DÒNG HỌ

-------------------------------------------------------------------------------------------------

Tiểu dẫn. Cuốn Dòng họ mà tác giả gọi là một “truyện dài xã hội”, thật ra, có thể xem như một cuốn tiểu luận kiêm hồi ức về gia đình và quê hương tác giả. Một điều cần lưu ý là bản in sách này, − hơi khác với khá nhiều cuốn khác của cùng tác giả, −  văn bản in còn lại khá nhiều lỗi về chấm câu, thậm chí về từ ngữ; người sưu tầm và biên soạn ngờ rằng khi sách được in, tác giả đã không có điều kiện xem lại các bản in thử. Trong việc biên soạn, đối với cuốn này, chúng tôi không ghi lại các chỗ có lỗi in ấy vì chúng hơi nhiều; trái lại, chúng tôi xin phép được dịch chuyển một số dấu chấm câu, đoán định để chỉnh lại một số từ dùng. Tất nhiên bản biên soạn của chúng tôi được thân nhân nhà văn Lưu Trọng Lư xem lại và tán đồng.

N.B.S.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 

 

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

“DÒNG HỌ” là cuộc sống của một đoàn thể lớn lao trong cuộc sống một người. Chúng ta không phải là một nhúm người đương sống. Chúng ta là một đoàn thể mênh mông, gồm có những người chết, người sống và những thế hệ vị lai.

Ý nguyện quyển sách này là biểu dương sự liên lạc bằng máu giữa các thế hệ và cất nhắc lòng tôn thờ người chết lên địa vị một tôn giáo. Đó phải là căn bản tinh thần của đời ta, đó phải là nơi nương tựa của các mối tin tưởng của ta hôm nay.

Hôm nay không có lòng tin ở Dĩ Vãng đời ta sẽ bơ vơ, sẽ lạc loài ngay giữa thời đại, giữa đất nước và giữa gia đình ta.

Mùa Đông 1942

LƯU TRỌNG LƯ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tựa

Người phương Đông và người phương Tây khác nhau ở một chỗ rất bình thường mà rất quan hệ. Vì ở chỗ đó người ta nhận thấy Đông và Tây đã tư tưởng khác nhau, sống khác nhau, mang hai quan niệm nhân sinh khác nhau. Ấy là cách Đông Tây nhận thức khác nhau về "bản thân mình". Nói về "mình" hai bên đã có hai tiếng khác nhau. Người Tây gọi là "tôi" và người Đông gọi là "ta". Phương Đông bao giờ cũng có cái khuynh hướng muốn điều hoà cái "tiểu bản ngã" của mình trong "đại bản ngã" tức là cái bản ngã của vũ trụ khi tự xưng là "ta". Ấy không phải họ chỉ muốn nói đến mình, mà còn nói đến người nữa. "Ta" có nghĩa là chúng ta, họ đã gác lại một bên cái bản thân của họ, để cùng với người khác nhập làm một, trong một cái bản ngã lớn hơn, "vô tư" hơn. Như thế là người ta trút bớt cái trách nhiệm của mình đồng thời làm mờ hẳn cái bản sắc mình trong cái bản sắc chung, như để hạt nước âm thầm lạnh lẽo lách mình ra chỗ biển lớn, tự biến đi trong cái bát ngát vô biên của nước vậy. Nhân đó, người xưa ít hay nói đến mình, mà đôi khi có nói đến mình nữa, thì cái mình đó cũng không làm cho ai khó chịu. Vì người đọc cũng có một quan niệm như người nói, là cũng tự biến mình trong cái bản ngã của người. Chủ khách không phân, ta người không định, thì lời nói không trách cứ. Người Tây phương, trái lại, mỗi người đã mang theo mình một bản ngã rạch ròi. Cái bản ngã ấy, mỗi phút như đè ép lên trên tâm trí người ta với một cân lượng ghê gớm, cuộc sống của họ chỉ là một sự phát triển mãnh liệt của "bản ngã" với một tốc độ phi thường, làm cho thế giới tràn ngập bởi mình, lấy cái hình dáng của mình mà che lấp cả vũ trụ; họ không thể quên được rằng: họ, mỗi người trong bọn họ là một thế giới riêng, một ý chí riêng, một ý chí mãnh liệt đã tạo thành nên mỗi người, làm cho họ khác với những người chung quanh. Nhận thực được bản sắc của mình, họ bèn tự vạch cho mình một con đường và tự gắn cho mình một trách nhiệm. Họ cho mình là nơi chứa những năng lực kỳ lạ, vì thế, sống với họ chỉ là một sự thực hơn mình nghĩa là tự phát triển tài năng của mình.

