sốt thêm. Ty bào chế đã có lệnh thu hồi. Nhưng chưa thu hồi kịp.

Có tiếng nói run run:

− Chúng tôi điên lên rồi đây! Anh cứ tiêm đi, có răng chúng tôi chịu.

Anh y tá vẫn khăng khăng:

− Thà tôi nằm cho bà con đánh, chứ tiêm, tôi nhất định không tiêm.

Có tiếng thét:

− Nhất định không tiêm à? Hay là anh cứ giữ lại để tiêm cho bà con làng họ nhà anh?

Câu nói này làm cho anh y tá như không còn giữ được vẻ bình tĩnh nữa. Anh tức uất ức lên không nói ra tiếng, hai giọt nước mắt anh bỗng long lanh lăn trên má.

Bác Cầm, từ bên ngoài chen vào, thủng thẳng cất tiếng:

− Cái chi rứa bà con! Ốm thì  không phải chỉ có các người ốm mà thôi. Chúng tôi cũng đau mới đến đây chứ! Nhưng mà thuốc hết thì người ta nói thuốc hết, thuốc tiêm không được thì người ta nói thuốc tiêm không được. Các người không lẽ lấy áp lực bắt anh ta cũng cứ tiêm thuốc giết người à? Người ta lo cho sinh mạng mình, lại nhè người ta mà “xạc” ! Các người đau các người sinh “chướng”.

Câu nói của bác làm cho mọi người im hẳn. Anh y tá lấy tay gạt nước mắt, đoạn lấy khăn ra, lau lau chùi chùi cái ống tiêm một cách mải miết như không có việc gì xảy ra hết.

Trong lúc đó, những người bệnh nhân hậm hực theo nhau bước ra. Đợi cho mọi người đi hết, bác Cầm mới lại kiễng chân đi.

Cơn sốt hình như đã bắt đầu lên rồi. Cả thân mình bắn lên bần bật, bác vẫn nghiến chặt hàm răng miệng lẩm bẩm:

− Cho mi giỏi, mần chi đó cứ mần! Để xem mi thắng hay tao thắng!

 

***

 

Một tin  mới đã làm cho chiến khu 3 xôn xao bàn tán: chuyện vợ con anh Cang về Huế. Kể thì chẳng bao người quen biết anh Cang, nên cũng chẳng ai lưu ý đến chuyện vợ con anh. Nhưng đối với anh đó là một tin quan trọng cần phải loan báo cho mọi người.

Đã bao ngày rồi anh lơ là công việc, giờ nghỉ là anh lê la từ cơ quan này đến cơ quan nọ để nói chuyện vợ con anh về Huế. Trông vẻ mặt anh thê thảm. Thấy anh từ đằng xa là đã khiến họ muốn tránh đi, gặp bác Cầm anh đã lên giọng đau xót:

− Bác nghĩ vợ con tôi nó tệ đến rứa. Tôi đi hôm trước thì hôm sau nó ôm con xuống đồn Sơn Tùng kể lể sự tình rồi xin vô Huế. Lên đây chân ướt chân ráo là tôi đã viết thư về cho nó mà không kịp.

Bác Cầm an ủi:

− Đồn Sơn Tùng anh không biết là đồn chúa lê-dương [a] à? Cái thứ đàn bà dám dẫn xác đến đó tôi nghĩ cũng là cái thứ nỏ ra chi. Ôi xao! Hắn đã xử tệ với mình rứa thì cứ quên phứt hắn đi là ổn chuyện. Quên phứt đi! Rồi mình làm mối cho một ả trên này. Để hôm mô dẫn đi xem mặt. Đóng kịch phụ nữ cứu quốc thì tuyệt mà hò ân tình ân nghĩa, hò kháng chiến, là số 1 ở chiến khu.

Nói xong bác cười hì hì… Giữa lúc đó, cái mặt anh Cang vẫn sầm xuống thê thảm:

− Cứ quên dễ như bác nói thì còn phải nói.

− Không quên được thì nhờ công an nhắn chị nớ lên, hay bắt chị nớ lên, chớ còn làm răng nữa?

Nói xong bác kiễng chân đi không thèm nói lại. Chiều ấy anh lên cơn sốt.

− Đắp cho tôi cái chăn nữa! Đắp cho tôi thêm cái chăn nữa đi, nhanh lên!

− Bà con đứng lên lưng cho tôi một chút!

− Đứng cả dép lên thế cũng được..

Cứ mỗi lần lên cơn sốt là miệng anh lại la oang oác như thế. Tỉnh được một lát rồi thì như những người sốt lúc bấy giờ đâm nói mê nói sảng, những cơn sốt tháng 6 tháng 7. Có khi anh đưa tay bắt chim như kiểu các ông bà cụ sắp tắt hơi. Có khi anh bò số 1 số 2 kiểu tự vệ dân quân. Từ ngày được tin vợ con anh về Huế, trong cơn mê anh lại hay nói chuyện Huế. Chuyện cà phê Lạc Sơn, chuyện đò sông Hương, đèn xanh đèn đỏ. Thấy chị Vinh bồng thằng Duy đi qua anh kêu lên:

− “Mần” một bài “nam bường” nghe chơi! chị Vinh! Chào, con mẹ Cang tôi hắn nói chị ca hay lắm đó!

Rồi anh lại nói một mình:

− Răng chừ cho mình về Huế, ăn một bữa bún bò. Cái xứ chi lạ! Những con cá phác lác nầy! Những con cá “bống thệ” nầy. Những con cá oong hương, oong hoa, oong cỏ, oong căn…

Giữa lúc anh đang tha thiết đếm kể từng thức ăn thích khẩu của xứ Huế, con Diên như đi chực sẵn ngoài sân, cất cái giọng rất thanh, rất ngọt của những chị bán chè đêm ở Huế:

− Bánh ú đường cát! Ai ăn chè thịt quay đậu ngự!

Thế là trong này sự nhớ nhung của anh Cang lên đến tột độ, anh bật khóc như đứa trẻ con. Thêm được một dịp cho anh em trong cơ quan nhắc lại mà đùa trêu anh, trong những bữa cơm nước ruốc chán ngắt.

***

Chị Vinh cũng như cả ban xay vẫn chưa ai sốt. Người ta thường nói ở núi rừng, đàn bà có sức chịu đựng với thời tiết hơn đàn ông. Trông cái không khí uể oải ở chiến khu, Vinh cũng cảm thấy nặng nề mệt nhọc quá. Hằng ngày đi qua trại “vận tải dân quân” chị thấy những cảnh tượng chẳng đẹp mắt tí nào. Những bộ mặt xanh xao nằm nhự nhẫn  giơ những ống chân như ống hóp. Vài tiếng rên rề rề, có những tiếng kêu thét ầm ỹ. Những lời gây gổ khấu ó nhau. Mỗi buổi sáng khi y tá lướt qua thì không khí trong bệnh xá (vì trại dân quân đã biến thành bệnh xá) lại xao động lên được một lúc. Những ai đau nặng mới được tiêm một vài mũi thuốc. Phần lớn các bệnh nhân chỉ đợi giờ y tá đi qua rồi để mà bực dọc hơn, hậm hực hơn.

Anh y tá cũng đang sốt dở. Đã đến lúc anh không còn đi khám đúng giờ nữa. Chỉ khi nào không sốt anh mới mang kim ống đi làm việc. Một sự thật làm chị Vinh không thể ngờ được trong cái đống người đang ngồi gỡ ghẻ, có một hôm chị thấy ai như anh Thìn, liên lạc viên trên con đường đồng bằng − chiến khu, chị lén cúi xuống nheo mắt lại để nhìn cho rõ hơn, anh Thìn múa may quay cuồng, bao giờ cũng giống như con lật đật. Vui như thế, hăng như thế. Mà nay ngồi thừ một đống.

Thìn lên tiếng trước:

− Thìn đây! Chính Thìn đây! Chị không nhận ra à! Thằng Duy mô?

Chính khi chị Vinh đi qua, thì Thìn cũng đương ngồi tay cầm một cành lá, phẩy phẩy đuổi những con bọ mát bu trên những cái ghẻ hờm ở chân. Áo quần anh “troạng” chỗ nào thì có những dây rơm cột túm cột tíu lại chỗ đó. Đôi mắt vẫn sắc lẻm, giọng nói vẫn sang sảng. Nhưng mặt thì vàng bệch, chân tay như những cây que. Không đợi chị Vinh hỏi anh đã đáp trước:

− Chị nghĩ, cứ lên xuống chiến khu mãi, chi cho khỏi sốt. Cứ mỗi lần đi chiến khu về là sốt một cơn “thấy cha thấy ôông”. Đỡ đỡ một chút lại lên mần thêm một bụng nước độc nữa, về lại ngã quỵ xuống như con “trâu chạng”. Lần ni thì ban kinh tiếp tế cho phép nghỉ, ở hẳn trên này làm việc, dưỡng bệnh.

Bỗng chộp được lại được cái tư thế liên lạc viên hằng ngày, anh hất chéo cái chân qua, cười hì hì…

− Lên đây nó không sốt nữa. Nhưng chị nghĩ có bao nhiêu tóc là nó rụng tuốt hết.

Vừa nói anh vừa đưa tay vuốt một cái từ sau ót đến trán, rồi lại cười hì hì...

− Cái giống nó cũng lạ! Hết sốt một cái là rụng không còn sợi tóc. Mấy bữa ni phát ghẻ ruồi cả người, gãi suốt đêm.

Chị Vinh chống chế cho anh:

− Ấy! Ấy! Cứ để cho nó lở. Hắn mà phát ghẻ ra tức là hết sốt hẳn rồi đó.

Dầu sao thì sự gặp lại Thìn và mẩu chuyện thoáng qua về Thìn đó cũng làm cho đầu óc chị thêm trĩu nặng. Nghĩ đến thằng Duy, chị giật mình… Tội nghiệp thằng bé mới có ba tuổi, thế mà đến khi lên cơn sốt nó cũng run bật bật như người lớn, phải cuốn mấy tầng chăn mà ôm sít nó vào lòng.

− Mình răng cũng xong, chứ con cái mà không có chi giữ sức khỏe cho nó thì chẳng bao giờ khỏi sốt được.

Nghĩ đến thằng Duy rồi chị liên tưởng đến con Diên. Con bé ấy thế mà quý hóa lắm! Thảo ăn, thảo uống. Hễ có được miếng đường nào là từ trên kho chạy lọc xọc xuống đút cho thằng Duy. Cũng nhờ mấy miếng đường của con Diên mà thằng Duy cũng bớt “làm nước”. Nhưng mà sao về nó, mấy hôm nay có bao nhiêu dư luận. Chị nghe đến rức óc. Rồi trong đó chị cũng phải chịu một phần trách nhiệm.

Bà Tảo mấy lần nhắn cho Chanh và Vinh, bảo phải coi chừng con Diên thì lần nào sau mỗi khi hội ý với Chanh chị đều trả lời: “Diên nó ngoan ngoãn, công tác có phần tiến bộ”. Nhưng sáng nay, một cái tin tràn lan ra cả chiến khu 3: Con Diên dan díu với anh Hậu. Bác Cầm bắt được. Anh Hậu nào? Anh Hậu giữ kho chứ anh Hậu nào nữa! Chị Vinh ngã người ra. Chanh ngã người ra vì họ không thể ngờ được cái anh Hậu rất tận tâm với công việc, rất trung thành với Chính phủ, với của công… Trên 40 tuổi, có vợ có con, ăn nói như cú vọ, mà dám yêu con Diên. Mà lạ hơn, con Diên nó có thể yêu được một anh như thế. Thật là một cuộc tình duyên quái ác.

 Nguyên do cũng là chứng này chuyện: Anh Hậu giữ kho, hằng ngày cứ mang những miếng đường ra đếm ra phơi. Cũng chẳng có lạ gì con người ở rừng ở núi, thấy chất ngọt mắt sáng lên như thấy ôông mệ sống lại. Mỗi khi đem đường ra đếm thì Diên lại lân la ngồi bên cạnh. Nay nhấm một chút, mai khới một chút, như con chuột con. Trước con mèo nó còn hị họe nhưng sau quen dần chuột ta cũng bạo dạn hơn. Cho đến một ngày kia những lời dịu ngọt đưa qua, những cái liếc tình trao lại, mèo đã đưa gửi cả hũ đường cho chuột! Rồi mối tình mèo chuột cuối cùng cũng đã vỡ lở. Cũng chỉ vì trong lúc toàn chiến khu 3 người ta đang khao khát miếng đường thì người ta thấy con Diên ngậm nơi miệng xồm xoàm những cục đường to tướng. Cho đến một hôm, bác Cầm đi vào kho bí mật lấy đồ quân trang, thì trong bụi nghe có tiếng sột soạt. Bác tưởng gấu, lấy đá liệng. Lúc đầu vẫn im lặng… Mãi sau không chịu được những hòn đá, hai anh chị gấu mới bật ra chạy. Bác Cầm thấy rõ bóng anh Hậu và con Diên.

Được tin chị Vinh sửng sốt cả người, chị chỉ thốt ra được một câu: “Quân chó đẻ thật! Té ra bấy lâu đường nó cho thằng Duy là nó lấy trộm ở trong kho. Nó kéo con mình đồng bả với nó”; nhưng cái điều mà chị lo ngại nhất là rồi đây biết báo cáo thế nào với bà Tảo. Chị Đức nói: Bà mà biết chuyện này thì bỉ mặt cả tụi. Không những Vinh, Chanh mà cả chị em trong ban xay đều có một cảm tưởng như thế.

 

***

 

Giữa lúc đau liệt người ta không thôi chào xáo hoảng hốt về cái tin anh Và đã đi đồng bằng ba hôm rồi mà chưa thấy lên. Một tin cuối cùng, có thể coi là đích xác, đã được công an huyện Phong Điền chứng nhận, anh Điền vừa đến gần bên Đốt thì gặp  một bọn Pháp đi lùng qua sở ông Quận về. Tây thấy anh thì chúng bắn một loạt. Không biết anh còn bị thương nữa chớ điều chắc chắn là anh đã bị bắt. Tin ấy truyền ra. Chẳng bao giờ còn được thấy cái quang cảnh rộn rịp đón anh Và về để xem những của lạ vật tươi hay nghe những tin tức sốt dẻo ở dưới đồng bằng. Tờ báo đã đóng cửa. Bác Cầm được tin bác nhẩy dựng lên, hai tay bứt hai mái tóc:

− Tao nói, không nghe! cho chết! cho chết! Không ai thương mô! Can ngăn mấy lần rồi mà không nghe, một hai đi cho được!

Nói thì tuy hung dữ như thế, nhưng trông lên hai tròng mắt bác đã dàn dụa. Bác kêu lên như ai véo vào da thịt:

− Những thằng già nầy thì không chết mà những đứa trẻ can trường nghĩa khí như rứa thì trời cứ để chết dần chết mòn hết!

Vì bác tin rằng lần này anh Và bị bắt là nhất định bị chúng nó bắn ngay. Bác nói:

− Nếu quả chúng nó bắn thằng Và, tao xin ông Lâu cho được một thằng tù binh về làm một bữa mắm cho cả chiến khu 3. Đằng này chúng đơm được con mô thì ăn gỏi ngay, còn mình bắt được con mô nuôi cho béo để rồi thả.

Đi xuống Hòa Mỹ, cứ nghe người ta hỏi tin anh Và mãi, lắm lúc bác đã phải gắt lên. Một hôm có người hỏi bác:

− Anh Và nào bị bắt? Có phải anh Và cụt cả hai tay không?

Bác gắt:

− Hắn cụt hai tay chớ bằng trăm bằng ngàn những thằng lành lặn khác.

Nhưng người đau xót nhất trong chiến khu 3 là chị Chanh. Lần thứ nhất nghe tin chú Và bị bắt, chị nắm chặt tay chị Vinh mà nói, bình tĩnh như không:

− Đã chết thì chết mấy lần trước rồi! Tôi tin anh chả bị bắt mà cũng chả bị bắn.

Nhưng mà bây giờ thì chị tin rồi. Chị nói với chị Vinh:

− Thiệt sống chết như một giấc chiêm bao. Nói đến anh Và là y như tôi lại thấy anh ấy đứng sừng sững trước mặt tôi. Có bữa tôi lên, anh ấy sắp ăn cơm, anh bảo tôi lấy cái muỗng cột vào tay cho anh. Lại có một hôm, trời nắng, anh mới đi về mệt, gặp tôi giữa đường anh bảo tôi cột cái khăn tay vào cho anh lau mồ hôi. Lần cuối cùng đây, cách một tuần lễ, anh lên kho chơi, bữa ấy các chị đi vắng cả, có một mình tôi ở nhà. Anh ngồi một lúc lâu, rồi mới bảo tôi: “Chị cột cái bút vào tay cho tôi một chút”. Rồi anh lấy giấy ra viết.

Vinh nhìn Chanh, hỏi:

− Viết thư cho ai?

− Nỏ biết! Chỉ thấy anh viết xong rồi xé.

Rồi Chanh kết luận một cách đau xót:

− Bây giờ thì họa có ai theo anh xuống đất mới rõ được.

− Chị lại hay nói gở. Chứ biết mô lần ni cũng như mấy lần trước anh lại trốn về được.

***

 

Một cái lệnh của bà Tảo làm cho mọi người nở gan, nở ruột: Kho bí mở cửa, mỗi ngày sẽ phát bí cho cơ quan. Bí sẽ đưa máu lại cho chiến khu. Bí sẽ làm cho những vẻ mặt trở lại hồng hào… Sáng hôm nay, Vinh bước lên kho, có cảm tưởng nhẹ nhàng sung sướng là những đội quân trù bị hùng hậu nhất của mình sắp ra trận. Vinh tự mình ôm từng “anh” một, từ sàn xuống sân… Những “anh” còn mang rõ số hiệu ghi rõ vôi của mình.

Vinh sắp hàng hai, rồi hàng ba, hàng tư. Vinh đi đi lại lại, tưởng chừng như làm một cuộc duyệt binh. Các anh các chị ở mỗi cơ quan đã đến tấp nập để chờ lãnh phần…Vinh lấy tay búng vào từng đầu anh bí một cách hào hứng:

− Này chị Bích! Vào đây tôi phát cho cái anh 11(1) này. Anh này chắc chị phải ưng, mà không kén chọn nữa!

− Chị ấy chắc không thích số 11 đâu! Có anh nào mang hiệu C.A. thì phát cho chị ấy.

Chị Bích bào chế thẹn đỏ cả mặt. Mọi người đều cười. Chị Vinh đáp:

- Đây không có C.A. cũng không có U.B.K.C. Ở đây chỉ có bộ đội ai không ưng thì thôi.

Một tiếng nói to ở dưới:

− Chị ấy không ưng thì để 11 đó cho tôi… cho tôi.

Chị Quýt ở bệnh viện Quân y đã rẽ đám đông tiến lên. Chị chạy lại giật lấy quả bí 11 trên tay chị Vinh, rồi chạy ù về chỗ mình.

Từ đám đông, nổi dậy tiếng hô to:

− Hoan hô! Hoan hô tinh thần ủng hộ bộ đội của các chị bệnh viện!

Một câu chuyện bất ngờ trong ngày phát bí, đã đưa lại cho cái đám quần chúng vàng phạch kia vì sốt rét, một nỗi vui phấn khởi…

Các cơ quan lần lượt lãnh phần bí của mình, mỗi người tưởng chừng như được đem về cơ quan mình một nguồn sống mới.

 

***

 

Cái vui vừa reo đến cơ quan chưa được bao ngày thì một lệnh mới của bà Tảo về việc phát bí: Bà phê bình Vinh là không làm đúng tinh thần chính sách tiết kiệm.

− Sao lại cứ phát toàn những trái tốt, trái lành. Còn những trái bầm, trái thâm thì rồi ai ăn cho?

Câu nói ấy của bà Tảo làm cho Vinh khi bước lên kho bí, tan hết cả chút hào hứng vừa chớm nở trong mình. Vinh gõ đầu từng tên bí một… bưng lên, lật đi lật lại…

− Thằng này loại được rồi đây.

− Thằng này không mai thì mốt.

− Còn anh này nữa, đáng lẽ anh này cũng đến số rồi… nhưng thôi cho anh này ở lại một hôm nay nữa.

Những câu độc thoại đó, giá lọt vào tai người nào khác, thì nghe như lẩm cẩm lắm. Thế mà những câu nói đó, cũng như những câu thần chú để đuổi tan cái không khí ẩm lạnh trong kho bí…

Sáng hôm nay thì Vinh như chứng kiến một cảnh tượng tòa họa ở kho bí:

− Sao mà hư thối nhiếu thế này?

Những tên bí bị loại sắp ra giữa sân, kể có hàng chục,… la liệt như những người sốt ở trại dân quân vận tải.