Ấy khi họ đã mang một quan niệm về cá nhân rõ ràng như thế, ta không nên ngạc nhiên chút nào về cái điều họ hay nói tới mình.

Chính họ cũng đã nhận thấy điều đó. Một nhà văn đã cảnh báo rằng: "cái tôi" là rất đáng ghét.

Nhưng Tây phương bây giờ đã chẳng còn thấy cái sự nói tới mình đó là một tai nạn cho người khác, hay là một sự khả ố nữa, mà họ còn cho là một sự "cần". Vì mỗi người là một sự thí nghiệm riêng, mỗi cuộc thí nghiệm tự nó cũng có cái gì làm đắm say người.

Lịch sử văn chương lại còn đưa tới một chứng thực này nữa, thiên hạ đã phí lời nhiều quá mà vẫn không được tích sự gì. Vì ai cũng hay nói, mà lại hay nói về những việc thiên hạ phí lời, về những câu chuyện mà họ không thông thạo chút nào. Vậy muốn cho họ khỏi phí lời, hãy cho họ nói về họ, nói về bản thân họ, về tâm hồn họ, về những điều họ thấy, những điều họ đã nghe. Vì bây giờ người ta mới nhận rằng: Nói về mình vẫn là cái họ sở trường hơn hết. Bản thân họ chính là cái đầu đề mà họ thông thạo hơn hết. Lại là câu chuyện có duyên có lý thú mà những người ấy có thể hiến cho ta. Một nhà văn sĩ trứ danh của thế kỉ chúng ta đã tính sổ việc ấy ở trong địa hạt văn chương và đại để ông nhận rằng: "Một nhà văn tự kể chuyện mình tất nhiên là để lại một tác phẩm hay nhất của họ".

Văn học Pháp đã chứng nhận rằng: những quyển tự thuật lại là những tác phẩm làm cho ta đắm say hơn hết. Mà người đọc vốn cũng chỉ thích đắm say về những câu chuyện tâm sự của những người thiên hạ. Nói gì thì nói, hai người vẫn thương mến nhau khi họ chẳng quen biết nhau. Nhất là đối với nhà văn, người ta lại càng thương mến hơn, nếu người ta càng không quen biết nhà văn ấy. Mỗi người đọc có thể là một người bạn thân. Không có một trang nhật ký nào, một người tự sự, tập hồi ức mà lại không đưa lại cho tác giả nó một ít cảm tình sau khi chết. Marmontel không thể làm say lòng ta được, khi ông ấy nói tới chuyện Bélisaire; nhưng khi ông ta nói đến chuyện cái cậu Belimousin nọ đọc Les Géorgiques [a] trong một cái vườn có những bầy ong kêu vù vù thì nhà văn sĩ ấy đã làm cho ta cảm động biết bao. Ông đã đắm lòng ta được vì cái cậu bé ấy chính là ông, và cũng vì những con ong ông nói đó chính là những con ong mà ông đã xơi mật, những con ong cóng lạnh mà bà dì ông đã ủ giữa lòng bàn tay và bổ tâm cho vài giọt rượu. Cái ông văn sĩ ấy bình nhật là người lạnh nhạt nhất trong cái văn sĩ, thế mà bây giờ làm cho ta nhìn thấy được hết, cảm thấy được hết.