Vinh có cảm tưởng như một bác sĩ bất lực trước một đám bệnh nhân. Chị ngồi phệt xuống đất một cách ngao ngán:

− Thì ra những trái bí ngon lành chẳng bao giờ được ăn tươi ăn ròn cả.

Trong lòng Vinh, có một cái gì hình như tức uất lắm.

− Tiết kiệm? Người ta nói đó là chính sách tiết kiệm à? Tình trạng này thì kho bí hết mà không ai được một miếng ngon lành.

Vinh nghĩ đến những người ốm, đến những công nhân ở xa đến 5-7 cây số, từ rừng sâu ra để rồi chỉ lãnh được một vài quả bí thối.

− Không, không thể như thế được!

Chị Vinh cảm thấy mình − mà nào phải là mình − là một bà già ác nghiệt. Lòng chị như nghẹn ngào. Chị làm sao quên được cái đêm 14 tháng 6 khi các chị em cơm tối xong, vừa đi ngủ thì thấy có bó đuốc từ trên dốc xuống, và nghe có tiếng rên. Các chị em đều thức dậy xôn xao. Chắc cáng thương này cũng lại ở trong xưởng ra hẳn? Cũng lại là một tai nạn nữa về thử lựu đạn chứ gì? Cáng đi qua, Vinh với đầu ra hỏi:

− Ai rứa?

Một anh gánh đáp:

− Anh Minh.

− Đau gì?

− Sốt rét.

Minh ngắt tiếng rên, cố đưa hết hơi sức mà nói với chị:

− Minh đây. E chết thôi! Chào chị! Chào tất cả!

Ba hôm sau thì Minh chết thật. Chị Vinh nhớ đến tiếng chào của Minh mà ghê lạnh. Tưởng chào chơi thế thôi mà hóa ra chết thật. Chị không sao quên được cái người công nhân hiền lành, hay cả thẹn mà Diên thường hay cắp đôi với chị Đức… Và cũng vì sự cắp đôi đó mà Minh mỗi lần đến kho nhận thức ăn, anh có vẻ thập thò như chú rể… Chị tự nghĩ:

− Tội nghiệp! Chớ chi mấy bữa đau đó mà có được một miếng bí thật tươi mà ăn! Biết mô anh lại khỏe ra được.

Chị thấy một cái gì như đè nặng lên ngực, không sao thở được.

 

***

 

− Cái gì thế? Cái gì mà ồn ào thế các anh, các chị?

Cái đám người tới nhận gạo và thức ăn xúm lại rồi rẽ ra hai bên, để cho Oanh bào chế tiến kên. Hai má Oanh đầy phẩm và hai môi đỏ choét. Người thiếu nữ cầm ở tay một cành “lách” rừng bông trắng phếu, vừa đi vừa phất. Oanh tiến lại gần Vinh; Vinh không hiểu sao cũng đứng dậy. Oanh thấy cái quần Vinh mặc rách vá nhiều chỗ liền hỏi:

− Tội nghiệp, sao áo quần Vinh lại rách rưới thế này? Có phải ba thằng Tây đuổi chị rúc bụi rúc bờ? Phải rồi! Chính chúng nó đó! Bắt lấy! Băm xác chúng cho tôi! Rồi Oanh đưa cây lách phất vào đầu Vinh và nói như ngâm:

− Em sẽ luyện cho bao nhiêu châu ngọc lại về với chị…

Rồi Oanh cười ngặt nghẽo, mọi người đều phì cười theo. Duy chỉ có Vinh cứ đứng ngẩn người, dở cười mà dở khóc. Vinh đi một mạch về trại của mình. Thằng Duy khóc, chị cũng để mặc, chị bước lên sàn, ngả lưng xuống như một cây thịt đổ. Như mỗi khi có sự gì buồn nản chị lấy quyển tập ảnh ra xem. Quyển tập ảnh mà chị phải tranh đấu biết bao mới giữ lại theo mình cho được. Một lần ở Văn Xá chạy Tây nhiều đồ đạc chị phải bỏ lại mất hết, thế mà quyển tập ảnh chị vẫn mang theo bên mình. Lại có cái hôm từ đồng bằng lên chiến khu, ba lô trên lưng đã nặng quá, chị toan rút quyển ấy gửi lại cho đồng bào, nhưng cuối cùng, chị cả quyết mang theo. Chị mở ra, nhìn lại như nhìn một cuốn phim chiếu lại cả một đời mình. Cái ảnh khi chị 10 tuổi, đầu tóc cặp “bôm bê”, cổ đeo kiềng, hai tay vòng lại trước ngực, đứng sát bên thày chị… Cái ảnh khi chị 15 tuổi, chị nhớ rõ mầu áo hoa lý hôm chị mặc để đi chụp ảnh: cuộc đời đương lên trước  mặt như mặt trời mùa hạ. Rồi năm 20 tuổi, bộ điệu đã trở nên nghiêm trang đứng đắn… Những ảnh cuối cùng cách đây đã bốn năm: Những tấm ảnh phơi phới bên cạnh chồng vui vẻ tin tưởng ở cuộc đời. Người chồng của chị đã chết năm chị 26 tuổi. Hình ảnh chồng sau mấy năm tưởng chừng như đã xóa mờ… hôm nay lại vụt hiện lại, nồng nàn. Đã mấy tuần nay chị không giở đến cái gương nhỏ ở trong mình. Nhưng mà mặt chị chắc hốc hác nhiều lắm… Mới 30 tuổi, mà đầu đã lốm đốm nhiều tóc bạc.

− Mới có một năm mà già mau quá!

Bỗng chị gấp quyển ảnh, nước mắt chị lại dàn dụa.

 

 

 

 

 

Chương III

KẺ LÀNH NUÔI NGƯỜI ỐM

 

Trước tình thế chán nản, đau ốm la liệt của các anh em chị em, Chanh cơ hồ như bị hoang mang, giao động. Chanh không hề mệt mỏi chán nản nhưng tình thế như thế đó thì phải làm thế nào? Thật ra chị cũng không tìm ra manh mối. Lắm lúc chị thoáng nghĩ đến Và.

− Giữa lúc này mà có những người như anh thì chẳng có chuyện gì mà không vui cả.

Và đối với chị là cả một niềm tin tưởng mãnh liệt, mắt chị bỗng sáng lên.

− Nói rứa mà lúc này anh lại lồng lộng về thì hay biết mấy. Biết mô anh còn sống trơ trơ ra dưới nớ!

Từ hôm đó, công an, quân báo trung đoàn cũng không có tin gì hơn về anh Và nữa. Dầu sao mỗi lần nghĩ đến Và, chị cũng thấy như một cái gì đè vướng lên lòng mình.

Nhưng từ cái giây phút ở Hội nghị cán bộ chiến khu 3 ra, Chanh cảm thấy vui sướng và tin tưởng. Hội nghị đã đặt ra kế hoạch cụ thể để hướng dẫn chị làm việc, đối phó với tình thế gay go. Ghé vào chị Vinh, Chanh báo cho chị Vinh biết rằng: chủ trương ban tiếp tế chiến khu từ bây giờ sẽ thay đổi; kho từ nay sẽ không hoàn toàn chỉ phát những bí hư bí thối như trước nữa, mà mỗi cơ quan sẽ lãnh một nửa số bí tốt, một nửa số bí xấu.

Vinh đương nằm ngồi phắt dậy:

− Có rứa chứ! Có rứa chứ! Không thì nước nớ e mình ăn cạn cả kho bí mà không kiếm được một miếng bí ngon lành.

Trong người bỗng nhiên như thấy nhẹ nhõm hẳn, chị đi theo Chanh xuống kho xay.

Diên sốt đã hơn một tuần nay. Người mạnh bạo như Đức cho đến bác Phiếm, bác thợ cối ở đồng bằng vừa lên, cũng ngã rồi. Bác vừa bày ra đục đục đẽo đẽo, tiếng gỗ chan chát của cây đục vào gỗ mít đã đưa lại một chút nhộn nhịp giữa cái không khí có phần uể oải của ban xay, thì tiếng đẽo đó cũng lại vắng bặt!

Bác Phiếm nằm rên ở một góc. Nhưng từ khi Hậu bị đưa ra làm công tác khác (cũng vì đánh cắp đường của kho mà cho Diên), và ban kinh tiếp tế điều động Thìn lên thay, thì tiếng nói cười đã lại bắt đầu rộn ràng ở trên kho.

Thìn cũng chưa lại sức hẳn, mặt vẫn bạc phệch, những nốt ghẻ ruồi vẫn lấm chấm cả người. Nhưng những câu chuyện của anh đã làm cho Đức giữa cơn sốt mê cũng phải phì cười và gắt lên:

− Con yêu, có để cho người ta nghỉ xác một chút không?

Bác Phiếm cũng gắt lên:

− Đừng kể lảm nhảm nữa! Xuống bếp cho tôi xin bát nước.

Nhưng mà Thìn vẫn kể. Chị Đức, bác Phiếm cũng như mọi người vẫn thích nghe. Thìn vừa kẻ mấy chữ khẩu hiệu, vừa kể mấy câu chuyện kháng chiến, những chuyện đời xưa. Thìn cũng không ngại kể những câu chuyện tiếu lâm cho các chị nghe. Hễ làm cho mọi người cười bò ra là Thìn thích ý rồi.

− Các chị đừng có chửi thằng này, chứ cứ để hắn làm các chị cười bò ra rứa là mau hết sốt đó. Tiếng cười có người bỏ ra mua mà không được đó, các chị nờ.

Những khẩu hiệu Thìn vừa dán lên cột thì Vinh và Chanh bước vào. “Kẻ lành nuôi người ốm” chữ to, dán vào ngay chỗ chính giữa kho. Và một khẩu hiệu nữa chữ nhỏ hơn, dán vào chỗ ban sàng sảy làm việc: “Không để một hạt thóc lẫn trong bát cơm người ăn”.

Chanh vừa bước vào thì Thìn đã khoe:

− Chị Chanh đã chịu tôi chưa? Hội nghị, chị chưa về đến nơi mà ở nhà đã có khẩu hiệu chăng ra rồi đó.

Quay về phía Vinh:

− Những chữ “tờ hờ” của tôi trước kia là tôi cho khum khum hết, bây chừ thì tôi cho thẳng lưng lên cả.

Vinh không đáp vì đương nghĩ đến nội dung cái khẩu hiệu dán cạnh chỗ mình ngồi: “Không một hạt thóc…”. Cái khẩu hiệu đó đã làm cho Vinh suy nghĩ nhiều lắm. Thực ra đó cũng là một tâm trạng của mình. Chính hôm qua đây khi trong mình uể oải, mệt nhọc, Vinh phải lên kho sàng sảy… Những hạt thóc lúc đầu, Vinh còn lượm, lượm một cách chăm chỉ… nhưng mà một chặp, chị thấy choáng váng mặt mày, những hạt thóc hiện ra hằng hà sa số… chẳng khác nào một bầy âm binh mà chị không sao điều khiển được. Chị thấy mình cũng khổ tâm như cô Tấm trong trong chuyện đời xưa, bị bà mẹ ghẻ hành bắt lượm những hạt đậu. Cuối cùng chị ngồi xốc đứng dậy, đấm vào xương sống mấy cái, thở dài một cách bất lực và kết thúc:

− Có lượm cũng chẳng hết được nào!

Thế là chị cứ để những hạt thóc, không lượm nữa… Vì chị đã có sẵn một tinh thần buông trôi. Cái khẩu hiệu mới, như xỉa xói vào tận trong lòng sâu của chị.

− Có phải vì mình mà người ta treo khẩu hiệu đó không?

Rồi chị tự đáp: Chớ vì ai nữa?

Chị kết luận một cách giản dị như thế, và có ý trách móc: Tại sao người ta không nói thẳng với chị mà treo khẩu hiệu làm gì cho rắc rối thế?

Tâm lý phức tạp của người đàn bà thời xưa, bỗng như sống lại ở trong người chị… Rồi y như mỗi khi có chuyện gì bực dọc là chị nghĩ đến thằng Duy. Chị chạy lại phía nôi. Nó đương ngủ. Chị nhìn cái bụng nòng nọc của nó và nâng hai cẳng nó lên, y như hai cái cẳng nhái, nước mắt chị dàn dụa. Bỗng nhiên chị cầm lấy tay nôi chị hát:

“Tới đây phải ở lại đây, bao giờ củi mục thành cây lại về”.

Tiếng chị hôm nay sao nghe buồn não quá.

Chanh, Đức cũng ngừng xay lại. Xoa cũng ngừng sảy, buông cái nia xuống nghe sạt. Thìn ở trên sàn bước xuống:

− Ru con không hay! Để tớ hát tuồng cho mà nghe! Thìn này mà mần cái tuồng “lý phờ” thôi thì tuyệt!

Rồi từ trên sàn, Thìn đổ nhào xuống, đầu thì chít một cái khăn xanh, còn mình thì quấn tròn cả một cái áo long bào của Bảo Đại:

Tiếng Chanh, Xoa, Đức nhao nhao lên:

− Hoan hô! Anh Thìn hát tuồng đi! Hoan hô anh Thìn…

Thìn vừa xoa tay vừa nói:

− Không phải mần tuồng cho các chị mô. Tớ đợi thằng Duy dậy, tớ mới mần tuồng cho hắn coi.

Tuy nói vậy, Thìn cũng khua tay, miệng hát:

− Như ta đây danh sư là… trưởng đồn chi bộ hạ, ngày tháng phong lưu, sống nhờ thực dân chi xơ múi. Tùng tùng xoèng! Tùng tùng xoèng!

Mọi người cười ầm lên! Vinh cũng vất tay nôi ra, vừa lau nước mắt, vừa phì cười... Chanh chạy lại, bế thằng Duy ra, thằng Duy không hiểu gì, trương mắt nhìn lô lố. Chanh lấy hai bàn tay nó đánh vào nhau và kêu to: “Hoan hô chú Thìn, tùng tùng xoèng, tùng tùng xoèng!... ”

 

***

 

Mẹ Thẩm ở dưới đồng bằng mới lên… để tăng cường thêm ban xay giã. Mẹ mang lại cho các chị em những tin sốt dẻo ở Phong Thái.

− Chính quyền của “mềng” bây giờ chắc như cối nêm, trục cũng không đi. Eng Nghênh eng về nắm sát để lãnh đạo… hễ mọc ra thằng nào thì “mần” thằng nấy… Cửu Lý con bá Xuyên…

− Bá Xuyên mô?

− Bá Xuyên là bá Xuyên chứ mô nữa! Cái lão thuở Tây mới đến chỉ cho Tây mấy hầm đồ của Chính phủ, Tây khuân ba ngày không hết. Công an mần ngay lúc đó. Nay thằng con lại lên mần Lý trưởng. Mình cũng cho hắn về luôn với cha hắn.

− Còn thôn Phú Ốc.

− Phong Thái mười lăm thôn, thì nay còn Thanh Tân, Sơn Quả là nát. Cán bộ trong thôn ly khai. Mấy thằng đầu nậu chưa trừ được. Xã cắt tôi ở lại để bắt múi với mấy anh khố đỏ trong đồn, làm nội ứng cho bộ đội đánh đồn… Tôi đã bắt liên lạc với một anh cai khố đỏ. Không may bại lộ. Tây xách thằng cai đó ra Quảng Bình… Còn tôi eng Nghênh eng biểu là phải tránh đi cái đã… Úi chao! Eng Nghênh, eng đã chịu thua đó chắc! Eng còn nằm sát đó, thì việc chi rồi cũng xong cả. Hồi vỡ mặt trận, Tây tuyên truyền là eng Nghênh có một trăm khẩu súng, hai trăm tự vệ, và hai mươi con ngựa, đương đóng ở đồn điền Bến Đốt! Nhưng eng thì hằng ngày sít bên nách chúng nó. Gặp anh khi mô cũng nón đan, quần xà lỏn, bên mo cau, bên bị lác. Tây bắt anh một lần rồi tha, Tây hỏi: Có biết Nguyễn Văn Nghênh không? Eng tỉnh như không: Nguyễn Văn Nghênh anh ta làm chủ tịch xã ai không biết? Chộ eng lên nói mít tinh luôn, nhưng từ ngày kháng chiến “thẳng cò o ngón”, không ai biết anh đi mô hết, chắc lại tản cư ra Vinh rồi.

Tây cũng phải cười.

Mẹ Thẩm tuổi đã gần sáu mươi… mà mắt vẫn còn tỏ, lưng còn thẳng. Mẹ làm việc cả ngày không biết mỏi, làm luôn canh, việc này đến việc nọ không hở tay... Mỗi lần thấy Vinh làm mệt lấy tay đấm xương sống thì mẹ cười bảo:

− Mới một lần sinh nở mà rứa, huống là sinh năm đẻ bảy thì răng? Các mợ mà đến tuổi tôi thì đến ngồi mô chảy nước nấy.

Thực ra Đức, Chanh cũng không bì mẹ, chứ nói chị Vinh. Mỗi lần mẹ đổ lúa vào xay, thật là quá khéo. Xay đang quay như chong chóng thế mà mẹ cứ bưng từng thúng hắt vào cối, người xay không phải ngừng lại mà cũng không một hạt thóc nào đổ ra ngoài. Những lúc như thế, Vinh ngắm mẹ một cách say sưa, và chờ cho mẹ làm xong nói một cách sung sướng:

− Thiệt trông mẹ như o con gái…

Nhất là lúc mẹ nhai trầu, cái miếng trầu đỏ choét, mẹ trề cái môi dưới, nuốt một cái rất duyên dáng.

− Trông mẹ có duyên quá. Không trách Ủy ban đưa mẹ vào làm địch vận. Mẹ mà nói, chắc cai đội khố đen khố đỏ phải bổ nghiêng bổ ngả.

Câu nói của Chanh làm cho mọi người đều cười. Mẹ lấy một miếng trầu đưa tận tay Chanh, nhưng các chị khác cũng đều chìa tay ra.

− Phần con mô mẹ?

− Con Chanh, nó răng đen, cho nó, chứ bay không nên ăn.

Tuy nói thế, nhưng mẹ vẫn mở cái khăn mùi xoa nâu ra lấy phát cho mỗi người một miếng, mặc dầu gói trầu của mẹ, từ hôm lên đến nay, đã có mòi hết. Nhờ miếng trầu, cái mặt vàng bệt của các chị tươi đỏ lên đôi chút và cái không khí ban xay trở nên thêm đằm thắm mặn mà.

Trong lúc mẹ nhai trầu một cách say sưa, các chị em quây quần bên mẹ, mẹ nhớ chi là mẹ nói nấy: Thường ngày mẹ thấy chị nào ra sao thì nay mẹ đưa ra nói. Mẹ bất bình nhất là chuyện con Diên có lấm mà tắm.

Nhân đó mẹ có dặn Chanh:

− Chị em trong lúc có sự thì công việc cũng để thư thư cho chị em đôi chút, lúc có lấm mà các chị cứ tắm bừa, chết có bữa các con nờ!

Lại cái chuyện chị nào tiếp tế vo gạo mà để gạo vung vãi ra ngoài suối, mẹ nhớ là mẹ nói mãi:

− Mẹ ở đồng bằng mẹ biết, chính quyền của mình mới xây lại, giữ được một hột gạo cho dân không phải dễ mô! Một hột gạo mang lên đến trên ni, là vàng, là ngọc cả đó chị em nà. Các chị không nghe chuyện chị gì ở Hà Lạc, vượt qua quốc lộ, Tây bắt được trong thúng có mấy loong đậu xanh mà hắn đưa ra bắn đó à?

Cảm động nhất là cái hôm Vinh nhìn mẹ Thẩm vo gạo. Gạo thì mốc, nó đóng từng cục, trên nước nổi lều bều. Mẹ mân mê những cục gạo mốc trong từng ngón tay, có vẻ ngần ngại do dự, không muốn vứt.

− Bỏ đi mẹ nà! Không thì sống cả nồi cơm đó!

 Không có câu nói của Vinh, dễ thường mẹ không muốn bỏ những cục gạo mốc trong tay. Hột gạo của dân mẹ coi như khúc ruột liền của mẹ. Để gạo rơi vung vãi đi, mẹ thấy đau xót vô cùng.

 

 

***

 

 

Cái cối đẽo xong! Mẹ Thẩm lấy gạo xót thử.

Cối mới, chày mới, tiếng kêu còn sộn soạng. Con người của mẹ đưa lên đưa xuống nhịp nhàng, nhất là cái tay dẻo quá! Cái chùm chìa khóa của mẹ đeo bên lưng quần, đu đưa đánh vào nhau, kêu rỏng rẻng.

− Mẹ để chìa khóa làm chi, cho Duy chơi đi.