Nhưng nói về lối tự thuật thì không thể không nhắc đến Rousseau.

Cả tâm hồn của Rousseau thật là đầy những điều vĩ đại, mà cũng là đầy những điều khốn nhục. Rousseau đã tự thú những lỗi của mình và lỗi của người khác một cách tài tình.

Nói cái sự thật ra, đối với Rousseau không phải là một điều khó nhọc gì cả. Cái sự thật dẫu đôi khi có bẩn thỉu xấu xa, Rousseau cũng như có cái thuật làm cho nó trở nên đẹp đẽ và cảm động nữa là khác. Vì Rousseau về sự ấy đã giữ được cái bí quyết, cái bí quyết của thiên tài. Cái tài năng vĩ đại ấy như ta đã biết làm xáo lộn cả vũ trụ.

Nhưng độc giả cũng nên biết rằng, không phải Rousseau dải lên mặt đất những tư tưởng sấm sét, hay gợi cho người ta lòng thương, hay đưa lại cho người ta một quan niệm mới về tạo vật, mà cũng không phải vì Rousseau đã để lại một thiên tình sử diễm lệ, cũng không phải vì tìm ra được những nguồn cảm mới cho thơ văn, mà hôm nay Rousseau còn được người mến yêu, cảm phục. Hôm nay còn có người say đắm Rousseau chính là vì Rousseau đã miêu tả cái cuộc đời khốn khổ của mình. Vì Rousseau đã kể lại với một giọng dương dương những điều đã xảy đến cho ông, trên cái cõi đời buồn thảm này, nhưng mà rất biết cảm mến cái vẻ đẹp của trời đất và đầy những cảm tình thiêng liêng đối với tạo vật, chàng không hề bỏ quên một chi tiết cỏn con nào trong cái cuộc đời ồn ào, bận rộn của chàng từ thuở chàng còn nhỏ cho đến cái ngày chàng thấy từ trong tâm hồn mình, như lo âu, như não nùng, sợ hãi.

Bây giờ ít khi người ta còn giở đến những quyển như Emile hay Nouvelle Heloise mà tập ký ức những lời thú tội của Rousseau người ta vẫn muốn đọc luôn.[b]

Đến Chateaubriand cũng vậy. Người ta bây giờ cũng chỉ muốn đọc cái cuốn sách mà trong ấy nhà đại văn sĩ đã kể lại đời mình. Ấy là tập Mémoires d’outre tombe. Chateaubriand tự thuật hầu hết trong các sách của ông.[c] Trong cái cảnh cô quạnh của tài năng, ông chỉ thấy có mình. Nhưng trong các sách ấy, thì cũng chỉ có bộ ký ức là làm cho ta mến ưa hơn cả. Ông đã kể lại đời mình với một vẻ tự đắc và đôi khi chua chát, nhưng bao giờ cũng dễ ưa, cũng là rất dễ ưa cái buồn nản của ông, cái buồn nản không che đậy, đã phơi ra giữa những hàng chữ lộng lẫy và cao sang.

Hai nhà đại văn hào ấy của nước Pháp đã bất hủ bởi những cuốn truyện kể lại đời mình.