Cũng chẳng nói chẳng rằng mẹ ngừng lại, tháo chùm chìa khóa vứt ra cho Duy chơi. Duy cầm chìa khóa trong tay, lúc lắc như lúc lắc cái chuông.

Tiếng chìa khóa kêu rỏng rẻng làm cho mẹ suy nghĩ nhiều lắm…

Về nhà chồng từ năm 18 tuổi, nhà trong nhà ngoài, tay hòm chìa khóa một mình mẹ giữ, chồng con cũng nỏ hỏi han gì tới. Chồng bà thường đi buôn bè, con cũng theo cha. Một khoảng vườn với non mẫu ruộng tay mẹ lo cả. Ngày ông bữa bà, một tay mẹ lo cả. Cửa nhà mỗi ngày một phát đạt, cho đến kháng chiến, Tây trở lại…

Chồng Tây bắn ở nguồn, con Tây bắt đi, nghe nói đưa vào Đà Nẵng, làm chi không rõ. Cái nhà lớn hắn dỡ kèo, cột, rui xuyên, đưa ra làm cầu Phú Ốc, cả mấy tấm phản, chúng cũng đưa ra lót cầu. Mấy cái rương nhỏ chôn mục hết. Còn cái hòm xe chúng cũng bửa. Cái mâm, mấy cái nồi đồng con chúng chia nhau hết.

Rứa là giang sơn sự nghiệp chẳng còn chi nữa, chỉ còn lại mấy cái chìa khóa tòng teng. Mẹ vừa cười vừa chảy nước mắt. Mẹ đùa với Duy:

− Giữ lấy cho mệ nhá! Giữ lấy cho mệ nhá! Độc lập về, mệ cho một mẫu ruộng.

Vinh hình như cũng cảm thấy nỗi buồn của mẹ:

− Tây nó có giết hết bà con mình mới lo, chứ còn người còn của mẹ nà!

Mẹ hạ cái chày xuống, nghe sạt:

− Của mất không tiếc, chỉ tiếc cái việc nó bại lộ. Mình mà bứng được cái đồn Phú Ốc, thì của ở đó, chứ của ở mô nữa, phải không các chị?

Chanh đương ngồi vá quần cho Thìn, nghe mẹ Thâm hạ cái chày, Chanh chạy lại, từ trong cối, vốc ra một nắm gạo, thổi sạch cám ngắm rồi chìa cho các chị khác coi.

− Có “xót” có khác! Gạo trắng quá, có đủ cả gạo xót này mà nấu cho anh em vận tải mỗi người một miếng cháo thì quý hóa quá!

Trong lúc đó thì Thìn ở ngoài cũng bước vào, tay xách một xâu hai con cá ngạnh.

Mọi người nhao lên:

− Cá mô rứa anh Thìn?

− Cá thuốc chứ cá mô nữa!

Từ hôm qua nghe Chanh và mẹ Thẩm bàn chuyện xót gạo nấu cháo cho chị Đức, thì Thìn nghĩ ngay đến một chuyện: Được ngay vài con cá thả vào cháo cho chị Đức nó ăn thì mau dậy lắm. Thế là Thìn vùng nhảy ra đi, hỏi đi đâu không nói. Thìn sực nhớ ngày chưa kháng chiến. Thìn đi với dân làng vào vùng này, ăn dầu chuồn. Anh em thường bóc vỏ cây dầu chuồn, rồi ngâm ra và đem “thuốc” cá. Từ sáng sớm gửi kho cho mẹ Thẩm, Thìn vào tận khe sâu, hì hoạch “thuốc” cả một buổi, chỉ được hai con cá. Chanh xách cao xâu cá lên:

− Cũng “bưa” cho ả Đức, mần một bữa.

− Của ít lòng nhiều, hoan hô anh Thìn. Tùng tùng xoèng… Hoan hô anh Thìn.

Mẹ Thẩn cũng lại xách coi xâu cá:

− Măng giang nấu cá ngạnh nguồn

Tới đây nên phải bán buồn mua vui.

Vinh nãy giờ ngồi thừ ra trước cái tấm lòng săn sóc chi chút của các anh chị em đối với nhau, thật là ruột thịt cũng không bằng. Vinh bỗng nhiên vụt tươi lên như cô gái mười lăm, mười sáu. Chị đứng dậy chạy vào xách ra một cái nồi nho nhỏ.

− Để tôi nấu cho! Để tôi nấu cho!

Mọi người quay lại phía Vinh sung sướng. Từ lâu, từ hôm Vinh đau dậy các chị em mới thấy lại ở Vinh cái tươi vui đó. Mẹ Thẩm giật thằng Duy trên tay Vinh và nói với mọi người:

− Cá này mà được cái mụ Hoàng phái nó nấu cho, thôi còn phải nói…

Rồi quay lại nhìn cái chìa khóa còn nguyên ở tay thằng Duy, mẹ nói nựng với nó:

− Mệ trao tay hòm chìa khóa cho đó; Tây nó có lấy thì cướp lại cho mệ nghe không con!

Thằng Duy chả hiểu gì, đưa chùm chìa khóa rung chí tử.

 

***

 

Kinh nghiệm của Thìn đã được phổ biến… Anh em ban kinh tiếp tế phối hợp với anh em các ban sửa chữa vũ khí, ban quân trang, xay giã… tổ chức một buổi chài cá… giúp bệnh nhân dân quân vận tải ở chiến khu 3. Trời chưa tối đã có tiếng kêu nhau ơi ới, từ cơ quan này vọng sang cơ quan nọ. Ở dưới suối, những bó đuốc đã bật sáng. Họ chia thành từng đoàn năm, bảy người. Họ đi tìm những vũng nước sâu để thả lưới…

Bác Cầm chạy lại nắm lấy tay anh Thu trưởng ban kinh tiếp tế một cái chắc. Không nói một tiếng hai người đi hai ngả. Đoàn anh Thu đi ngả suối con, đoàn bác Cầm đi ngả A Đong.

Mẹ Thẩm, chị Chanh, chị Xoa, chị Vinh đã ngồi đợi sẵn ở nhà bếp của ban vận tải. Thằng Duy cũng còn thức. Gạo xót trắng muốt, đã vo từ chiều, nấu đã nhừ. Chỉ còn chờ cá. Những anh em vận tải mấy tháng nay liệt giường liệt chiếu trông anh nào anh ấy ốm nhếch. Đầu thì trọc tếu, chân tay phát ghẻ lở ra cả. Họ xáo nhau về những cái tin những “hòm tài chánh” còn nằm nghiêng ngửa ở trạm Đơn Quế ở Quảng Bình đã hơn một tháng.

− Cố mà ăn cho lại sức đi anh em, ít hôm cũng lại phiên chúng mình đi.

− Đề nghị ông chủ tịch chi toàn chiến khu một con bò. Chúng mình xin một cẳng.

− Ủy ban được mấy cặp không đủ cho nông binh tăng gia, bò mô cho tụi mình ăn?

− Đù mẹ! Tuần trăng này thì voi lại không ra!

− Nói rứa rồi các cậu “mệ” lại ra cho như hôm trước. Bộ đội hạ một lúc được bốn “mệ”, ăn không hết, phơi thối hoăng cả chiến khu, không chộ đó à?

− Thôi không có "ông" có “mệ” thì chịu khó đợi bác Cầm về húp mấy miếng cháo “ếch” cũng đỡ anh em nạ!

− Đề nghị có cậu Rê-nê (Réné) đây, tái đi mỗi người mần một miếng thơm miệng hơn.

Mọi người đều cười. Hàng binh Rê-nê Sa-ra (Rénê Sarar) vừa bước tới, nghe có người nói đến tên mình, không hiểu gì cũng cười theo, Rê-nê tới tìm bác Cầm. Tên hàng binh trận Đất Đỏ được lệnh trung đoàn cho ra Vinh. Anh tới bác Cầm để lãnh cái bộ đồ mới mà quân trang, theo lệnh trung đoàn, đã may cho anh. Vì mai anh đi sớm, nên đêm hôm phải tìm cho được bác Cầm để lãnh cho kịp.

Tiếng hò nghe vọng từ đằng xa. Và ánh đuốc lung linh như những con ma chơi. Tiếng hò mỗi lúc một gần.

− Tiếng Thìn chứ ai!

Đoàn bác Cầm đã về.

Từ đằng xa bác Cầm đã bô bô:

− Chanh mô, đưa dao thớt ra!

Bác xách cao một xâu cá dài, toàn cá ngạch, ca neo; mọi người xúm lại trầm trồ và Thìn cũng giơ lên một xâu ếch. Mọi người reo lên.

Thìn kéo Cang ra giữa, giới thiệu Cang:

− Ếch nầy, do anh Cang chụp (1) cả, chứ không phải tôi.

Cang ướt từ đầu đến chân, như con chuột lột, nước trên đầu trên mặt, chưa kịp lau, nhỏ xuống ròng ròng.

− Anh em nên hoan hô anh Cang. Tội nghiệp bổ lên bổ xuống mà cứ theo anh em cho được.

Tiếng mẹ Thẩm:

− Lấy áo quần cho anh thay đi! Tội nghiệp vừa đau dậy mà cũng đi mần chi chớ…

Đoàn anh Thu cũng vừa về đến nơi.

Những bó đuốc tập trung lại, sáng rực lên, bác Cầm chạy lại xách cao xâu cá của Thu, rồi giơ cao lên bên cạnh xâu cá của mình:

− Đồng bào chấm đi!

Tiếng anh em nhao lên:

− Bác Cầm được đứt đi rồi! Hoan hô bác Cầm!

Bác Cầm giao hai xâu cá lại cho Chanh, chạy lại bắt tay anh Thu một cái, cái bắt tay của người thắng cuộc..

Thấy bác Cầm, Rê-nê chạy lại. Bác giơ tay làm dấu “Hiểu rồi!”.

− Tôi đợi chú mày cả buổi chiều!

Cang sẵn còn đứng đấy, thừa dịp nói mấy câu tiếng Pháp để dịch ý bác Cầm cho Rê-nê nghe. Một lát sau, bác Cầm từ trong trại mình, đã trở ra với một cặp quần áo Tây.

− Này thử xem có vừa không?

Rồi tự tay, bác khoác cái áo vào mình cho Rê-nê. Tự tay bác cài những cái cúc cho Rê-nê. Bác ngắm nghía Rê-nê một cách sung sướng:

− Vừa vặn quá! Kích thước anh em cứ lấy chừng chừng, rứa mà đúng cả!

Đứng trước cái xác to lớn và cái ngực lông lá của tên tù binh, bác sực nhớ đến tên đồn trưởng Sơn Tùng, cái tên khốn nạn đã… Trong một giây lát, hiện lại trước mắt cái cảnh vợ con bác bị hãm hiếp. “Chết rồi mà cũng chẳng yên thân”. Bác nhớ rõ khi bác lật cả tử thi của vợ bác lên, còn thấy trên mình vợ bác nham nhở những vết thương…

Mồ hôi trên trán bác bỗng đổ từng giọt, hai tay bác run lên. Bác túm chặt lấy áo Rê-nê, bác “nhay nhay”, và ẩy Rê-nê một cái thật mạnh khiến anh suýt ngã. Rê-nê chẳng hiểu gì, đứng lên một cách khép nép, mắt không dám nhìn bác.

Tiếng nói của bác như rú lên giữa những tiếng thở hổn hển:

− May sắm cho tụi bay lành lặn để rồi thả tụi bay ra, tụi bay lại hãm hiếp bà con xóm giềng của tau nhá!

Trong đám đông bỗng nổi lên những tiếng xôn xao:

− Quân ấy hơi đâu mà nuôi báo cô mãi.

− Mần rồi không khéo giải qua Seng Bảng lại để xẩy thì khốn đó!

− “Phóng thích” cho hắn một nhát là yên việc!

− Cứ mỗi người một đấm cũng xong đời nó!

Anh Giãi dân quân vận tải đang nằm rên bỗng vùng dậy, vớ được cái gậy chạy ra, miệng thét:

− Vì cha ông dòng họ nhà mi, tao mới sốt lên sốt xuống thế ni, có biết không?

Rồi Giãi nhảy vào toan “phang” vào đầu thằng Rê-nê thì đã có người ra giữ anh lại. Bác Tân bên "Ban sửa chữa" giật cái gậy nơi tay anh Giãi và nói: “Hắn có răng thì đã có Chính phủ, chứ các người định làm loạn ư?”

Thu từ trong bóng tối tiến ra:

− Các đồng chí làm thế hóa ra quên lời Cụ dặn à? Đánh kẻ chạy đi ai đánh kẻ chạy lại.

Tiếng xôn xao bỗng im bặt. Không khí đã êm dịu trở lại.

Cháo cá chín đã bưng lên, mẹ Thẩm tiến ra:

− Hay là chúng ta mời anh ấy ở lại mời cháo với ta.

Có tiếng người phản đối. Nhưng những tiếng tán thành đã át cả tiếng phản đối:

− Phải, phải đó, mời anh ấy ở lại liên hoan với chúng ta.

Bữa cháo cá không ngờ đã biến thành một buổi liên hoan của các anh chị em, có anh tù binh Pháp tham gia. Gạo giã trắng lại được cá tươi, cháo cá của ban xay giã được anh em hoan nghênh lắm.

Anh Cang, hai mắt long lên vì sung sướng, quay về phía chị Vinh:

− Cháo này mà có cả chanh ớt nữa, thì thôi “tuyệt” chị hỉ?

Cháo xong anh em xây lại vui nhộn. Anh Cang đơn thanh, chị Chanh hò mái nhì, anh Thìn hát tuồng “Trại ba công chúa”. Bỗng có tiếng nói:

− Rê-nê, Rê-nê, anh Rê-nê hát đi!

Rê-nê nghe gọi đến tên mình, đứng lên một cách vội vàng sung sướng, tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô vang dậy…

Có những anh dân quân vận tải còn yếu, từ nãy chỉ ngồi ăn trong trại không ra dự được với anh em, bây giờ cũng chống gậy đi ra.

Tiếng anh hát the thé… nhưng quần chúng cố lắng nghe không một tiếng ồn…

“Quê tôi trời trong xanh như nước bể, mẹ hiền của tôi thấp thoáng trong vườn nho, lâu lâu liếc mắt nhìn ra ngõ… Gian nơ (Jeanne) em gái tôi, ngồi đan trên ngưỡng cửa, thấp thỏm đợi anh về…”.

Tiếng hát anh như se lại, rồi dứt ngang giữa cuống họng. Vết thương trên đầu anh chưa khỏi hẳn. Đầu anh còn cuốn những vành băng trắng. Giọng hát của anh không còn cất lên được nữa.

− Thôi! Thôi, để anh Rê-nê nghỉ, sáng mai anh đi sớm.

Sau khi nghe anh Cang dịch ra tiếng ta, anh em chị em suýt xoa cảm động, nổi dậy những tiếng chúc anh lên đường bình an!

Anh Rê-nê cảm động cuống quýt nói những lời cảm ơn. “Cảm ơn anh em, cảm ơn chị em, cảm ơn Hồ Chủ tịch”. Rồi anh đi từng người bắt tay một lượt. Các chị chưa quen bắt tay, đưa tay ra một cách rụt rè làm cho anh tù binh càng thêm cuống quýt.

Mẹ Thẩm tiến lại cầm lấy tay anh:

− Anh thì không hay ăn trầu, chắc là có hút thuốc lá.

Rồi mẹ đưa tận tay anh, một nắm thuốc:

− Thuốc lá Phong Lai đó, cầm lấy dọc đường mà hút.

Ngập ngừng, Rê-nê nhận lấy nắm thuốc, mắt anh long lên vì cảm động sung sướng…

 

 

 

Chương IV

HOAN HÔ THANH - NGHỆ - TĨNH

 

Cuộc hội nghị cán bộ của chiến khu 3 đã bắt đầu. Đồng chí Thu báo cáo công việc. Sau khi nhắc lại công việc trong thời gian mấy tháng sau đây, đồng chí Thu kết luận:

− Chúng ta cũng như toàn chiến khu 3 có thể nói đã qua một cơn thử thách lớn: nước suối cạn, bệnh sốt rét xuất hiện một cách ác liệt… Anh chị em, nhất là anh em dân quân vận tải ăn uống kham khổ, thuốc men thiếu thốn… Tình thế có lúc nguy nan. Nhưng nhờ có sự cố gắng của Chính phủ, của Đoàn thể và nhờ sự cố gắng của bản thân chúng ta nữa, khẩu hiệu “Người lành nuôi người yếu” đã được tích cực thực hiện. Chính sách đùm bọc của ta, những buổi đi thuốc cá, những ngày vá may, giặt dịa cho anh em vận tải trong những ngày đau yếu mưa lạnh, và những đêm văn nghệ chung cũng đã đưa lại cho toàn thể chiến khu 3 chúng ta nhiều sự vui vẻ.

Đáng khen nhất là ban xay giã. Mẹ Thẩm đã nêu lên một tinh thần tiết kiệm cao quý. Chị Vinh đương ở cảnh ăn sung mặc sướng, tuy còn nhiều thắc mắc – lẽ tất nhiên – nhưng bây giờ đã biết chịu nắng chịu sương cùng với các chị em nấu cơm, gánh nước. Trước hết chúng ta phải tuyên dương đồng chí Chanh. Phải. Đồng chí Chanh đã săn sóc những anh em đau ốm, như một người chị, như một người em..

Tiếng Chanh nói lại:

− Không phải riêng một mình tôi!...

− Thì cứ nói một mình đồng chí đã! Đồng chí Chanh đã chẳng ngại gì nhớp bẩn hàng ngày tự tay giặt những áo quần của anh em vận tải, những áo quần đầy ghẻ lở của anh em..

− Hoan hô đồng chí Chanh! Hoan hô!...

− Đồng chí Chanh đã cổ động và hướng dẫn chị em tổ chức những ngày “giặt dịa vá may” cho anh em vận tải.

Lại những tiếng hoan hô… Bà Tảo giơ tay xin nói:

− Đã đành là ban xay giã có nhiều ưu điểm, nhưng trong một thời gian nay, chị em ban xay giã có phạm một khuyết điểm lớn không thể nào tha thứ được…

Những cùi tay thúc nhau và có tiếng xì xào:

− Chắc lại việc con Diên?

Bà Tảo nghe lọt tiếng xì xào tiếp luôn:

− Phải chính rứa đó! Chuyện con Diên với anh Hậu. Tôi không thể nào tha thứ được. Tôi đã điều động anh Hậu… Về con Diên, đồng chí Chanh phải chịu trách nhiệm…

Lại có tiếng xì xào: “Thì nó đã tội gì cho cam”.

Đồng chí Tảo lại tiếp luôn bằng một giọng hậm hực:

− Tội gì? Tội gì à? Ai bênh nó thì cứ đứng dậy mà đường hoàng bênh nó đi. Các đồng chí tưởng ăn được một hột gạo của Chính phủ có phải dễ đó ư? Một hột gạo mang đến tận mồm chúng ta là thấm bao nhiêu mồ hôi nước mắt của đồng bào. Cơm mô dư để các người lấy ăn, các người chim chuột với nhau?

Một thanh niên hồi nãy xì xào bây giờ giơ tay đứng dậy: đồng chí Việt ở công an.

− Tôi xin nói. Tôi kịch liệt phản đối cái chính sách khô khan hẹp hòi của đồng chí Tảo, cấm đoán tất cả mọi sự biểu lộ tình cảm. Đi kháng chiến không phải là cứ như múi cam vắt cho hết, đến khô đét đi mới thôi. Lên chiến khu không lẽ cứ để người ta mốc meo ra một đống như thế cả. Ở chỗ nào có đàn ông, đàn bà là có động chạm…

Đồng chí Tảo không kịp xin phép chủ tịch:

− Bộ đội người ta chết, dân quân người ta chết, để cho… để cho các người đú đởn à?

Anh Việt cũng đứng lên như con bật bật, không xin phép chủ tịch, ráng gân ráng cổ lên cãi:

− Đó là vấn đề khác. Tôi phản đối cái lối thảo luận “đập dập” của đồng chị Tảo.

Tiếng chủ tịch thét:

− Xin các đồng chí giữ trật tự cho! Chưa phải là lúc thảo luận. Yêu cầu đồng chí Thu tổng kết xong đã.

Đồng chí thu tiếp tục:

− Đã đành là chúng ta có những ưu điểm lớn, nhưng chúng ta cũng có những khuyết điểm lớn, cần phải thẳng thắn đưa ra. Cái thái độ của ta đối với cán bộ đối với quần chúng tôi thấy còn hẹp hòi lắm! Còn thiếu cả tinh thần dìu dắt xây dựng..