Chúng ta yêu tất cả những tập ký ức và những lời tự thú. Không những nhà văn không làm chán tai ta khi họ kể cho ta nghe những chuyện tình của họ, những nỗi vui nỗi buồn, những điều thắc mắc lo sợ của họ. Sở dĩ ta ưa được truyện họ, vì hai lẽ: lẽ thứ nhất là vì tập ký ức, lời tự thú, chuyện tâm sự, không phải là sách theo thời thượng; lẽ thứ hai là trong mỗi chúng ta đều có sự cần tha thiết muốn biết sự thực, vì có lúc ta muốn vứt hết cả những mộng tưởng, dầu là những mộng tưởng đẹp đẽ nhất. Đây tôi chỉ muốn cử ra hai lẽ chính, khiến chúng ta tha thiết tìm đọc những sách tự thuật, những lời tự thú của các bậc đại danh, cả những kẻ "tiểu danh", những kẻ vô danh tiểu tốt, những người tầm thường, ta cũng muốn biết, muốn hiểu những điều gì đã xảy ra cho họ, trong đời nghèo nàn buồn tẻ của họ. Khi những kẻ tầm thường cũng đã từng canh cánh lo âu, đã từng áy náy, chờ mong hồi hộp và thắc mắc, và khi những sự ấy cũng xuất hiện ngay dưới ngòi bút run run của họ, thì ta phải nhận rằng: ở trong ấy cũng có cái gì làm cho ta say sưa, giữ được lòng muốn biết và lòng cảm mến của ta. Thế giới ngày nay dạy ta không nên khinh những sự tầm thường. Cái tầm thường là cái có thể làm cho ta thảng thốt hơn hết vì tâm trí ta không tập quen từ trước, không chịu nghĩ đến sự hằng thấy hằng nghe.

Đã đến lúc ta phải phát triển những giá trị tiềm tàng ở trong mỗi chúng ta. Những kho tàng ở dưới đất, ta đã bắt đầu khai phá, lẽ nào ta lại chẳng chịu khai phá kho tàng ở trong bản tâm ta, ở trong tâm hồn ta?... Nói những điều mình cảm mình nghĩ, rộng ra những điều mình đã nghe đã thấy, đó là một cách tự phát triển mình, một cách tự thực hiện mình. Hơn nữa, đó còn là một cách tỏ rằng mình sống, mình đã sống, tỏ rằng mình là một tâm hồn linh động, làm trung tâm cho cõi nhân thế. Không những là một tâm hồn mà còn là một tâm huyết, vì rằng ta chẳng sống một cách hững hờ, lạnh lùng ngay trong cái việc mình muốn, tự phát triển mình, nói cho người biết những cái gì đã qua ở trong tâm hồn mình phải ngay ở trong cái việc thuật lại cuộc sống mình đó, cũng đã thấy cái hăm hở, cái tha thiết của mình đối với cuộc sống. Những kẻ nản buồn, trốn đời sợ sống, hay chán cuộc nhân sinh, chỉ để cho mọi sự đi qua mà không buồn ghi chép. Họ chỉ lặng thinh và cuộc trăm năm với họ đã qua như một giấc ngủ trưa mệt nhọc... Nhưng người ấy đi qua đất nước họ, quê hương họ như đi qua non nước của người. Những người ấy đã mang trong mình những giọt máu nóng truyền lại bởi dòng họ mà như mang những giọt nước lạnh ở ngoài biển Đông. Không sự lạnh nhạt nào là đám nhàn vân đã biên vào trong dĩ vãng. Chàng ta đã đến lúc phải để lời nói dự vào việc làm. Lời nói phải chứa một nguồn động lực. Lời nói phải có một cái hồn và một cuộc sống. Không phải là những lời nói suông, mà là những lời nói rút tự trong máu tuỷ của cuộc sống. Cảm động thay là những lời nói tỏ được một cái gì là mầu nhiệm, là tha thiết, là tráng kiện, là nồng đậm trong một tâm hồn, trong một cuộc đời. Đã đến lúc lời nói cởi hết các áo văn hoa và nhập vào sự sống. Nó sẽ không làm mê hoặc người ta nữa. Mà nó là những chứng cớ chắc chắn người ta sẽ căn cứ ở nó mà định đoạt.