− Xin đồng chí cho những chứng cớ cụ thể…

− Ví dụ như đối với đồng chí Cang. Các đồng chí bên "kinh tiếp tế" thiếu sự săn sóc nâng đỡ trong lúc ốm đau, thiếu sự dìu dắt về tư tưởng, học tập. Có đồng chí bảo anh Cang nặng tình gia đình, hay kêu rên, không tiến bộ. Nhưng chúng ta thử hỏi cái việc anh Cang theo kháng chiến đến ngày nay, chỉ một việc đó không phải là một sự tiến bộ lớn rồi đó hay sao? Ta giúp đỡ thì ít mà đòi hỏi thì nhiều. Lại như việc anh Hậu. Các đồng chí bên dân quân vận tải và có thể hầu hết chúng ta chỉ biết nhìn anh Hậu với con mắt trừng phạt, khó chịu, khinh miệt mà quên rằng anh Hậu là người bao nhiêu lâu giữ gìn của cải kháng chiến với một tinh thần hiếm có. Chúng ta đã làm cho anh Hậu sau khi phạm lỗi… Vâng, tôi không kết án chuyện tình ái nhưng cái việc anh Hậu phạm đến của công dầu là cái kim sợi chỉ, cũng phải bị trừng phạt. Dẫu sao ta cũng phải thẳng thắn mà nhận rằng: nếu sau này anh Hậu làm việc không được phấn khởi tận tụy như trước, không phải tại anh Hậu, mà chính tại chúng ta, tất cả chúng ta thiếu tinh thần giáo hóa sửa chữa cho anh.

Có tiếng hét ở bên dưới:

− Đúng lắm! Đồng chí Thu nói đúng lắm! Tại chúng ta hết.

Đồng chí Thu lại tiếp:

− Tôi không nói về anh Hậu nữa. Tôi xin nói về đồng chí Cầm hôm nay có mặt tại đây. Đồng chí vừa bị Tỉnh đội bộ khiển trách về việc làm mất bốn bộ quần áo… khiển trách đúng lắm! Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng đồng chí Cầm giữ một cái kho hàng trăm hàng ngàn bộ quần áo, rứa mà đến nay đồng chí vẫn là một đồng chí i tờ, hai phép cộng trừ vẫn không làm nổi… Hàng ngày có chục người vô kẻ ra, cái thâu cái nhận chàng ràng chộn rộn mà đồng chí lại không hề biết ghi chép, thì làm sao khỏi thất lạc cho được? Cái tình trạng một đồng chí già giữ một công việc quan trọng mà đến nay vẫn chưa viết, chưa đọc được, đó chẳng phải là lỗi của tất cả chúng ta không giúp đỡ cho đồng chí?

Có tiếng xì xào:

− Yêu cầu đồng chí Cầm phát biểu ý kiến!

Đồng chí Cầm đứng lên, người run như bắn, giọng bác lại càng run hơn nữa:

− Tôi không dám trách ai hết. Thật tình tôi không dám trách các đồng chí. Thiệt tình, quả bây giờ già rồi học không vô nữa.

Đồng chí Vệ ở ban Quân trang giơ tay xin nói:

− Tôi chứng nhận là sáng mô đồng chí cũng có học… sáng mô chưa ai dậy mà đồng chí đã dậy, đốt lửa lên học, đồng chí ấy không còn trí nhớ nữa, chữ được chữ mất, nhưng đã mấy tháng nay, sáng mô đồng chí cũng học, học chùng học lén như rứa cả.

Có tiếng xì xào và tiếng cười. Nhưng đồng chí Cầm đã đỏ cả hai tai:

− Xin các đồng chí đừng cười… tui chừ có tuổi như cây tre cha khó uốn. Tui không trách các đồng chí. Tui giận… (bác đưa tay bứt tóc) tui giận cha giận mẹ tui lúc nhỏ bán đứng tui cho nhà giàu, một đời chỉ biết theo trâu theo bò, biết chi học với “hiềng”. Được học thì làm gì có cái nông nỗi ni chớ!

Bác lại bứt tóc bứt tai, ngồi xuống một cái thịch rồi người ta nghe tiếng bác khóc thút thít… Cả hội trường bỗng trở nên vắng lặng , bùi ngùi.

Đồng chí Thu lại tiếp tục:

− Cuối cùng tôi xin nhắc các đồng chí: Nhiệm vụ chúng ta còn nặng nề. Tuy còn sự tranh đấu với gian khổ, với đau ốm đã nhiều triển vọng, tình thế chúng ta cũng như toàn chiến khu không phải là đã qua cơn trầm trọng nguy khốn. Cuộc chiến đấu ở đồng bằng còn gay go. Đường tiếp tế đồng bằng − chiến khu luôn luôn bị uy hiếp. Bộ đội ta còn yếu… anh em cơ xưởng còn ốm. Anh em dân quân vận tải còn tê liệt và chính bản thân chúng ta còn ở trong tình trạng thiếu thốn về vật chất, về tinh thần. Đau lên đau xuống… Ăn uống kham khổ, sách báo không có! Chúng ta phải làm gì nữa cho chúng ta? Làm gì nữa để phục vụ bộ đội, phục vụ cơ quan, phục vụ kháng chiến? Đặc biệt là ta phải bảo đảm cho được sức khỏe của dân quân vận tải và sự tiếp tế ngô, gạo, thức ăn cho bộ đội, cho các cơ quan, sinh mệnh kháng chiến là ở trong miếng ăn của bộ đội, của cán bộ đó, chắc các đồng chí đã thừa hiểu.

Có tiếng xin nói. Chủ tịch ngắt:

− Tổng kết xong mới thảo luận.

Một người từ cuối phòng bước lên:

− Thưa đồng chí, tôi không thảo luận, tôi báo cáo.

Quân, một dân quân vận tải, không đợi lệnh của chủ tịch nói luôn:

− Anh em dân quân vận tải Thanh - Nghệ - Tĩnh vào đông lắm! Có hàng trăm người. Thùng sọt còn để nghiêng ngửa ngoài trại 3. Xin báo cáo để sắp đặt chỗ ăn ở cho anh em ngay.

Có tiếng hỏi:

− Chở những gì rứa đồng chí?

− Úi chà! Là mê man… Nghe nói có cả thuốc men, sách báo, vô số là thùng lựu đạn…

Hai tiếng “lựu đạn” bỗng như luồng sinh cảm chạy qua khắp hội nghị, làm sáng rực những bộ mặt xanh xao, những thân hình nhích vào nhau, những đôi mắt long lên. Và bất thần một tiếng hô lên như run bắn “Hoan hô đồng bào Thanh - Nghệ - Tĩnh!” Cả hội nghị cùng nhảy nhót lên: “Hoan hô! Hoan hô Thanh - Nghệ - Tĩnh!” và những tiếng hô khác nối tiếp “Hoan hô anh em công nhân! Hoan hô anh em vận tải!”.

Đồng chí Thu mắt còn rươm rướm nhìn thẳng vào hội nghị rồi nói tiếp:

−  Lời tổng kết của tôi cũng chỉ thế này: Chúng ta phải cố gắng nhiều nữa để xứng đáng với lòng ân cần giúp đỡ của đồng bào. Chỉ có thế!

 

 

Chương V

MỘT TRẬN LẤY ĐÀ

 

Được tin Biệt động đội về đồng bằng “mần một trận lấy đà”, cả ngày ban xay làm việc không ngớt, mặt mày túi bụi. Tối lại các chị em lại tổ chức một buổi giã gạo chung, để mai sớm có gạo mang ra cho bộ đội.

Từ chiều, Chanh đã cho vần mấy cái cối ra chỗ sân công cộng, nơi tập trung chào cờ hàng ngày của chiến khu 3. Những người đi qua thấy cái cối hỏi:

− Hôm ni lại hò giã gạo nữa chúc?

− Để cho các anh ấy trước khi đi đủ gạo xót trắng mà ăn chứ.

Bác Cầm giúp Chanh vần cái cối lớn. Bác nói: “Úi chà! Sáng ni thử đám lựu đạn ngoài ấy đưa vô. Cứ kêu ròn tan như pháo Tết… cứ chê là câm với điếc mãi? Phen ni có nổ toác cả óc ba thằng Tây không? Bà con gắng xót gạo cho mướt, anh em bộ đội ăn một bữa tới nơi”.

Những anh em cơ xưởng đi qua, kháo nhau:

− A ha, đêm ni, văn nghệ đại chúng, phải?

Chanh trả lời:

− Văn nghệ văn ngọt gì chúng em, trong ấy có ai hò được thì mời ra… Anh Giật có nhà thì mời anh ấy ra nữa…

− Hắn thì không phải nói nữa. Hắn nghe nói tối nay có hò, là hắn lọt tọt ra ngay chừ đó.

Mà thật thế; trời vừa nhá nhem, Giật đã từ trong cơ xưởng ra. Nào có gần gũi gì, hắn phải đi một mình năm bảy cây số đường rừng. Và những bó đuốc khác cũng lần lượt từ rừng sâu tiến ra: anh em công nhân báo “Giết giặc”; anh em ban sửa chữa vũ khí, những chị bào chế, cả cụ Hoàng Liên Việt cũng chống gậy đi ra…

Đuốc tập trung lại. Củi chất đống, đốt lên đỏ rực… người ngồi quây quần lại bên đống lửa.

Bác Cầm đưa ra mấy cái chày:

− Chú Giật mô?

− Có.

Giật cơ xưởng với Giãi, vận tải dân quân là hai anh nổi tiếng hò ở chiến khu, cái cặp “nam” ấy thì già dặn lắm.

Giãi người làng Đình Cổ, anh đã từng đi hát trường, đồng bào khắp miền Hải Lăng, Phong Điền đều phục cái tài đặt chuyện của anh. Bên cặp “nữ” thì cơ non hơn… Xoa biết nhiều chuyện lắm: hò ân tình cứ kể là từng bồ từng cót, một tháng hò luôn 30 ngày không cạn. Còn hò cách mệnh, hò kháng chiến thì đầy cả một quyển sổ con trên một trăm tờ giấy… Hở đâu là chị cũng đáp được… nhưng chị không còn có giọng nữa. Trên 30 tuổi rồi, lại còn đời chị biết bao nhiêu chìm nổi. Đức thì giọng non hơn, nhưng mà chuyện hò lại không thuộc lắm, tài ứng biến kém.

− Bên nam có rồi đó, bên nữ mô?

Vẫn không tiếng đáp, bác Cầm lại giục. Chanh đáp lại:

− Cặp nữ “bầy tui” xin thú thật là non lắm.

− Non thì đã có bầy tui ủng hộ.

Mẹ Thẩm đi ra, theo sau là các chị: chị Hồ bào chế, chị Sao thư ký ủy ban, chị Vịnh. Người cầm nia kẻ cầm sàng. Họ ngồi bên những cái cối.

Mẹ Thẩm vừa nói vừa lấy gạo đổ vào cối. Bốn người đã giàn đứng hai bên cối. Giãi lấy chày gõ vào cối mấy cái rồi bắt đầu gieo chày.

Tiếng chày đã thình thịch, lấy được nhịp đều. Giãi cất giọng hò trước:

Khoan hô khoan mời bạn, khoan cũng hò khoan! Tôi nơi đây giã gạo cõi mít lim cũng chày lim, trước thì tui rồi giã gạo, sau tui tìm quen cũng người quen. Hồ hô ô!.

Xoa tiếp ngay:

− Hơ ơ… Hơ! Thiếu tay thì tui phải cầm chày, khuyên cùng chúng bạn hơ…hơ

− Chị em xô đi chớ!

Tiếng Mẹ Thẩm:

− Chị hát lại để bầy tui xô.

Hờ hơ…Thiếu tay thì tui phải cầm chày, khuyên cùng chúng bạn hờ hơ… dở hay cười chớ cười…

Ngòi đã khơi rồi. Những điệu hò cứ thế mà tuôn ra. Nam xướng lên thì nữ đáp lại. Trước còn ngoài sân sau lần vô bếp. Những câu hò Hồ Chủ tịch, những câu hò kháng chiến, những câu hò địch vận… rồi thì cuối cùng là những câu hò ân tình ân nghĩa.

Những câu hò như làm sống lại cả cái phong vị đằm thắm mặn nồng của đất nước, của làng xóm đương quằn quại dưới sự hung tàn của giặc.

− Ta xô mạnh lên bà con, để cho các anh chị họ hò. Xô mạnh… lên. Xô càng mạnh, gạo càng trắng; bộ đội càng ăn no đánh thắng, bà con ơi! Ta xô lên nào!

Câu nói của bác Cầm như đi tới tận ruột gan những người nghe. Thực ra ai cũng đương nghĩ đến những làng xóm thân yêu của mình… những buổi trăng hò đạp nước, những đêm sửa hò khoan… Chị Chanh nhảy ra thay chị Xoa. Đương ân tình, điệu hò bỗng xoay ra hờn oán:

− Hơ hơ… Đất Chí Long ngày giặc ra hai bận,

   Đốt mùa màng bắn mụ nậy ông tra

   Vét vơ từ lon nếp đến con gà

   Anh em ơi! Trườn lên cho chị em bầy tui theo với….

Tiếng bác Cầm lại giục:

− Xô mạnh lên! Xô mạnh lên bà con!

Mọi người đều xô lên như gửi vào tiếng xô cả nỗi niềm đồng căm. Chanh lại hò tiếp:

 Anh em trườn lên cho chị em bầy tui theo với, để đuổi hô… hô… để đuổi cha con về, nó về….

Đêm đã khuya, mọi người đã giải tán. Nhưng từ trại xay giã còn vọng lên những tiếng hò nuối của chị Xoa… và cũng từ trại dân quân, tiếng hò đáp lại của Giật.

Từ chập tối, bác Cầm đương nằm thao thức có ý chờ đợi, bỗng nghe có tiếng nổ rầm rầm từ dưới đồng bằng. Bác nhảy xuống đất một cái thọt, chạy ra sân công cộng, oang oang: “Bắt đầu rồi đó bà con!”. Từ các cơ quan, người ta thức nhau, gọi nhau ơi ới. Một lát sau, sân công cộng đã chật ních người.

− Súng bộ đội “miềng” đã nổ rồi đó, bà con à, bà con lắng tai mà nghe!

Tiếng bác vẫn tiếp:

− Bà con có biết chỗ nớ chỗ mô không nào?

Chưa ai nói gì bác đã tự đáp:

− Phía Sơn Tùng đó. Tui đang nói là bộ đội ta đương đánh Sơn Tùng thượng đó.

Thìn cãi lại:

− Phía nớ là phía Mỹ Chánh gần Quảng Trị, chứ Sơn Tùng mô phía nớ.

− Chú thì biết cóc chi! (Bác Cầm đứng dậy giang tay ra trỏ). Phía ni là là Thanh Tân. Ồ, ồ ni, phía ni mới là Mỹ Chánh. Nơi tay tôi chỉ mới là Mỹ Chánh. Còn chỗ súng nổ đó đích là Sơn Tùng! Phải không bà con? Im im! Tiếng ca nông của địch. Bây giờ ở các đồn Sịa, đồn Lai Hà, đồn Huyện bắn tiếp viện cho đồn Sơn Tùng đó.

Thìn cũng ráng gân cổ lên cãi lại cho được:

− Bác làm như bác vừa ở dưới nớ lên! Chỗ đó mà là Sơn Tùng thì thật là bác muốn nói răng thì nói… Với bác chỗ mô cũng Sơn Tùng hết.

− A, a chú Thìn, chú nói mới hay chứ! Cái đồn Sơn Tùng đó mà bộ đội “miềng” không đánh thì đánh đồn mô chứ?

Bác nói một cách hậm hực, với bác, trong bụng bác, trước mắt bác, chỉ có nhổ một cái đanh đó: nhổ đi, phải nhổ đi cho dân nhờ. Sơn Tùng, chả phải cái đồn Sơn Tùng hung ác nhất Thừa Thiên đó. Cái đồn đã chém trâu bác, đã hãm giết vợ bác. Rồi bác kết thúc:

− Chú Thìn, chú nói bộ đội đánh Mỹ Chánh, chớ đánh Mỹ Chánh làm chi? Ngủ đi, mai ra Hòa Mỹ, coi có phải đánh Mỹ Chánh của nhà chú không?

 

***

 

Hôm sau quả thực bác Cầm ra Hòa Mỹ để đón bộ đội về. Cái tin thắng trận Mỹ Chánh có lẽ bác là người thứ nhất loan báo về C.K.3. Buổi sáng, ban xay giã đương làm việc thì bác đã bước vào. Như mọi lần, chân chưa bước vào mà miệng đã bô bô: “Bà con đã biết chưa? Bộ đội “miềng” đánh Mỹ Chánh”.

Tiếng Thìn từ trên gác:

− Đích thị là Mỹ Chánh! Mỗ đã biểu mà.

Rồi Thìn hát luôn:

− Hảo a! Như mỗ đây danh vị là thằng giữ kho mà tài năng so tày Gia Cát… chừ chừ ta xin hỏi ngươi Cầm, giặc thua ở Mỹ Chánh hay là Sơn Tùng thượng? Tùng tùng xèng, tùng tùng xèng…

Tiếng mẹ Thẩm:

− Chú Thìn hỗn láo lắm, có im đi không nào! Cho bác ấy, bác ấy nói mà nghe. Bộ đội mình đánh ra răng, bác Cầm?

− Bộ đội mới ốm dậy, chứ ai cũng khỏe như anh Đa thì mình đã bứng xong đồn rồi. Trận đó Thừa Thiên phối hợp với Quảng Trị mình khai hỏa chậm quá. Nhưng khi trọng pháo của ta phá được hàng rào rồi thì trung đội anh Đa vào ngay, đốt cả dãy nhà khố đỏ, Việt gian, lửa lan ra cả nhà gạch. Cha con như chuột hôi tổ chạy tán loạn. Cứ chạy ra tên nào, bộ đội ta “tỉa” tên ấy. Quân trang, quân lương, đạn dược, xe díp, xe ô-tô bốc cháy ngùn ngụt. Bộ đội đánh táo tợn lắm. Lựu đạn mình là cứ nổ ròn tan. Lại cả bom ba càng, bốn cẳng chi đó là cứ "nhảy đôm đốp". Thằng Bồng người ta cắt cho hắn làm liên lạc giữa trung đội anh Đa và ban chỉ huy mặt trận, hắn cũng xông vào không kể chi chết. Hắn chợt thấy thằng Tây quan, sẵn có đôi dép anh Đa giao cho hắn xách hắn vụt một cái vào đầu thằng Tây quan. Anh em nói chưa trận mô, hai bên “chộ” nhau mồn một như trận này. Cũng vì lửa đỏ sớm quá, địch nhận rõ được bên ta. Một bộ phận chúng nó xuống hầm xi-moong cố thủ, chúng quạt bắn rát vào quân xung phong của ta. Tiếc quá, gà không gáy thì mình cũng bưng xong đồn rồi.

Con Diên đang rên hùn hùn cũng nhỏm dậy xen vào:

− Rứa cha con nó chết có nhiều không?

− Đợi xã báo cáo… nhưng chính mắt thằng Bồng thấy gần mấy chục thằng ngã toàn Tây trắng và Ma-rốc.

− Còn bên mình?

− Bên mình độ mươi người bị thương và hai chiến sĩ hi sinh.

− Ai đó?

- Có biết Tốn không?

Chanh hỏi lại:

− Tốn pháo binh à? Tốn có đến lãnh bí một lần các chị có nhớ không?

− Cả Tốn, cả Xuân đều ở pháo binh. Không chết vì địch thế mới tức chưa! Vội vàng thế nào, lắp ngược nòng ca nông, đến khi nhét đạn vô, nó nổ cho một cái toác cả nòng. Tội nghiệp! Chết oan, chết uổng…

Nghỉ một lúc bác lại tiếp:

− Trận này kể ra thì cũng là thắng to đó bà con nà! Chúng nó khiếp lắm, đồng bào được một reo hò no nê. Trong khi bộ đội xung phong là đồng bào hai bên sông, từ Phong Điền đến Hải Lăng đánh trống đánh mõ, reo hò ủng hộ tinh thần bộ đội vang trời dậy đất. Tây khắp đồn hết vía, nổ ca nông vu vơ vào các làng xóm. Thôn Câu Nhi tiễn chân bộ đội hai con bò, bộ đội dắt về đó.

− Bộ đội về cả rồi à?

− Bộ đội đương hạ bò ngoài ấy. Vui đáo để.

Chanh như sực nhớ lại mấy thúng gạo vừa “giã” xong cho bộ đội, giục các chị em:

− Sửa soạn triêng, thúng đi các chị! Được chừng mô ta cứ gánh ra cho bộ đội cái đã!

Bác Cầm đứng lên, còn nói với:

− Gánh mau ra cho bộ đội còn kịp thổi cơm chiều đi! Khi vô thì nhớ xin bộ đội cho một bộ phèo cho thằng Gia Cát Thìn nghe không?

Bác lại kiễng chân đi, cười hì hì cho là nói được một câu khoái trá để trả miếng Thìn.

 

 

 

 

 

Chương VI

LÚA LẠI LÊN

Lúa gạo, ngô đậu, đường muối, cá khô: một chuyến tiếp tế ở đồng bằng vừa mới lên. Đây là chuyến tiếp tế thứ hai sau trận Mỹ Chánh. Mặc dầu trên con đường số 1, địch đã chặt trụi hết bụi bờ, đồng bào phấn khởi về trận chiến thắng lại giành nhau đi tiếp tế vận tải cho chiến khu. Chuyến này, đoàn vận tải đồng bằng có trên 200 người. Tin truyền ra làm cho cả chiến khu xôn xao cảm động. Họ lên đông, nhưng vì điều kiện bí mật, họ không thể tiếp tục vận tải từ C.K. 1 đến C.K. 2 và C.K. 3. Còn đoàn dân quân vận tải thường trực của chiến khu thì số đông vẫn chưa dậy được. Mót máy được vài ba chục người là cùng. Lương thực cần phải tập trung vào kho ngay để hong để sưởi chớ để tản mác thì không khéo lúa sẽ lên mộng, đường muối sẽ chảy nước mất. Lại mấy hôm nay trời mưa như nước chĩnh đổ. Vừa mưa vừa lạnh. Nước nguồn xuống ào ào! Cái cầu trên suối A Đoong từ Ty công an qua Ty bào chế trôi đi mất rồi. Các cơ quan bên này suối cơ hồ như không liên lạc được với cơ quan bên kia suối…

Bà Tảo, nửa đêm, đốt đuốc, băng qua suối, vào triệu tập hội nghị cán bộ tiếp tế C.K. 3 để giải quyết tình thế cấp bách. Hội nghị chỉ có 5 người. Thu đi vắng. Chanh ốm đã hai hôm, cũng gắng tới dự. Nhiệm vụ đề ra là phải tăng cường đoàn vận tải thường trực của chiến khu: yêu cầu Ủy ban kháng chiến chỉ thị các cơ quan đoàn thể huy động kịp sáng mai những thanh niên lành mạnh tự thân ra vận tải lương thực.

Hội nghị tuy ít người nhưng đã thảo luận với một tinh thần cấp bách. Ngoài trời vẫn mưa như trút, chim tử quy đã kêu săn dỏn.

Bà Tảo mang tơi, đốt đuốc, đi ra… Trước khi đi bà còn đặt tay lên trán Chanh dặn: “Da mát rồi đó! Nhưng cứ ăn cháo đừng vội ăn cơm vào mà khốn đó!”. Giọng nói của đồng chí Tảo bao giờ nghe cũng gay gắt nhưng cái bàn tay gân guốc của đồng chí đã để lại trên trán Chanh một cảm giác ấm cúng. Đồng chí Tảo tham gia cách mệnh từ năm 15 tuổi đến nay đã 62 tuổi mà vẫn không gia đình. Chanh ít gần đồng chí Tảo. Nhưng Chanh nhớ rõ cái ngày kỷ niệm Đông Dương cộng sản năm ngoái, nhớ đến những đồng chí đã hi sinh, đồng chí Tảo khóc sướt mướt như ngày giỗ mẹ. Ngày hôm đó, trong nhà có gì, là gọi các đồng chí đến ăn cho kỳ hết.

Đầu kín trong chăn, Chanh vẫn không thôi nghĩ đến người đồng chí già nửa đêm đốt đuốc ra đi vì công việc, xông pha giữa mưa lụt. Lắm lúc Chanh phải khổ sở vì thái độ hẹp hòi của đồng chí Tảo, nhưng mà giờ đây, cái hình ảnh người đồng chí trung kiên tận tụy đã làm cho Chanh thương mến một cách lạ lùng.

Sáng hôm sau, tưng hửng sáng, các anh em chị em các cơ quan kéo nhau ra Hòa Mỹ. Vào nhà nào cũng thấy chật ních những đồng bào vận tải ở đồng bằng lên. Lên trên này được cái sẵn củi, họ đốt lên, xúm nhau sưởi. Gặp những đồng bào ở trong chiến khu ra nữa, thôi thì tha hồ là chuyện.

Mấy chuyến trước thì chỉ có đồng bào Phong Thái, Phong Nhiêu là nhiều, chuyến này có cả đồng bào Quảng Giang, Quảng Thắng.

− Sáu tháng ni mới được đi vận tải bà con nờ… Làng “bầy tui” có thằng Tiêu ra giúp Tây đặt được Lý hương, bắt phu, bắt lính, nay nghe bộ đội mình đánh Mỹ Chánh, cha con sợ rút đầu vô không dám nhô ra. Cơ sở mình bây giờ về “xây” lại được cả… Tiêu đi đường Tiêu, Tây đi đường Tây… cả làng bây chừ ai cũng kháng chiến… Thực là ngủ một giấc với tề ngót sáu bảy tháng, bây giờ mới tỉnh dậy về với Chính phủ…

Cụ Khóa Phong Lai còn nói tiếp:

− Ngủ một giấc, mới có sáu tháng chớ không mấy! Dậy còn ngáp.

Cả bọn cùng cười. Từ trong đám dân tỉnh Vĩnh Nẫy, một ông trung niên dặm vào:

− Sáu tháng mà chưa vừa, không biết mấy tháng mới vừa.

Cả bọn lại cười. Cái ông Vĩnh Nẩy nói tiếp:

− Làng tui mới có ba tháng mà ngấy đến tận óc… Tinh lên Tinh chết. Súy lên Súy chết. Tề đâm lên đâm xuống như giã gạo. Bây giờ thì sạch không còn một mống. Nghe trận Mỹ Chánh có bom nhảy bom bay chúng càng khiếp. Còn thằng Cửu Đáp đến nay vẫn nằm trong vị trí Sơn Tùng, giặt tã cho con Hường, vợ thằng đồn. Thực là đẹp mặt ba thằng tề.

Một ông cụ râu hung hung từ nẫy chỉ ngồi hút hết điếu này qua điếu khác giờ cũng xen vào:

− Làng tui được cái vô sự, đầu đuôi xuôi ngược chẳng ngủ với hắn đêm mô cả.

Có tiếng cười trong đám thanh niên. Ông cụ tiếp giọng hơi gắt:

− Các người chớ có cười. Lời tôi nói là thiệt đó! Mình ngủ với nó một hôm là làm đĩ với nó một hôm, ngủ với nó hai hôm là làm đĩ với nó hai hôm. Con người ta quý nhất là giữ được hai chữ “chung tình” mà thôi bà con nờ! Làng bầy tui cái lều cái chái dựng lên là có đốt đi đốt lại tám chín phen rồi. Đốt hết thì chui xuống đất, nó có giỏi gánh được hết đất đi may ra bầy tui mới hàng.

Một anh thanh niên đứng lên nửa đùa nửa thật:

− Thưa, ôông nói cũng đúng đó, nhưng làng bầy tui đây có tề một độ “rút ruột đồng hồ” không ai theo giặc, cũng là “tái hồi Kim Trọng” cả.

− Ừ thì “tái hồi Kim Trọng” cũng là xin hoan nghênh! Nhưng tôi nghĩ bây giờ nỏ ai quý chi cái o Thúy Kiều. Ví như lúc bị gán cho Mã Giám Sinh thì cứ đá quách mà trốn tìm Kim Trọng thì mần chi có 15 năm đĩ già chớ! “Chấp kinh thì phải tòng quyền”, Thúy Kiều có lúc cũng hội tề cầu an ra bà con nờ!

Bỗng có một thanh niên đứng lên giọng như lệnh vỡ:

− Các cụ nói thì hay cả, nhưng cháu nghĩ, các cụ bỏ quá cho, trừ ba thằng, ba con Việt gian chứ nhân dân đồng bào ta chả ai “mất trinh” với Tây hết. Không những không mất trinh mà hiện giờ làng trên xã dưới đều đánh cho chúng nó toang hoang cả đó.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Đoàn mấy anh chị vận tải chiến khu vừa xuống cũng nhảy vào, Thìn, Đức cũng theo sau. Thìn vừa suýt soa vừa bô bô cái miệng:

− Rét quá! Cóng cả tay chân! Nghe nói có đồng bào Phong Lai lên! Ủng hộ anh em mỗi người một điếu thuốc Phong Lai, hút chơi cho ấm bụng.

Ông già Phong Lai đứng phắt dậy, niềm nở:

− Tưởng cái chi chứ cái nớ thì không dám tiếc với bà con. Mấy tháng ni thuốc làng bầy tui, thứ thì nó cướp, thứ thì nó đốt thì răng? Bầy tui chỉ chờ bộ đội về gánh lên mà hút.

Vừa nói ông vừa đưa cho mỗi người một ngọn. Thìn vừa cầm ngọn thuốc vừa hỏi:

− Làng ta bây chừ răng ông?

− Đánh chớ răng nữa anh? Nghỉ chán rồi thì chừ phải đánh chớ. Trước kia Tây ra chỉ có thanh niên thanh nữ là chạy tránh. Bây chừ thì ông cha mụ lão đều chạy tuốt.

Bỗng ông nhìn chăm chăm lấy Đức:

− Con có phải con bà Phó trên làng không, nhìn quen quen.

Đức cười, gật đầu:

− Thưa ông, chộ ôông con không dám nhận.

Ông cụ bỗng xích lại gần Đức và kêu lên:

− Mạ mi này! Tội nghiệp, con bà Phó đây này!

Một bà cụ hơi toét mắt, nãy giờ ngồi ôm bếp lửa, chạy ra nơi có ánh sáng, cầm lấy tay Đức, nhìn tận mặt Đức:

− Cơ khổ! đau ốm răng mà xanh xao rứa con! Chào! Năm ngoái năm tê còn xả tóc, rứa mà bữa ni lớn “sòng sôộng”. Ông mi không nói ra đường gặp e tôi nhìn không ra! Càng lớn lên càng giống bà Phó quá! Cơ khổ… Thím lo đêm lo ngày. Con không nhắn tin về thành thử thím lo, bây giờ tóc bạc hết.

Thấy Đức rưng rưng nước mắt, bà cụ an ủi:

− Nói rứa, chú thím ấy còn khỏe chán. Thím vô hội mẹ chiến sĩ, đi hội nghị cả ngày, “phát biểu, yêu cầu” chẳng thua chi đám thanh nữ.

Bà xoay câu chuyện:

− Thế trên này đã kiếm được “eng” (1) mô chưa? Nhắn về cho thím ấy mừng.

Thìn xen vào:

− Có rồi đó, mẹ à!

− Thiệt hay giả?

− Thiệt đó mẹ nà!

Đức đưa tay đập vào tay Thìn:

− Anh nớ nói đùa đó mẹ nờ. Đừng có tin.

Bà cụ tiếp luôn:

− Mẹ nói thực đó! Có eng mô thì ưng đi. Mau có cháu gửi về cho thím ấy nuôi cho. Chào! Thím nớ mà có được cháu ngoại mà bồng thì có chạy Tây mấy cũng sướng.

Ông cụ nãy giờ không nói gì, lấy hầu bao móc ra mấy tờ giấy trăm đưa cho Đức:

− Cầm lấy!

Thấy Đức từ chối, ông xích lại gần nữa:

− Không phải ông cho mô! Con cầm lấy mà uống thuốc. Về ông lại lấy nơi mạ con.

Thấy Đức vẫn rụt rè, ông cụ hét:

− Cầm lấy, cầm lấy!

 

 

***

Trời sáng bật. Chanh thấy trong người còn ơn ớn, cơn sốt vẫn còn ê ẩm. Mặc kệ, chị vẫn nhảy xuống đất. Đoạn đi tìm húp vội mấy miếng cháo rồi ra đi. “Đồng chí Thu sốt, đồng chí Cầm cũng sốt, đồng chí Tảo nhiều việc, chắc là chẳng có ai ra ngoài ấy để đôn đốc anh em chị em”. Nhưng khi chị ra đến C.K. 2 thì đồng chí Tảo cũng ở đấy, cả đồng chí Thu, mặt vẫn còn xanh như tàu lá, nói không ra hơi, chạy đi chạy lại trực tiếp coi ngó việc hạ cây, bắc một cái cầu tạm qua suối A Đong. Đoàn vận tải cũng vừa vào đến nơi, trời vừa mưa vừa lạnh, anh em mới đau dậy, áo quần ngoài khu chưa tiếp tế vào kịp, rách trước rách sau. Anh Choi, vận tải dân quân, trước mạnh như con trâu, nay hai chân như hai ống sậy, mấy hôm nay tưởng đã khỏe, sáng nay tham mần một gánh nặng, qua đến dốc nhà bà Tảo thì lên cơn, phải có người cõng anh vào. Thìn cũng mới đau dậy, gối còn run, chân không bấm được bước lên hòn đá rêu, ngã một cái “oách” chợt cả tay. Thế mà miệng vẫn như sanh như sứa, làm cho cả đoàn cười rú lên. Anh Cang cũng ỳ à ỳ ạch mang trên lưng một bao cá khô. Xoa, Đức thì không cần chống gậy, chỉ bấm chặt chân mà bước. Áo quần bị mưa ướt dính vào da thịt. Mỗi khi qua được đoạn đường dễ dễ, các chị lại chạy lên để có hơi nóng trong người. Mấy anh Vệ quốc đoàn ở trong trại An dưỡng đường đương ngồi đốt lửa, thấy mấy chị đi qua hò một câu:

− Thấy nàng ướt lạnh sao đang

Vào đây sưởi chút ấm nàng ấm tôi.

 

Xoa đáp liền:

− Bây chừ thì ấm cả đôi

Đến mai anh thiếu cơm lạnh bụng thì em ngồi sao đang?

Chanh cũng vừa đi tới. Thấy Chanh, Xoa đã kêu lên: “Chị Chanh, ai biểu chị đi đó?”. Xoa ngừng lại kéo tay Chanh: “Về đi! Bà Tảo phê bình cho chừ! Anh em đông đủ lắm! Không phải phần chị gánh mô, về đi mà nghỉ!”.

Chanh đành phải quay trở vào với Xoa và Đức. Đến kho, Xoa đặt gánh xong giơ cho Chanh một gói đồ: “Mạ em gởi cho em đó!”. Và tiếp luôn: “Đồng bào lên chuyến ni đông lắm. Có cả đồng bào xã Hiền Lương nữa. Hiền Lương, chừ Tây cũng chạy cả làng rồi… chị nờ”.

Diên, Thìn cũng về đến nơi! Thấy Xoa có cái gói đồ họ xúm lại tranh nhau mở… Diên mở ra, đưa lên từng cái một… một vuông thao... chắc để may yếm đó! Xoa nói: “Các bà ấy lạc hậu tưởng tụi mình còn thích yếm thao lắm đó!”.

Lại mấy thước vải nâu… Và trời ơi mấy lon đậu xanh, còn mấy cặp đường Quảng nữa. Thìn nhảy tới: “Xin phép mần tươi ngay! Mần tươi ngay!”.

Không cần sự đồng ý của Xoa, Thìn lấy một bảnh đường, chặt chia cho mỗi người mỗi miếng. Tiếng đùa rộn vang cả kho. Trong lúc đó thì Xoa ngồi vào một xó, đưa thư mẹ ra đọc. Xoa mới học đánh vần từng chữ một.

Chanh vẫn đứng một bên:

− Đánh vần lâu thì để con Diên nó đọc cho.

Xoa đưa thư cho Diên. Diên đọc to lên:

“Gởi con Xoa,

Nhân có anh Huân lên Xê-ca mạ gửi con mười mấy thước vải nâu, một vuông thao để con may yếm may áo. Nghe nói trên nớ các con thèm đồ ngọt lắm! Mạ gửi cho con hai lon đậu xanh, hai cặp đường Quảng để con nấu chè. Chừ mạ nói chuyện nhà cho con nghe. Mệ ngoại con mất bữa tháng sáu, phần vì già cả, phần vì con cháu khó nhọc, thức khuya làm hôm, ngủ bụi ngủ bờ. Làng ngoại “mềng” cũng đã thôi hương lý rồi, chắc con cũng biết. Làng mềng chừ cũng rứa. Lý Dương chết rồi, không ai dám đứng ra nữa. Tây đến là tránh cả làng chứ không như trước nữa. Ông Cửu Quýnh hồi Tây đến, nói với dân là “chộ” Tây đừng có tránh thì nay ông tránh đầu đàn. Anh Khiêm con bữa ni thôi thông tin, đi du kích xã, lâu lâu mới ghé về nhà. Bây chừ có chuyện đau buồn này, mạ cũng chả muốn giấu con nữa. Hôm rằm tháng 8, Tây Lợi Hà ra, mạ đi ăn giỗ bên ngoại con, con Thiêm ở nhà một mình. Tây băng ngả sau. Hắn chạy không kịp để Tây bắt được… mấy thằng xúm vào hành hung. Hắn ngất đi. Bọn Tây ra về, chộ có vết mực Bình dân học vụ trên tay con Thiêm, tụi nó nói là Việt Minh, nả súng bắn liền liền. Mạ về, trong nhà còn mấy vuông vải mạ khâm lượm cho hắn cũng tươm tất. Hơn nửa tháng trời mạ buồn không ngó ngàng chi đến cơm cháo. Thằng Khiêm về thấy mạ khóc sưng mắt sưng mũi hắn biểu mạ: “Khóc chi! Để mặc con!” Rằm tháng 9 Tây Lợi Hà lại ra. Thằng Tây cá kho xăm xăm đi đầu, băng từ vườn ông Cửu băng qua vườn mình, trúng ngay lựu đạn gài của thằng Khiêm, chết ngay tức thì, sọ văng khỏi trốc. Như rứa là em con chết cũng là được an thỏa rồi con nờ…”

Nghe đến đây Thìn nghiến răng nghiến lợi nói pha vào:

− Thằng Tây cá kho nớ chết rứa chưa sướng, cứ là bắt sống được gọi là cho mỗi người dân Hà Lạc bầy tui xẻo mỗi người một miếng mới hả. Hắn chết rồi không ai lắt trái tim hắn xem ra răng mà hắn ác rứa! Hắn bắt được anh Tháp bên bầy tui hắn bắn rồi còn treo lủng lẳng lên giữa xà nhà ba ngày ba đêm không cho vợ con động tới! Đã ác lại còn “nhớp”. Cái giống Tây chỉ ăn bẩn ăn thỉu, đi lùng thấy trách cá kho là chúi trốc chút tai “ních” một mình, cả vùng Quảng Giang gọi hắn là thằng Cá Kho là vì rứa!.

Mọi người cười hì hì. Thìn tiếp luôn:

− Cứ mạng đổi mạng rứa cũng tạm được rồi bà con nà! Thôi ta đứng dậy hè! Còn mần mấy chuyến nữa chớ!

Xoa vừa đứng lên vừa lau nước mắt. Con Diên chạy lại bên Xoa hỏi:

− Chớ chị Thiêm có bằng tuổi em không chị?

− Hắn đứng mới ngang vai em là cùng! Năm ni cũng mới có 13 tuổi!

Chanh nhổ một bãi nước bọt, quay mặt đi:

− Cái quân khốn nạn! Chó má cũng không thế, nữa là người.

Xoa quay gánh ra đi, còn ngoái lại:

− Chị Chanh, chị vào mà nghỉ đi. Chốc nữa có ăn cháo lấy đường của em mà ăn nhá!

 

 

 

Chương VII

XUÂN VỀ

 

Từ chiều 30 Tết, Cang đã đi ra Hòa Mỹ với Việt, một nhân viên công an. Việt có nhà đồng bào quen ở Lưu Phước, rủ Cang cùng đi. Chủ nhà thuộc hạng trung nông, đủ ăn. Người trông đã quá 40 tuổi. Nhà bác khi Tây đóng ở đồn Lưu Phước, bị đốt ba lần. Sau mỗi lần Tây đốt, bác chỉ dựng lên một cái lều nho nhỏ, đủ che mưa che nắng, còn của cải thì bác chôn cất ở trong rừng hết. Nhưng từ ngày Tây rút đồn thì bác sửa sang lều trại lại và bây giờ đã có một bề thế ngăn nắp lắm.

Bác chặt một cây chuối nhỏ cắt ra từng khúc. Bác vừa cắm vào đấy mấy que hương vừa nói với anh Cang và Việt:

− Có mấy cái lư hương Tây nó đập mẹ cả rồi… Tôi có cả một bộ tam sự chôn ngay chính giữa nhà. Mình tưởng là mưu cao lắm rứa mà tổ cha thằng “biện” Tuy chỉ cho Tây nó đào lấy hết. Thôi bây giờ còn chi cúng nấy. Thời buổi kháng chiến, chắc ôông mệ nỡ trách chi con cháu.