Đã đến lúc lời nói mạnh như một lời thề sẽ dẫn người ta đi thẳng vào cuộc đời, với sứ mạng rõ rệt. Bởi lời nói, cuộc sống của mỗi người, từ nay gắn chặt vào sử sách, như cái đanh đóng vào tường đá. Kể chuyện mình không phải là một cái thú của một bọn người cầm bút, mà còn là một sự cần đối với những người muốn sống, quả quyết sống, hăng hái sống. Vì kể chuyện mình, chép lại những cái gì đã qua trong đời mình chứng tỏ rằng mình là giống đã sống, đã cảm, đã tư tưởng. Đó không phải là sự làm sách, sự trước thuật, không phải là văn chương nghệ thuật mà chính là sự sống vậy. Vì thế, không phải chỉ có những bậc đại danh, những quân nhân, những nhà chính trị, những nhà ngoại giao, những văn hào, những vua chúa mới có quyền kể lại đời mình, mà anh và tôi, cô thư ký hãng buôn đến người gác cửa cũng có quyền kể lại đời mình, có quyền "tỏ rằng mình đã sống".

Theo cái quan niệm ấy ông bạn tôi đã viết ra cuốn tự thuật này. Bạn tôi đã quên rằng mình là một nhà văn, mà chỉ nghĩ rằng đây là chuyện của một người kể lại với một người.

Ông là một đứa con của đồng ruộng, cố nhiên đồng ruộng đã giữ một địa vị quan hệ ở trong cuộc đời của ông mà chán hết cả mọi thời thơ ấu. Những điều quan hệ hơn hết ở trong sách này, ấy là những cảm tưởng của ông, gợi nên bởi cuộc “phiêu lưu" qua dòng họ, trên đất nước thân yêu. Mỗi việc đi qua trong đời ông đã để lại những cảm tưởng phiền toái. Nhưng ông đã kể lại cho ta một cách rạch ròi, và có điều này là đặc biệt, ông vẫn kể theo cái trật tự dĩ nhiên của cuộc đời. Vì ông không muốn sửa chữa lại sự sống. Có đôi chỗ hình như lộn xộn nhưng đó là cuộc đời của ông. Và đó chỉ là sự lộn xộn bề ngoài, ở trong vẫn có một sự duy nhất, ấy là cái duy nhất của tâm hồn, một cái tâm hồn đã chuyển di từ cảnh giới này qua cảnh giới khác mà vẫn giữ được những bản sắc tự nhiên của mình.

Tôi tin rằng người đọc sẽ bảo: "Tội nghiệp, đây là một tâm hồn đau khổ!" Nhưng cũng nên biết, đấy là một tâm hồn đã băn khoăn, đã thắc mắc, đã suy nghĩ nhiều, đã tìm kiếm lắm. Đừng ai nghĩ rằng: câu chuyện tâm sự này, những lời tự thú này, chỉ là để cung cho mình một cái thú lúc trà dư tửu hậu, thì đó cũng đã hiểu được bụng người chép truyện đôi chút.

Như thế người làm sách, kẻ đề tựa cũng không đến nỗi tủi hổ với bút mực vậy.

·         Mùa đông năm Nhâm Ngọ

·         NGUYỄN CHẨN SẮC

 

 

 

 

 

I

 

Sáng ngày tôi chợt nghĩ đến điều ấy mà lòng tôi thắt lại. Đó không phải là một nỗi buồn vô cớ thường đến với thi nhân, một cái buồn từ mặt trăng xuống với giống người vẩn vơ. Nó từ trong mạch máu rút ra, và gây nên bởi cái vận kiển của một chủng loại chẳng có thể dửng dưng với chúng ta vì chủng loại ấy là chủng loại Chiêm Thành và nước ấy là Ngọc Lan Quốc.

Tôi nhớ tới nước ấy như nhớ tới một nước mẹ, lòng tôi bàng hoàng, trí tôi xao động. Những đồi núi tươi xanh kia, những con đường đỏ ối kia, trước đây bảy tám trăm năm mỗi buổi sáng đã mang dấu chân của một người biết yêu, biết cảm dầu là thiếu lòng tin. Một giống người tài hoa dầu là mệnh bạc; chúng ta đến sau, đạp trùng lên trên dấu chân của người trước, sao cho khỏi ngậm ngùi và thảng thốt?...