Bỗng có tiếng khóc nổi dậy, từ nhà xóm giềng bên phía đông:

− Chú thím nớ khóc đó!

− Răng mà khóc dữ rứa?

− Khi Tây còn ở đồn Lưu Phước, xe ô-tô nó lên tận đồn. Máy nổ ầm ầm cả ngày. Sắp cháu cũng quen như hồi mình cướp chính quyền. Nghe tiếng xe là cũng bắt chước tự vệ hô xung phong. Không hay Tây ngoài đường hắn nghe thấy được. Chúng vào sục sạo cả mấy nhà ni, bắt ra đến mười đứa con nít. Có đứa vai còn mang cả súng chuối. Thằng Tây đội bắt chúng nó sắp hàng đôi rồi ra lệnh chúng nó “một hai, đều bước”. Thế là sắp trẻ lại cứ “một, hai”. Chúng vừa cất bước thì một tràng súng máy cắt ngang chúng nó. Chú tôi thiệt mất ba đứa. Tôi bị một. Tôi nghiệp! Sắp trẻ láu lỉnh quá!

Việt tặc lưỡi:

− Tội ba thằng Tây đổ xuống sông xuống biển cũng không hết được!

Chủ nhân bỗng khóc rú lên:

− Tội nghiệp! Cháu nó kháu lắm, hai bác ạ! Học mô nhớ nấy. Mới chưa đầy bảy tuổi mà cửu chương đọc xuôi đọc ngược thuộc vanh vách.

Mùi hương lan tỏa. Trời đã nhá nhem tối.

Cang nói với Việt:

− Mọi năm, bây chừ nêu đã cất lên, và pháo đã đì đẹt khắp làng xóm.

Cang thở dài. Anh nhớ đến thằng con anh. Kể qua hôm nay nữa thì nó cũng bảy tuổi rồi. Anh nhớ ngày trước kháng chiến. Nó cũng đội cái mũ ca lô giải phóng quân, vai mang một cái súng gỗ “một hai” cả ngày. Anh còn nhớ rõ tiếng hát của nó: “Đoàng quâng Việt Nang đi. Một hai, một”.

Anh tưởng chừng như đang trông thẳng vào hai con mắt sáng quắc của nó, đưa tay đón thằng bé chạy ngã vào lòng mình. Anh tự nghĩ: “Ước gì mình có cánh vút bay về xem thằng nhỏ lúc này đang làm gì cho biết”. Từ độ vợ con anh về Huế đến nay anh không tiếp được một lá thư nào hết. Anh đã nhờ công đoàn Thuận Hóa tìm hộ, nhưng vẫn không có tin gì đích xác, mà nghe rặt những tin đồn. Cái miệng của thiên hạ không biết đâu mà lường được. Người ta bảo vợ anh đi Sài Gòn rồi! Đi Sài Gòn! Anh cũng biết người Thuận Hóa bây giờ sống trong cảnh trụy lạc còn gấp trăm, gấp nghìn hồi trước nữa… Những cô, những bà, nhất là những người sạch con mắt một chút thì không sao tránh khỏi những anh An ninh, Phòng nhì. Người ta còn nói chuyện các cô ở vùng tự do về thế nào cũng được tên thủ trấn tiếp chuyện một hôm!... Rồi thì cái việc phụ nữ đi Sài Gòn hầu như đã thành một phong trào. Người ta đi Sài Gòn để che giấu những sự bỉ ổi, sự vụng dại.

Bác chủ nhà đã hạ xuống một mâm cỗ. Đã lâu không gặp, được một bữa thịnh soạn như thế này, anh đánh tới nơi. Bác lại xách ra một be rượu:

− Cái này thì quanh năm không dám, nhưng Tết nhất thì chắc cụ cũng bỏ qua cho con cháu được vui với ông bà một bữa… Hai đồng chí cầm với tôi một chén cho “bui”.

Hai người này cũng không từ chối… Men rượu đã bốc lên, người nào người nấy mặt đỏ như gấc.

Chủ nhân giơ tay nói:

− Con cháu nó giết, thì còn cha chú, hắn có “sương” được đất mà đi thì mình mới chịu thôi, chứ còn mống nào là còn đánh. Giết chừng nớ chớ giết nữa  chúng nó cũng chẳng làm gì xuể. Anh Cang lên sau chưa rõ chứ làng "bầy tui" đây cũng đã hi sinh nhiều trong cái trận Đất Đỏ. Bác Cửu Cảnh làm tay trong cả dân làng "bầy tui" vào làm cu li trong đồn, nội ứng cho bộ đội ông Lâu đấy. Nhờ rứa mà bưng được cả đồn, mà chiến khu mình mới củng cố lại được. Chúng nó chết còn có mấy thằng chạy thoát. Dân quân đuổi bắt được hết. Nói có hai bác chớ kẻ mất con, người mất cháu, nhưng mà trong bụng vẫn an thỏa đôi chút.

Anh Cang nhìn cái vẻ căm tức khoái trá của bác chủ nhà mà thèm thuồng. Rượu vào anh lại càng thấy một cái gì đó hoang mang bất định xâm chiếm cả lòng anh. Mọi người đã ngủ mà anh vẫn còn thao thức.

Men rượu đã hả dần, trông lên bàn thờ vẫn còn mấy que hương đỏ trong đêm tối dầy đặc. Nhắm mắt lại là anh thấy hình dáng vợ con anh. Xa xa... chim tử quy kêu, những con chim tử quy đực và cái đêm đêm đi tìm nhau. Đầu hôm thì mỗi con mỗi ngả, rồi vừa đi kiếm ăn vừa kêu nhau, cứ thế cho đến gần sáng mới giáp vòng và hai vợ chồng mới gặp nhau.

− Nó cũng là con ông cháu cha; không lẽ nó lại tồi tệ đến thế.

Cang không muốn tin những tiếng đồn của thiên hạ. Đầu gối tay ấp cũng đã ngót mười năm. Cũng đã có con cái với nhau.

Trong nhà đã im lặng. Anh Việt nằm trên cái chõng bên cạnh đã ngáy khò khò… Cang mạnh bạo đứng lên, đi ra sân, ngẩng trông lên trời, sao ông Thần Nông đã chếch xuống. Có lẽ đã quá nửa đêm rồi...

“Đường đi từ đây xuống đồn Phú Ốc dầu cứ phải đi lén lút trong rừng hay băng qua cánh đồng cũng còn kịp chán. Không đến nỗi trời bật sáng đâu mà sợ”. Hình ảnh vợ con anh lại hiện ra như thu hút cả tâm hồn anh. Những tiếng chó con của đồng bào vừa mới mua lại từ ngày hồi cư động nghe một tiếng chân là tiếp nhau sủa. Trong nhà tiếng người đã xôn xao.

Trong đầu óc bỗng lố nhố ra những bộ mặt quen thuộc mà anh đã đụng chạm gần trên một năm nay. Mỗi ngày gần thêm, họ lại tìm thêm những khía cạnh êm ái dễ chịu.

“Thật là dễ chịu quá! Cái bác Cầm ăn nói phều phào... và nhiều khi sỗ sàng nữa. Học thì học trước quên sau, cái óc như đất sét, lắm lúc trong lớp học bình dân mà anh phụ trách anh đã phải gắt lên. Nhưng mà bác trung thực tận tụy, trung thành quá. Bác nói là bác làm ngay. Bác nói thương là thương thật. Với lại những người như chị Chanh ở ban xay giã, như Đâu lao công trong ban tiếp tế…”. Những con người ngày trước anh nhìn bằng con mắt khinh miệt… thì chính họ hôm nay đã mở sáng cho anh nhiều lắm. Những con người mắt dán ở đằng trước, hai chân bò tới, lao mình vào một đạo đức mới. Không mỏi mệt, cả một tinh thần cầu tiến hăm hở lắm lúc đã làm cho anh phải cảm động.

Gần một năm nay, nghĩ lại những gian khổ đã qua, anh cảm thấy rùng mình. Tại sao con người có thể chịu đựng đến thế? Rứa mà rồi cũng qua hết! Thật là kỳ diệu… Và hình như anh cũng đã quên dần rồi… Trong hoàn cảnh kháng chiến ở một chiến khu, anh cũng đã bắt đầu thích ứng. Anh cảm thấy xung quanh mình đã chớm nở một không khí êm dịu, nương tựa, tưởng chừng như cứ phải thế này lâu hơn nữa, năm, mười năm nữa, anh cũng vẫn chịu được.

Xa xa chim tử quy mỗi lúc tiếng một săn dòn một cấp bách. “Hai anh chị sắp gặp nhau rồi đó”. Cái ý tưởng về thăm vợ trong vùng địch, cái ý tưởng ấy bây giờ đã thoáng qua như một bóng người trong giấc chiêm bao.

Trời đã hửng sáng. Việt đã cựa mình rồi đứng phắt dậy và nói một cách tỉnh táo:

− Mồng một Tết, đồng chí dậy sớm quá. Định xông đất nhà ai đó? Khoan, để mình bàn với chủ nhân mần một ấm nước sôi đã... Thị xã vừa gửi cho mình một gói tam hỉ đây! Uống một tuần cho tỉnh táo rồi đi du xuân...

 

***

 

Một tiếng mìn nổ. Tiếng mìn khai xuân của chiến khu. Rồi từ bốn phía nổi dậy những tràng pháo nhỏ của bộ đội để thay thế cho những tiếng pháo đầu xuân. Mọi người đang đứng nghiêm để chào lá cờ đỏ đã cất cao trên nhà đại chúng.

Trên những con đường thanh niên chiến khu mới đắp xong, người đi lại tấp nập. Việt và Cang cũng đã ném thân vào giữa đám đông. Người đâu mà lắm thế! Mỗi lúc một đông. Đến trước nhà đại chúng thì không nhê nhích được nữa. Đồng bào từ Phong Thái, Phong Nhiêu, các xã trong huyện Phong Điền, Quảng Điền kéo lên từ khi hôm. Và sáng nay cũng còn tiếp tục đến. Đồng bào đã bỏ hết cái Tết của gia đình, của làng xóm để lên với cán bộ, với bộ đội.

Những ông cụ già, những bà mẹ, những o thanh nữ, rồi những chú thiếu nhi... Họ tải bánh chưng, họ tải mứt đường lên, họ dắt cả bò me lên để mừng tuổi bộ đội, cán bộ. Giữa đám người màu áo nâu hay đen, trắng, xen lẫn những thanh niên mặc âu phục, những thiếu nữ với những áo mầu sặc sỡ từ Thuận Hóa cũng vừa lên sáng nay.

Bác Cầm cũng khiễng chân ra đến nơi rồi đó, chị Vinh cũng “na” thằng Duy ra cho được. Rồi thì mẹ Thẩm, miếng trầu đỏ chót… Chanh, Xoa, Diên, mặt tươi roi rói. Cả cái ban kinh tiếp tế của anh cũng đủ mặt… Những chị bào chế áo đen dài cổ thắt khăn trắng như nữ trạng sư, và những anh công nhân đoàn áo xanh của nhà in “Giết giặc” hay cơ xưởng từ trong rừng sâu cũng đã ra tới nơi. Nói nói cười cười vang cả đường cả quán.

Bỗng một cái vỗ mạnh vào vai anh, anh quay lại thì ra Sáng, người bạn cũ của anh, trước làm tòa sứ nay cũng đi phái đoàn Thuận Hóa lên thăm chiến khu. Và hiện giờ anh đang làm trong sở giáo dục của bù nhìn. Sáng nhìn Cang một cách trâng tráo từ đầu đến cuối. Những lúc khác thì anh cũng đã luống cuống trước bộ quần nâu kháng chiến đã bạc mầu của mình. Nhưng trong giây phút này anh cảm thấy như một cái gì tự hào sung sướng về cái bộ quần áo nâu này, và cả cái bộ mặt sốt rét này nữa.

Người anh hư quá!

Anh đáp lại một cách tự đắc:

− Trên này ai chả thế! Đã quyết lên đây là nhất định phải thế rồi!

Rồi anh hỏi chuyện Thuận Hóa, về anh này, anh nọ, những bạn cũ, những người quen. Anh chua chát khi trong đám quen thuộc ấy được tin những thằng như thằng Duân, thừa phái bộ Hình trước đã đi làm xếp bót “bô-lít”.

Anh tự hào thấy mình đã xa cách cái đám người lạc hậu kia. Anh sung sướng nghĩ đến ngày kháng chiến thành công cùng với bộ áo nâu sẽ tiến vào thị xã. Và anh sẽ ngồi ở cà phê Lạc Sơn để nhìn những đám người, xe, ngựa đi qua lại.

Tay vừa rời khỏi tay bạn, anh ngoái đầu lại toan hỏi về tin vợ con anh, nhưng trong trí anh đã vội gạt đi ngay… “Hỏi làm gì? Nếu quả nó ở tệ thì có trời!”

Nhìn lại cái đám người cứ mỗi lúc mỗi đông từ đồng bằng lên không ngớt, lòng anh cứ như sáng rực lên, sáng rực mãi. Không bao giờ Cang tin tưởng như buổi sáng đầu xuân này.

Đến một chỗ hơi vắng người, Việt suýt soa nói với anh:

− Tết nay với tui là 30 cái Tết rồi, mà thật ra chưa có cái nào đầm ấm và vĩ đại như cái Tết năm ni, gặp ai cũng như quen thân hết. Xa nhà mà được thế nầy cũng ấm chán.

Cang nhìn Việt mỉm cười sung sướng vì thực ra Việt đã nói được lòng mình trong ngày hôm đó.

 

 

Chương VIII

GIỮ VỮNG

Chanh vừa tiếp được giấy của bà Tảo ra chiến khu 1 ngay có việc gấp.

Chanh tự nghĩ: Chứ việc gì mà gấp rứa? Rồi chị lại tự đáp: Chắc lại cái việc anh Hậu chứ gì?

Anh Hậu vẫn ở dân quân vận tải. Đôi lúc anh quả có tiêu cực đôi chút thật. Nhưng mà người như anh, cứ gọi là được trời cho được mạnh tay bạo chân là anh lại kiếm công tác mà làm chứ có chịu nằm yên. Vả từ ngay sau khi đã đưa việc anh ra bàn giữa hội nghị đoàn thể, các đồng chí cũng đã nhìn anh với một con mắt khác trước…

Chính bà Tảo cũng dã thân hành tới hỏi thăm Hậu, chăm nom sức khỏe Hậu, và Chanh nhớ có một bận, bà Tảo đến thăm Hậu, gặp con Diên đi qua, bà nguýt dài một cái… Chanh lại mỉm cười tự nghĩ: Đồng chí Tảo vẫn còn nhiều thành kiến lắm… Gọi mình không khéo lại việc anh Hậu thật!

 Chị đi qua khỏi suối thì gặp ngay Vệ “quân trang” ở Hòa Mỹ về.

− Súng nổ rát lắm! Chị nạ! Từ sáng bưng bửng đến giờ nghe không ngớt… Ở Hòa Mỹ nghe rõ mồn một…

− Súng nổ ở phía mô rứa?

− Chừng như là trên đường quốc lộ hết… Coi bộ chuyến này Bảo Đại sắp về Huế, chúng nó càn quét dữ để vẽ mày vẽ mặt cho thằng đó, không biết đồng bào chèo chống đỡ gạt ra mần răng? Tội nghiệp!

Đi đến gần “viễn vọng đài”, từ đằng xa chị đã nhận ra thấy Thu đương mải miết nhìn về phía đồng bằng… Nghe tiếng động, Thu quay lại nhìn thấy Chanh, gọi Chanh trỏ:

− Chị có thấy chỗ có khói lên đó không?

− Thấy! Thấy!

− Chị có biết chỗ nớ là chỗ mô không?

− Trên đường quốc lộ chứ mô nữa!

− Đã đành là trên đường quốc lộ. Nhưng mà đoán thử làng mô, xóm mô chứ? Tôi đồ như là phố Trạch Thượng thì phải. Tội nghiệp cái xóm Chợ mới dựng, bây chừ lên nó lại đốt hết rồi! Đó đó chị có nghe rõ tiếng súng không? Súng bây giờ không nổ chỗ khói nữa. Súng lên xóm trên này rồi. Chà nổ dữ quá, không khéo chúng lên đến xóm Lác, địa đầu Phong Nguyên…

− Xóm Lác, xóm mẹ Hy, phải! Tội nghiệp quá! Không biết mẹ có chạy được hết đồ đạc ngô lúa không? Ông ấy đi bộ đội, con đầu cũng đi bộ đội, một tay mẹ ba đứa cháu dại. Hôm trước về, mẹ lót cho một ổ rơm ấm quá, tội nghiệp!

Từ xa từng tràng súng máy lại nổ liên tiếp như xoắn cả ruột.

Đồng chí Thu lại kêu lên:

− Nổ chi mà nổ lắm! Nóng cả ruột!

Hai mắt của Thu bỗng sưa sứa. Chanh cũng ngùi ngùi:

− Sao không thấy mìn dân quân nổ anh nè?

− Hôm qua thì nổ dữ… nhưng sáng nay đợi mãi chẳng nghe… hình như cơ sở vùng này không được vững lắm.

Đoạn Thu cùng Chanh đứng lên, đi ra Hòa Mỹ. Đến trụ sở ban tiếp tế C.K. 1 thì Chanh rẽ vào chỗ làm việc của đồng chí Tảo. Đồng chí Tảo đương ngồi tính sổ, đưa tay kéo Chanh ngồi bên cạnh, miệng đon đả khác mọi ngày:

− Tôi thì không có trầu. Có ăn thì tôi xin chị Lý cho một miếng.

− Dạ thôi!

− Thì uống một miếng nước cho ấm rồi nói chuyện.

Đồng chí Tảo đưa tận tay Chanh một cốc nước và nói tiếp:

− Tôi tin cho đồng chí biết là Ủy ban và Đoàn thể quyết định rồi đấy, cán bộ, bộ đội xuống đồng bằng.

Chanh ngắt hỏi:

− Thế bác có biết là mấy hôm ni nó càn quét ở mô mà súng nổ dữ rứa không?

Bà Tảo mỉm cười:

− Càn quét ở mô kệ nó! Mà rồi ở đây nó còn càn quét hung hơn nữa chớ phải chừng nớ thôi mô! Nhưng mà chương trình mình xuống thì cứ xuống!

Chanh mỉm cười:

− Không, là tôi hỏi cho biết rứa thôi! Chứ có phải là tôi…

− Mấy hôm ni thì nó càn quét dữ thật đó, mà dân quân đánh cũng dữ. Có tin cho biết là cái đoàn tiếp tế của mình vừa rồi cũng mắc nghẽn. Đò, nốc cũng phải nghỉ. Chợ Hòa Hưng, đồng bào không có mấy ai lên cả. Thôi để tôi nói tiếp… Quyết định của Chính phủ và Đoàn thể là một bộ phận bộ đội xuống đồng bằng. Ban tiếp tế tỉnh sẽ đặt một bộ phận quan trọng ở dưới đó, những cán bộ trung kiên phải xuống ngay tại dưới đó.

Bà ngẩng lên nhìn thẳng vào đôi mắt Chanh, đoạn hớp một hớp nước và nói tiếp:

− Với lại rồi đây, một bộ phận chiến khu cũng sẽ dời vào miền Nam. Ba huyện miền Nam, chắc đồng chí cũng biết, bây giờ cơ sở cũng vững hơn. Địch cố tập trung lực lượng để giành với ta từng người dân, các cơ quan chỉ đạo tỉnh cần phải xuống gần nhân dân hơn nữa và vào miền Nam, cũng gần Thuận Hóa thêm một bước nữa. Đối phó với địch sẽ kịp thời hơn. Ở chiến khu Dương Hòa về Huế có mấy giờ thôi, chị nà!

Đòng chí Tảo ngừng lại cười hề hề và câu chuyện đương nghiêm trang bỗng đổi ra tươi tắn hơn:

− A! Đồng chí Chanh còn có bà con ở Huế không hỉ?

− Chú em còn ở đó! Nhưng mà đã lâu cũng mất liên lạc.

Bà Tảo lại nói tiếp:

− Như rứa là một bộ phận mà là bộ phận chính của ban tiếp tế, đồng chí xem, phong trào nó cứ phình ra rứa. Cán bộ mô cho kịp. Nhưng rồi cũng phải có đủ cả đó! Chị nhắm thử có ai thay chị đi Dương Hòa được không?

Chanh hơi ngạc nhiên:

− Rứa tôi không đi được à?

− Về chị hãy bàn sau. Tôi thì thấy như thế ni: một mình chị Vinh cũng chưa thay thế chị được, một mình chị Xoa cũng chưa thể thay thế chị được, nhưng mà cả hai thì hẳn là thay thế được chị, gần đây chị Vinh, xem chị gần đây thế nào?

− Cũng tiến bộ.

− Tiến bộ! Ai lên đây mà chẳng tiến bộ, nhưng tiến bộ ra sao chứ?

− Có tinh thần trách nhiệm lắm! Làm chi là có báo cáo, bàn bạc với chị em và giúp đỡ văn hóa chị em nhiều lắm.

− Còn Xoa học đến đâu rồi?

− Đọc báo “Giết giặc” được rồi!

− Cũng chưa đảm bảo. Cứ cả hai vào trong đó thay chị thì vẫn hơn. Ý kiến ban kinh tiếp tế tỉnh cũng muốn để Vinh làm trưởng ban. Bây giờ tôi lại nói chuyện công việc tiếp tế của mình ở đồng bằng. Theo tài liệu mà mình vừa bắt được: mùa sắp tới cũng như mùa tháng 10 vừa qua, chúng lại thu vằng hái, bắt dân đi gặt cướp cho chúng. Chúng lại rục rịch lập những nhà kho để bắt đồng bào tới gởi lúa cho chúng. Nếu ăn không được thì chúng phá. Hộ lúa năm nay giựt được trong tay giặc không phải dễ mô. Mình phải có kho bí mật và phải có nhiều bộ phận thường trực dưới đó, để hướng dẫn công tác thu cất vận chuyển. Chị nghĩ xem, không phải người trung kiên chiến đấu biết lo huyết mạch của nhân dân thì làm thế nào cho nổi.

Giọng của đồng chí Tảo bỗng trở nên nghiêm trọng:

− Đồng chí là một trong những đồng chí mà Đoàn thể đã chỉ định phụ trách một trạm quan trọng ở dưới đó.

Nghỉ một lát, đồng chí Tảo thong thả tiếp:

− Cụ thể đi ở mô, lúc mô đi, nhận những trách nhiệm gì, sẽ làm sau, bây giờ đồng chí vắn tắt cho biết ý kiến đối với việc điều động đó.

Một phút im lặng kéo dài giữa hai người. Chanh là người thấy rõ nhiều khuyết điểm của đồng chí Tảo nhưng mà trong những trường hợp nghiêm trọng như thế này, động đến cách mệnh, đến đoàn thể, Chanh lại nhận thấy người đồng chí già héo hắt khô khan đó trở nên như có một sức truyền cảm chân thành giao động cả lòng mình. Bao nhiêu sung sướng và lo lắng lộ ra trong đôi mắt của Chanh đương nhìn thẳng vào đồng chí Tảo.

Đồng chí Tảo nhắc thêm:

− Mai đồng chí sẽ gặp đồng chí Thu, đồng chí Thu sẽ chỉ thị rõ, chừ uống thêm một miếng nước nữa cho ấm bụng rồi vô… Trời hôm ni còn rét lắm, nhưng thấm chi cái năm ngoái khi vỡ trận! Chào ôi! Rét chi mà rét đến lạ lùng rứa!

Chanh đứng lên coi bộ còn chần chừ. Đồng chí Tảo lại hỏi:

− Ý kiến đồng chí còn muốn nói chi nữa thì cứ nói.

− Tôi chỉ muốn hỏi về việc của anh Hậu thôi.

− Hậu đã quyết định rồi đó. Anh Hậu sẽ phụ trách một chuyến áp tải quan trọng. Không phải bàn nữa, mai mốt lên đường.

Chanh bước ra, đồng chí Tảo còn gọi giật lùi lại:

− Nhưng về con Diên thì tôi nghĩ là… các đồng chí phê bình tôi là hẹp hòi, tôi cố sửa chữa. Nhưng mà cũng đừng nên để cho lảng vảng gần anh Hậu nữa… Hay là cứ trả quách nó về bộ đội. Rứa mà gọn đó! Chị nghĩ sao?

 

***

 

Công nhân cơ xưởng, nhà in “Giết giặc” từng đoàn từng tốp tận trong những khu rừng bí mật kéo ra. Không hiểu họ đi từ khi nào mà bây giờ khắp chiến khu 3 đã vang dậy tiếng hát của họ. Họ đi tới đâu là mang đến sự vui vẻ đến đó, ồ ạt, tin tưởng… Họ là cái động lực lớn cho mọi việc ở chiến khu: sửa đường, cắm chông, dựng ụ để giữ chiến khu, cho đến thể thao, văn nghệ, đi săn, tăng gia… Trong những ngày bi đát nhất, tháng 6 tháng 7, giữa những sự thiếu thốn và đau ốm ghê gớm, các anh đã nêu cao một tinh thần chịu đựng gương mẫu. Nghe tiếng hát của anh em tự đằng xa dội vang, Chanh nói:

− Anh em cơ xưởng ra rồi đó, mau lên chị em!

Mà điều này là một dụng ý của anh em, cứ mỗi lần đi qua cơ quan nào nhất là Ty bào chế hay ban xay giã thì tiếng hát của anh em lại uyển chuyển hơn lên, hoặc săn dòn hơn lên.

− Họ cù mình đấy!

Chị em thường bảo nhau như thế. Mà thật vậy, anh em cơ xưởng như một cái đầu máy. Tới đâu thì toa tàu cứ móc thêm mãi.

Khi họ qua ban xay giã, họ nghe rõ có tiếng anh Giãi hò:

− Sáng bữa ni thanh niên, đại hội

Bầy tui đây xin có lời nhắn gọi ban xay

Có đi thì mang theo cái cối lẫn chầy

Răng mồm móm mém bỏ ra xay cho đỡ thèm, ờ hớ!

 

− Các chị có nghe không? Thằng Giãi lại chửi mát rồi đó! Mau lên các chị!

Mẹ Thẩm đỡ lấy thằng Duy trong tay Vinh:

− Lại đây với mệ để hôm nay mạ đi Hòa Mỹ.

Ngắm nghía Vinh, mẹ Thẩm nói nựng với thằng Duy:

− Để mệ gả con đi lấy chồng con có ưng không?

Mẹ nói thế vì mẹ nhận thấy Vinh đã trở lại hồng hào vui vẻ nhiều lắm.

Đã mấy tháng nay, Vinh tích cực tham gia mọi công tác thanh niên…

Tiếng hò của Giãi mỗi lúc một gần. Đoàn công nhân đi qua trại. Các chị em cũng nối đuôi nhập bọn...

Đoàn tàu đã quá dài... Anh em chị em quân trang, vận tải, bào chế, ủy ban kháng chiến rồi anh em công an với vẻ mặt hồng hào đưa lại cho đoàn tàu thêm một động lực mới.

Và nhất là anh đoàn trưởng thanh niên, một kỹ sư nông học có vẻ duyên dáng và nhanh nhẹn. Hôm nay, ngày đại hội, tất cả thanh niên chiến khu tiến xuống Hòa Mỹ. Đoàn người nhảy băng băng trên những hòn đá trên khe suối. Tiếng hát của họ làm vang động cả khu rừng ban mai đang yên tĩnh.

Họ vừa đến dốc “bà Tảo” thì chỉ có một người liên lạc của Ủy ban chạy hớt hơ hớt hải đuổi kịp và tìm anh đoàn trưởng đưa một cái giấy thượng khẩn.

Tin đem đến làm cho mọi người nhao nhao lên. Trung đoàn vừa điện thoại vào cho Ủy ban hay địch tập trung nhiều quân và xe ở các đồn Phò Trạch, Câu Nhi, Thanh Tân, Sơn Quả, nhiều “phay và đa-cô-ta” cũng vừa mới đậu ở sân Phú Bài. Có thể chúng sẽ tấn công chiến khu ta trong ngày chủ nhật.

Những tiếng bàn tán xôn xao:

− Có thể chúng tấn công thật để gỡ gạc lại danh dự sau thất bại ở đồn Câu Nhi.

− Không khéo chúng vừa đánh đồng bằng, vừa đánh chiến khu. Đập tan đầu não ta, đơm cán bộ chiến khu xuống hay đồng bằng lên để bắt.

− Úi chà! Thách chúng nó cứ lên.

− Đồn Bến Đốc phải rút. Lên đóng Đồng Hy mới một đêm đã bị đánh cho liểng xiểng. Cha con rút không kịp thở. Còn hơi sức mô mà lên nữa?

− Cho nó cứ lên!

− Đập cho một trận le te, không còn một manh giáp mà về.

Anh hội trưởng sau khi hội ý với các toán trưởng nghe lọt những lời bán tán vui vẻ cũng xen lẫn vào:

− Chủ quan! Các đồng chí chủ quan nặng. Anh chị không nhớ lời đồng chí Nguyễn Chí Thanh hôm trước à?

Có tiếng đáp ở dưới:

− Nhớ! Nhớ!

− Nhớ thì bây giờ ta chuẩn bị đi thôi. Tôi xin đề nghị, không phải ý kiến của riêng tôi mà là ý của 7 toán trưởng sau khi hội ý với tôi. Chúng tôi quyết định các toán trưởng sẽ sắp đặt cho một số anh chị em trở về cơ quan cùng với người ở nhà thu xếp đồ đạc, tài liệu gọn gàng, soát lại kế hoạch bảo vệ cơ quan. Các đồng chí phải về, về ngay! Còn ai ở lại thì toán mô theo toán nấy phân tán sinh hoạt trong lúc đợi lệnh mới…

Và anh kết luận với một nụ cười:

− Nếu không có việc gì thì đoàn lại đại hội, các đồng chí đồng ý chứ!

- Đồng ý! Đồng ý!

Chị Chanh, Vinh, Xoa, Đức được chỉ định trở về. Chỉ có Thìn và con Diên là được ở lại.

 

***

 

Trong lúc các đơn vị chiến đấu và các dân quân chia nhau bố trí khắp các nẻo, khắp các cửa chiến khu để đón quân địch thì các bộ phận Trung đoàn bộ lần lượt thu dọn tài liệu từ Hòa Mỹ vào khe A Đong, khe Hiên, dốc bà Tảo, người đi không ngớt…

Xen lẫn với những cán bộ, những đồng bào buôn bán ở Hòa Mỹ, những gia đình cán bộ, những đồng bào nông dân làm ruộng phá rẫy ở mặt tiền chiến khu. Năm bảy hàng binh Âu Phi, những gánh bát đĩa, nồi niêu, đàn địch, sách báo. Lồng gà, lồng vịt, máy may, máy chữ. Trăm thứ đồ vứt bỏ bừa bãi hỗn độn. Trên tảng đá cơm nguội vung vãi, lá bánh xả đầy đường. Người ngồi, kẻ đứng. Có người nằm vật bên bụi ngáy khò. Những anh bệnh ngồi co ro, trùm khăn kín, ho sù sụ. Và từ mấy cái nôi treo lủng lẳng trên những cành cây, tiếng trẻ con khóc xen lẫn tiếng ru con, giọng Huế, giọng địa phương, giọng Nghệ, giọng Bắc. Và át cả mọi thứ tiếng, át cả đám đông, tiếng bà chủ tịch xã Phong Nguyên, người Sài Gòn, chủ một cái quán ở Hòa Mỹ:

− Xin giới thiệu đây là tiếng nói Nam Bộ anh dũng.

Bà chủ tịch xã dựng xong một cái quán mới… và bà lần lượt sắp lên bàn những bao thuốc lá Bát-tô, vài nắm thuốc lá “Phong Lai”, trứng gà, trứng vịt. Những xâu bánh chưng, những thùng kẹo và những lọn nem…

− Nem Thủ Đức đây! Đồng bào ơi! Một lọn 10 đồng, hơn cả nem An Cựu mình nữa.

Đồng bào hàng trong hàng ngoài vây lấy hàng bà.

Bốn năm anh bộ đội vác những quả mìn, trái bom, những vòng dây điện thoại im lặng cấp tốc đi bố trí.

Xa xa ở dưới suối, thanh niên thanh nữ từng đoàn tập hát đùa nghịch.

Một đám đông quần chúng tập trung nghe Thìn hát tuồng. Hắn nằm trên một tảng dài ung dung diễn lại tuồng “Trại ba công chúa”.

 

***

Mười giờ.

Mười một giờ.

− Chúng nó lên thì đã lên rồi, không khéo lại tin láo.

− Không biết là tin công an hay tin tình báo của trung đoàn?

− Tin các xã…

− Các xã lại còn láo nữa.

Cơm vắt ăn nhẵn rồi. Hàng quà cũng quét sạch cả rồi. Chơi mãi cũng chán, hát mãi cũng chán, nghỉ mãi cũng chán rồi! Người ta chỉ muốn trở về.

Một cái tin truyền đi từ người này sang người khác, từ đám này sang đám nọ.

− Có lệnh trung đoàn cho trở ra, anh em ơi!

Có lệnh thật không? Chẳng ai biết đích, chỉ biết tin ấy đã truyền khắp. Nếu người ta bịa ra thì cũng đúng lúc. Ai ai cũng chỉ muốn nhổm đít đi ra... Thế là cả đám quần chúng lộn xộn ô hợp đó, chả mấy chốc tự chuyển đi một cách gọn gàng mau lẹ. Đồng bào xuống trước, cán bộ xuống sau.

Hòa Mỹ đã trở lại huyên náo rộn rịp. Hàng quán lại dựng lên. Những nồi chè xanh cạnh những nồi cháo cá, cháo thịt cũng đã bốc hơi. Quán hàng chật ních người. Đường sá đầy thanh niên. Các chị, các o rủ nhau rần rật kéo đi chợ.

Bỗng vù vù… sáu cái “phay” ở đâu vụt tới như sáu thằng giặc trời, lượn rồi nhào, thay nhau bắn, thả bom không hở.

Súng máy của ta bắn lên ráo riết. Hình như được lệnh bắn thả cửa. Trận Câu Nhi chẳng phải thu hàng tấn đạn mà!

Mọi người tin chắc chúng cũng khủng bố như mấy lần trước để yểm hộ bộ binh thôi.

− Đa-cô-ta nớ bà con ơi!

Bốn chiếc đa-cô-ta đã lượn trên đầu, kêu gầm gầm xé nát cả bầu khí khét lẹt đầy mùi thuốc súng.

Người ta biết chắc chắn là chúng sẽ nhảy dù. Súng máy từ trong các kẽ núi xả ra như mưa.

Người ta vẫn cắm đầu chạy, nhảy băng qua bụi gai rậm, băng qua hào. Họ chạy vào phía núi, họ chạy ra phía ông Lâu. Vượt qua sông về đồng bằng.

Bốn chiếc đa-cô-ta cứ tiếp tục nhả những chiếc dù xanh đỏ, tím, trắng xòe bung ta, rồi lủng lẳng trên không.

Những người chạy thoát được lên đến dốc C.A. đứng lại nhìn những chiếc dù rơi một cách khoan khoái:

− Đẹp quá anh em ơi!

− Đẹp cái gì, dù nó đổ quân chó đẻ xuống đó.

− Đừng trèo lên cây. Coi chừng lộ mục tiêu! Thằng bà già nó lượn đấy bà con thấy không?

Tiếng súng máy nổ ròn dữ dội. Có cả tiếng mót-chê, ca-nông nữa. Tiếng súng nổ ở Hòa Mỹ, nhà Đại chúng, nổ ở trường phân khu, ở trụ sở tỉnh đội dân quân. Có lẽ quân nhảy dù với quân ta đã choảng nhau rồi đấy.

Tiếng súng mỗi lúc một săn dòn và bây giờ lan ra khắp nơi. Ở khe A Đong, ở cả phía Nông Bình nữa. Tiếng mìn của ta nổ liên tiếp ở phía đó... Có lẽ quân địch từ Thanh Tân, Sơn Quả, Phò Trạch, Câu Nhi cũng đang triến lên.

Trận tấn công công chiến khu lần này coi chừng chúng có thể làm dữ.

 

***

 

Bác Cầm, Chanh, Xoa, Đức, mẹ Thẩm, Vinh, có thể nói là cả chiến khu 3 đều đổ xuống suối để đợi tin tức.

Tin thứ nhất đưa về do anh Lục cơ xưởng, chạy thoát được loan báo ầm ỹ cả lên.

Anh đoàn trưởng, khi anh chạy cũng đâm đầu vào chạy với anh... Nhưng mãi đến bây giờ vẫn chưa thấy lên. Anh Cang, Thu đều thoát được cả. Anh Thu sắp lên đó, còn anh Cang thở không ra hơi còn nằm lại ở chiến khu 2. Thìn có lẽ mắc kẽn ở dưới hầm… ai chạy bừa là thoát chết.

− Thế còn con Diên!

− Hỏi không ai biết mô!

Mọi người sửng sốt. Chanh vụt chạy đi, bác Cầm hò chị lại:

− Bình tĩnh chứ! Đi mô?

− Xuống công an hỏi cho đích.

− Vô đi! Để tôi đi cho…

Bác quay lại bảo Chanh:

− Ẵm thằng Duy vô đi, gió lạnh nó.

Bác Cầm xuống đồn công an về thì đã 8 giờ tối, con Diên vẫn không có tin tức gì cả. Anh đoàn trưởng đã về tới nơi, chỉ bị thương xoàng ở gót chân, còn Thìn núp một hầm với ông chủ tịch Phong Nguyên, hai người đã bị bắt rồi. Tin đã đích xác. Một tin khác cũng làm cho những người ở chiến khu 3 sửng sốt. Trong lúc nhảy dù, thì đoàn vận tải tài chính, do anh Hậu áp tải ở Đan Quế vừa đến Nông Bình thì tiếng súng nổ, cả đoàn vứt vào bụi chạy tán loạn. Một số đã về đến chiến khu 2, còn Hậu và ít anh em khác vẫn núp xung quanh những bụi đó, quyết ở lại đó để coi ngó hàng. Đám này có thể bị chúng vớ lại, vì khi anh em bỏ chạy, đã nghe tiếng xì xồ đến tận phía sau lưng. Về Thìn, tin đã đích xác, Thìn đã bị bắt thật rồi. Từ dưới hầm, Thìn bị chúng kéo lên một lúc với bà vợ ông chủ tịch Phong Nguyên. Bà này khai là người Nam Bộ. Tây lấy mũ ca-lô chụp lên đầu bà rồi khen “Ngộ quá! Ngộ quá!”. Đoạn chúng bắn một con gà bảo bà chạy ra lượm. Bà vừa chạy ra được mấy bước thì… một tràng pháo tiểu liên và tiếp theo một tràng cười man rợ! Không nén được tức, Thìn bèn nhảy lên mấy bước, giật lấy cây súng trong tay thằng Tây. Hai bên đang giằng co thì một thằng khác chạy lại lấy bản súng chấn vào đầu Thìn, Thìn ngã quỵ xuống, bị luôn mấy nhát lưỡi lê. Thìn còn ngẩng đầu lên một lần cuối cùng hô: “Hồ Chủ tịch muôn năm!” rồi mới qụy hẳn. Tử thi của Thìn còn  bị chúng băm nhiều nhát, và bị chúng đưa giày đá nát cả đầu.

Mười hai giờ đêm, nhiều cáng thương binh đã bắt đầu về, chiến khu 3 thành một trạm tải thương. Tất cả chị em ở Ty bào chế, ở ban xay giã đều huy động ra giúp cơm cháo cho anh em. Chanh thì cứ rối rít lên hỏi người này, giục người nọ, thăm nom từng người một… Lâu lâu, Chanh lại ghé qua bác Cầm hỏi một câu:

− Đã có tin gì về con Diên chưa?

Bác Cầm vẫn lắc đầu một cách thất vọng. Ngày thường bác hay rầy la nó, sao bây giờ nghe tin nó lạc, bác lo quá, thấy thương nó quá.

Một giờ đêm… rồi hai giờ đêm.

Cả chiến khu 3 vẫn thao thức, xôn xao đợi tin mặt trận, tin các mặt trận. Tin chính thức thì vẫn chưa có mà toàn là những tin đồn là tin đồn. Bác Cầm vẫn ngồi chực ở suối, bám sát từng người liên lạc ở mặt trận về. Không biết tin bác lấy ở đâu nhưng gặp ai bác cũng bô bô cái miệng:

− Chúng chia làm thành hai cánh tiến lên Hòa Mỹ liên lạc với quân nhảy dù. Một cánh từ Phò Trạch, một cánh từ ồ ồ Thanh Tân, Sơn Quả.. cánh Thanh Tân, Sơn Quả vào xóm Rẩy, tiến lên ngả khe Hiên… Hai cái súng máy của miềng (1) đặt chéo hai mỏm núi đợi chúng tiến sát tận sống mũi, mới quạt… Lựu đạn miềng lại tiếp theo nữa. Cha con đạp nhau chạy như đạp vịt, rút về chợ Hòa Hưng… Bà con coi! Mới sơ sơ mà ngót hai trăm mạng rồi đó!

Giữa lúc bác cười hì hì, thì ông Nẫm ở ban sửa chữa cũng ở ngoài ấy về cho hay: hai cánh quân địch đã liên lạc với nhau, thổi kèn chào nhau và từ tối giữa nhà Đại chúng của ta, chúng đã thắp lên một ngọn đèn măng-sông sáng rực khiêu khích kiêu hãnh lắm!

Bác Cầm vẫn cười hì hì:

− Thì cứ để chúng chọc vào bộ đội ta mà chơi, chuyến mô chớ chuyến ni thì bộ đội có để cho chúng toàn khiên toàn giáp mà về đó chúc? Nói cho bà con biết là ông Lâu nằm sát ngoài đó. Cả ông chủ tịch Ủy ban cũng vừa ra ngoài đó nữa.

 

***

 

Bộ đội, thật vậy, chẳng để chúng ăn yên ngủ yên đâu. Kho lúa 1 là kho lúa quan trọng nhất toàn chiến khu hiện còn dưới làn đạn của địch. Lại từ hôm qua lệnh của Ủy ban kháng chiến: mỗi ngày mỗi người chỉ được ăn 300g thôi để phòng mọi sự bao vây kéo dài của địch. Biệt động đội phải đặt kế hoạch phản công địch, đồng thời bảo vệ công tác dời kho của thanh niên chiến khu.

Ngày thứ hai cuộc tấn công của địch.

Từ chập tối, thanh niên các ban, các ty, công an, cơ xưởng… đã kéo ra dốc Bà Tảo. Họ chia nhau từng toán, phụ trách từng chặng đường. Ban xay giã do Chanh dẫn đầu, đã ra kho 1 từ hồi chiều. Cang và một số nhân viên nữa của ban kinh tiếp tế cũng xung phong ra tăng cường cho ban xay giã. Ban này có nhiệm vụ xúc gạo trên dàn xuống đổ vào thùng vào bao, sẵn sàng cho anh em thanh niên tới vác, tới khiêng. Trời mưa phùn, đường trơn đầy sên vắt, từng toán thanh niên nam nữ bước lên bám chặt lấy đá, bíu chặt từng bụi cây bên đường. Họ tránh những đường mòn quen tầm ca-nông của địch. Họ vừa đi vừa xẻ đường, chỗ nào bí đường, họ dọi đèn pin xuống đất tìm tòi, chặt, phát, lại đi.

Mặc dù đạn réo trên đầu, họ vẫn không ngừng. Họ đã dời được gần hai mươi tấn thóc từ kho 1 sang kho 2.

Ban xay giã không biết mệt mỏi, lại xúc lại đổ. Đức cười bảo Vinh: “Theo cho được chị em bầy tui, mai cũng ốm xác đó!”. Xoa giật cái thúng nơi tay Vinh gạt quăng đi: “Đề nghị trưởng ban không cho chị Vinh xúc nữa”. Nhưng Vinh chạy lại lượm cái thúng lại xúc, lại đổ… Cang thì vẫn cố gắng như mọi người. Lâu lâu anh lại hát nhỏ mấy câu: “Đi là đi chiến đấu…” để tự động viên mình. Chanh thì chạy lên chạy xuống, xúc, đổ, quét dọn, nhắc nhủ đôn đốc anh em chị em… Quần xắn tròn lên, hai tay không ngớt, dưới làn đạn địch người chị hiền lành hôm nay như một nữ tướng.

Giữa những đợt súng vu vơ của địch, súng ta đã bắt đầu nổ. Tiếng mìn nhảy, tiếng mót-chê 81. Từ chập tối bộ đội ta đã bố trí sẵn sàng xung quanh Hòa Mỹ, chờ một loạt trọng pháo của ta ngớt là nhảy vào. Tiếng hô xung phong vang dậy chiến khu 2, chiến khu 3, tiếp theo những đợt lựu đạn rầm rầm nổ. Ngọn đèn măng-sông nhà Đại chúng đã tắt rồi. Nhà Đại chúng bị tấn công kịch liệt. Nhưng quân địch vẫn chưa mất thế chủ động. Từ các hầm các ụ mà chúng còn giữ vững được, chúng vẫn bắn trả lại như mưa. Đèn pha chúng quét tứ phía. Xe díp, xe A.M., chuyển máy ầm ầm, ca-nông chúng lại khạc vào đồn công an, dốc Bà Tảo như điên như dại.

Biệt động đội vẫn bám chặt quân địch để đảm bảo việc dời kho. Mặc dầu ở mặt trận Hòa Mỹ chúng đã thủ vào những hầm ụ kiên cố để đánh lại cuộc tấn công của ta, kho lúa 1 đã cạn dần. Đoàn thanh niên chiến khu như con rắn khổng lồ trườn lên, trườn lên mãi để dời cả kho hai chục tấn thóc. Thúng lúa cuối cùng để chuyển xuống khỏi kho rồi. Thanh niên đã thắng một trận lớn! Hoan hô thanh niên!

 

***

 

Giữa sự thắng lợi đó, một tin đã truyền đi khắp các toán: đồng chí Chanh đã bị đạn rồi, ngay khi thúng lúa cuối cùng đương chuyển xuống khỏi kho. Chanh vừa bước xuống sàn, một mảnh mót-chê vút trúng vào người Chanh, Chanh không ngượng được nữa, ngã gục xuống. Vinh ôm choàng lấy Chanh. Mọi  người hốt hoảng cả lên, Chanh vẫn bình tĩnh như không. Chanh còn dặn dò:

− Bị sơ thôi! Không can chi mô! Chị em nhớ soát lại trên kho còn bỏ sót cái gì thì thu quén cho hết.

Vinh sờ vào mình Chanh, máu chảy lênh láng. Chanh bị thương ngay ở bụng. Vết thương coi nặng lắm. Vinh xé cả vạt áo mình buộc để băng cho Chanh. Khi Cang bấm đèn pin dọi vào cho Vinh băng thì Chanh vẫn tỉnh táo bảo Cang:

− Tắt đèn pin đi! Địch thấy sáng bắn vào thì khốn!

Trên sàn có tấm ván ngày thường anh giữ kho thường kê cho anh em học Bình dân học vụ, Cang chạy lên tháo ra, đoạn đỡ Chanh lên. Rồi Xoa, Đức thay nhau khiêng Chanh đi. Vinh đi theo một bên lâu lâu sờ tay chân Chanh. Chanh vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh:

− Không can chi mô! Qua khe, chị Chanh nhớ cho em xin ngụm nước!

Đến trại cứu thương thì Chanh mới thật mê man, anh em chị em quây quần xung quanh, Chanh cũng không hay biết gì hết. Mãi đến khi được tiêm một ống hồi sinh, Chanh mới tỉnh lại. Thấy mẹ Thẩm ngồi dưới chân mình, Chanh hỏi mẹ:

− Thằng Duy mô mà mẹ tới đó? Về với nó đi!

Tiếng Chanh chỉ nghe the thé như một hơi thở.

 

***

 

Suốt cả đêm hôm đó, chiến khu 3 vẫn chưa ngủ. Đợi tin trận đánh Hòa Mỹ. Đợi tin dời kho. Đợi từng giờ từng phút. Đường liên lạc vận tải giữa đồng bằng và chiến khu bị cắt đứt đã nối lại được, đường mới phải quanh qua dốc mối, chậm thêm một ngày đường. Đoàn vận tải muối mắm, gạo đường đã lên đến nơi rồi. Người ta cho hay nhiều cán bộ trong trận Tây nhảy dù chạy thoát được xuống đồng bằng. Có người gặp con Diên đội mũ ca-lô, cái mặt hếch hếch nhập bọn với bộ đội rồi. Anh Giãi dân quân thấy nó đương nấu cơm cho bộ đội ở nhà Dầu.

Cả cái đoàn vận tải tài chính do Hậu áp tải cũng đã chuyển vào chiến khu 2 những “thùng tài chính”. Bạc đi đến đâu, tiếng hoan hô dậy lên tới đó. Hậu hai vai áo đã rách toạc, vẫn còn đeo chùm lựu đạn. Tin vui mừng tới tấp và cuối cùng một tin đã đánh bạt những tin khác: anh Và đã trở về.

− Trời ơi, anh Và nào?

− Anh Và cụt tay chứ anh Và nào nữa?

Và đi tới đâu người ta bu tới đó. Người ta hỏi rối rít làm cho Và líu lưỡi cuống quýt nói không ra. Số là sáng nay khi địch mới tấn công vào đồn công an, Và với nhiều đồng bào khác từ đồn Phò Trạch lên bị áp trước dò mìn và đỡ đạn cho chúng. Giữa lúc mìn và lựu đạn ta nổ, Và chạy dẫn, và hô anh em cùng chạy. Nhiều người bị đạn của chúng bắn theo... Nhưng Và thoát được. Lần theo khe A Đong, anh về tới chiến khu 2.

Được tin anh Và về, bác Cầm chạy ra, lầm lầm giơ bó đuốc tận mặt Và, cười ha hả hỏi:

− Có phải thực mi đó không Và?

Rồi bác lẩm bẩm: “Số thằng Tây ăn mày thực, bắt được của nớ mà còn để sẩy!”.

Giữa đêm sương, chị Vinh cũng bế thằng Duy chạy ra, vừa chạy, vừa nói nẫng: “Chú đã về, hoan hô chú đã về!”. Thấy Và về chị lại nghĩ đến Chanh, vết thương nặng lắm. Nhưng máu cũng đã cầm. Lạy trời đêm nay cũng chả việc gì, mai may có bác sĩ đến kịp.

Từ hửng sáng quân địch lại giã ca-nông dữ dội khác thường, sau mấy giờ đồng hồ im lặng, sáu chiếc phi cơ bay lên, lồng lộn trút xuống, bắn loạn xạ. Không khéo quân địch hôm qua bị tổn thất nặng nề hôm nay đã được tiếp viện thêm, lại sắp tấn công vào chiến khu 1. Nhưng bác Cầm từ dốc Bà Tảo về cho hay: Hòa Mỹ bốc khói, địch đã rút lui hết. Trước khi rút lui chúng đốt hết nhà cửa.

Lại ở nhiều nơi, tiếng mìn nổ liên tiếp. Chắc lại tiếng mìn của những dân quân địa phương mấy hôm nay nằm chờ địch rút về để ghi công.

Mẹ Thẩm, Vinh, Hậu, Xoa, bác Cầm đang chào xáo về tin Hòa Mỹ bị đốt phá thì Đức ở bệnh xá vừa về.

Mẹ Thẩm hỏi:

− Chớ sáng ni, nó có ăn cháo được không con?

Đức lắc đầu. Chị không còn giữ được vẻ bình tĩnh nữa. Chị đưa vạt áo lên lau nước mắt rồi ngồi phệt xuống.

Mọi người đã hiểu rồi. Không ai nói thêm được một tiếng. Bỗng bác Cầm đứng phắt cái gậy trong tay đập đập xuống đất. Bác vừa thút thít vừa nói:

− Đứa này về thì đứa khác lại đi. Nhưng thằng già này lại chẳng chết thay cho.

Tiếng mẹ Thẩm hỏi Đức:

− Sáng nay nó có tỉnh táo không con?

− Tỉnh táo lắm! Chị ấy biết tin anh Hậu, con Diên đã thoát chết. Chị ấy còn biết cả tin anh Và đã trốn về nữa, rồi chị mới nhắm mắt.

Bác Cầm hỏi lại: “Hắn biết cả tin anh Và rồi mới nhắm mắt à?”.

Rồi bác lẩm bẩm: “Số con nớ chết cũng sướng đó!”.

 

Chương IX

VĨNH NẨY, VĨNH NẨY, BÀ CON NGHE RÕ KHÔNG?

Quân địch rút lui khỏi Hòa Mỹ, nhưng còn đóng lại đồn Mạng Nhện và Đồng Hy để uy hiếp đường tiếp tế và liên lạc của ta từ đồng bằng lên và Thanh - Nghệ - Tĩnh vào. Nhưng theo kế hoạch đã định trước, nhiều đơn vị bộ đội và nhiều cán bộ đã về đồng bằng. Ban kinh tiếp tế cũng đã điều động nhiều cán bộ về đồng bằng. Nhiều trạm tiếp tế, kho bí mật đã được tăng cường hay thiết lập thêm. Thu, chính Thu tự thân xuống tận đồng bằng Phong Quảng điều khiển việc giữ lúa, chuyển lúa. Cang cũng tình nguyện theo Thu.

Cang sẽ phụ trách trạm tiếp tế II giữa các miền tiền chiến khu và đồng bằng. Ban xay giã sẽ phân tán một bộ phận theo bà Tảo vào Dương Hòa. Vinh, mẹ Thẩm sẽ được thay Chanh phụ trách trạm tiếp tế I ở đồng bằng, trạm tiếp tế quan trọng nhất của tỉnh. Hậu được điều động theo giúp. Bác Cầm theo sự tình nguyện của bác, được thôi quân trang, về xã mình, gia nhập dân quân du kích. Bác được phép ở lại hai hôm để, như lời bác đã nói, “ăn với các mụ o kháng chiến một bữa tiệc đoàn kết”. Anh Và cũng định rốn ở lại với bác Cầm ít hôm, nhưng không hiểu sao anh lại đi trước.

Hôm ăn tiệc, từ sáng sớm, Vinh đã cố ý ngắt mấy đóa hoa cắm vào cái giỏ do Hậu đan. Nhưng những câu chuyện, không khí của buổi liên hoan sao mà nặng nề thế? Không ai nhắc đến tên Chanh, tên Thìn, mà tiếng nói của Chanh như còn văng vẳng giữa cái sân kho này, thăm hỏi thúc giục chị em. Và những lúc đau xót như hôm nay thì Thìn đã quấn cái áo triều bào Bảo Đại từ trên sàn lăn xuống làm tuồng “Lý Phèo” cho bà con xem.

Mẹ Thẩm mở cái khăn tay nâu, lấy những miếng trầu phát cho Vinh, cho Xoa, cho Đức và đưa tận tay cho bác Cầm một miếng:

− Còn răng không? Không để mụ Vinh nó nhai giùm cho!

Mẹ Thẩm bỗng sực nhớ đến cái hàm răng đen nhánh dịu hiền của Chanh, mẹ không thể cầm lòng được nữa. Mẹ lật trái vạt áo, đưa lên lau nước mắt, mọi người không ai nói một tiếng. Bỗng bác Cầm đứng phắt dậy, người bác bắn run lên:

− Không việc chi mà phải khóc hết!

Bác nhấn từng tiếng một:

− Đứa nào bước cứ bước, đứa nào còn thì đánh cho đến cùng, khi mô tiệt nòi tiệt giống chúng nó mới nghe.

Câu nói của bác đổi hẳn cái không khí ỉu lạnh, nhắc cho mọi người thấy rõ cái buồn ỉu của mình vừa rồi là vô lý, vô lý lắm.

Mẹ Thẩm lau nước mắt, đứng phắt dậy giật lấy thằng Duy trong tay Vinh nâng lên nâng xuống và nói nựng:

− Duy về đồng bằng nhá! Ăn cơm ăn cá của đồng bằng cho mau lớn mau nậy nhá! Để đánh vỡ đầu thằng Tây nhá! Trả thù cho o Chanh, chú Thìn nhá!

Những câu nói nựng của mẹ Thẩm, như từng đợt từng đợt thấm vào da vào thịt mọi người.

Bác Cầm “hừm” một cái vung tay ra làm cây súng trên ghế rơi xuống nghe đánh soảng. Bác cúi vơ cây súng lên. Thằng Duy chập chững đi lại, bác bế nó lên gối. Con Diên cũng chạy lại bên bác, mân mê cái súng và nói với Duy:

− Tưởng súng của ông, súng gì, té ra đồ súng “kíp”, Duy nè!

Bác quay lại chờm lên:

− Ơ ơ! “Kíp” thì răng chứ? Con ni rứa là có tư tưởng… chính quy rồi đó.

− Chính quy thì răng?

− Răng trong mồm nớ!...

Thấy câu nói của bác quá gắt, bác hạ giọng:

− Mình, có chi đánh nấy, con nà! Có “kíp” thì đánh “kíp”, không “kíp” thì đánh tay không cũng được con nà! Có được chút vốn này mà “chấy hóa”, dần dần là quý lắm rồi! Về dưới nớ mà rồi nó làm được việc đó, đừng có khinh, đừng có khinh cái thằng súng kíp.

Đức cũng chồm dậy:

− Bao chừ bác về, bác? Bác nhớ mua gửi lên cho cháu một cái xắc lác. Đựng quần áo cho tốt bác nà!

Các chị khác trong ban xay giã cũng nhao nhao lên:

− Thiếu chi! Chợ Phò Trạch họ bán cơ man nà! Bác mua cho mỗi đứa một cái nhá!

Bác Cầm gật đầu và rút ra một cuốn sổ con: “Để tao ghi tao nhớ”. Bác đè cái bút chì trên giấy như đẩy cái “theo” cầy, cái miệng của bác khi thì chúm lại, khi thì méo xệch ra… theo cái điệu nhịp của những chữ bác viết.

Mẹ Thẩm ngắm bác một cách thèm thuồng, sung sướng! Trước đây mấy tháng, mẹ với bác là hai người còn chưa biết chữ. Con cháu vẫn gọi là hai “ông mệ” (1) i-tờ-rít. Thế mà nay bác đã qua cầu được rồi. Chỉ còn mẹ nữa thôi… Con Diên đứng một bên, chờ cho bác viết xong, xếp cuốn vở nhỏ lại, nó mới nói:

− Cuốn sổ bác xinh quá! Tặng cho cháu đi. Bác về mua cuốn khác. Hơi đâu mà chở củi về rừng, bác!

Mẹ Thẩm gạt đi:

− Để cho bác dùng con, mẹ về mua gởi lên cho!

Và quay lại phía các chị:

− Quý hồ bác về cho được dưới nớ! Khỏe chân mạnh tay, bắn cho được năm mươi thằng! Không nữa chả làm chi, cứ ngồi đó, thúc con cháu đánh chác cho cũng sướng rồi! Bà con nờ!

Bác Cầm đứng dậy, lại gần Vinh:

− Nhai cho tôi miếng trầu nữa đi!

Và hỏi Vinh:

− Nghe có phải cơ quan chị sẽ đóng Khúc Lý phải không?

− Khúc Lý là cái xóm có nhiều mít thơm lắm phải không bác?

− Phải, phải mà coi chừng, (bác chỉ thằng Duy) cái thằng ỏng bụng này sẵn mít đồng bào “độn” vào cho lắm thì khốn.

Và quay về phía Hậu dặn:

− Chị Vinh công việc giấy má nhiều, lại một tay con dại. Tây có ra, anh giúp đỡ chị, dẫn dắt thằng Duy cho chị với. Khúc Lý được may cái đất khô, hầm kín.

Hậu nói:

− Quả thiệt là Khúc Lý thì tốt lắm. Trông chị mô là mặt đỏ ong ong, miệng cười tươi roi rói. Trong làng có cán bộ về là các ông các mệ đêm hôm thay nhau đi “tuần” quanh vườn quanh xóm.

Bác Cầm cầm miếng trầu nơi tay chị Vinh, bỏ vào miệng nhai chép chép rồi bác khoác cái súng “kíp” lên vai quay phía mọi người:

− Thôi chào bà con ở lại đi sau nhé!

Tiếng mọi người chúc bác đi bình an vô sự, giết nhiều Tây. Đoạn bác quay lưng bước ra…

Cái súng “kíp” của bác quai quá dài, đánh đi đánh lại. Khi bác xuống hết dốc, bác còn quay lại nói với:

− Tết sang năm, bà con về nhà tôi ăn Tết nghe! Thôn Vĩnh Nẩy, Vĩnh Nầy, bà con đã nghe rõ chưa?

 

 

● Nguồn:

Lưu Trọng Lư: Chiến khu Thừa Thiên, tiểu thuyết, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Văn nghệ, 1955; 112 tr. 13x19 cm.

 

 


 

(1) Rên lên cùng một lúc như hòa đàn với nhau. (nguyên chú)

[a] lê-dương: từ chữ Pháp légion étrangère, trỏ đội quân tinh nhuệ của quân đội Pháp, gồm binh lính là người ngoại quốc, chuyên làm các nhiệm vụ quân sự ở ngoài lãnh địa Pháp, chủ yếu là ở các thuộc địa.

(1) Tên một đơn vị bộ đội. (nguyên chú)

(1) Tiếng địa phương "chụp ếch" dùng để giễu cợt những người trượt ngã. (nguyên chú)

(1) Anh. (nguyên chú)

(1) Miềng: mình, ta.  (nguyên chú)

(1) Ông mệ nghĩa là ông bà. (nguyên chú)