Ta càng ngậm ngùi khi nghĩ tới cái số kiếp mỏng manh của giống người đã để lại cho ta một non sông gấm vóc mà chẳng giữ lại một lời trối trăng. Kẻ đại nghệ sĩ sống thì hào hoa phung phí như một kẻ bốc giời, vàng bạc châu báu tung toé khắp nơi, thế mà khi buông xuôi hai tay không mang theo một chút của cải, một hột cát, một mảy bụi. Nhà đại nghệ sĩ đã đi qua trên non nước của ta như con hạc lướt qua sông. Vâng, thì nó đã để lại trong cái điệu Nam ai não nùng kia cái tâm sự đau thương, cái u hoài não nuột của nó, nhưng cũng chỉ là một tiếng kêu trong đêm trường, còn thắc mắc để kể lại với ta một nỗi buồn xưa của những người vừa đi qua trước ta. Bây giờ thì trước cái im lặng của thời gian, ta không còn tìm thấy một cái mộ con, một cái gò nhỏ để tỏ rằng đây là chỗ họ nằm, chỗ họ yên giấc nghìn thu. Hương khói đã vắng tanh mà mả mồ cũng không có, nhưng mà họ đã chết ở đây, hoặc chết thầm lặng như cái chết của người lẻ loi cô quạnh, họ đã chết tại nơi đây, nhưng mà họ chỉ chết một nửa. Một nửa giống tài hoa kia còn sống, còn sống ở trong chúng ta, còn sống bởi chúng ta, còn reo trong tâm hồn anh, còn reo dưới ngọn bút tôi. Tôi biết, tôi cảm biết rằng, giờ phút này những giọt máu còn xao xuyến dưới da thịt tôi mà tôi sống một nửa bởi những giọt máu Chiêm Thành. Mà không phải chỉ một mình tôi, những người xung quanh tôi giờ phút này, đương nói cười, đương cử động hoặc thao thức trên gối, hoặc mơ màng dưới trăng, giờ phút này cũng như tôi, mang ở trong mình những giọt máu của một giống người bạc phước.

Nhưng ta nhắc lại điều này không phải là để nhắc lại một điều phụ bạc đối với giống người bạc phước. Không, nhà đại nghệ sĩ ấy đã đi qua và đi thẳng vào lịch sử đã để lại cho ta một dải non sông gấm vóc, từ Hoành Sơn trở vào Nam: đó là cái quà của người đã tặng cho ta. Tên tuổi của người sẽ chết trong tư tưởng nhân loại. Nhưng sống trong mãi ký ức ta, sống rạng rỡ như tên tuổi những người ân nhân, không những họ còn sống trong lịch sử của dân tộc ta, mà như trên kia đã nói, họ còn sống bởi máu huyết ta. Họ với bọn chúng ta ngày nay quyết chẳng phải là những người dưng. Họ đã ở trên tâm hồn ta như một điều thắc mắc không gỡ ra được nữa. Một ám ảnh nặng nề, một giấc chiêm bao hỗn loạn, một giấc chiêm bao cấu tạo một phần bởi máu huyết. Suốt đêm máu kia đã lưu liên trong chân thân ta nên canh tàn ta vẫn chưa dứt khỏi cái mộng hỗn loạn đã làm cho ta tóc rối gối lệch, mà tâm trí ta vẫn còn bâng khuâng thảng thốt…

Thật vậy, giống Chiêm Thành đi qua, đã để lại trên gối chăn ta một giấc mộng Minh hoàng! Đêm nay, Sống - Chết không biết, Ta - Người không phân, máu người ứ lại trong ta, nỗi buồn của người vướng lại trong ta, không biết ta sống hay người đã chết! Hỡi nhà đại nghệ sĩ, sao người không chết đi, chết hẳn đi trong tâm trí ta, cho ta được trọn một niềm thương nhớ? Đã bao lần mà có lẽ không phải một mình ta, những người sông Lam núi Hoàng trở vào, cũng ngắm với ta một đồng núi, cũng uống với ta một nước sông, cũng đều tự hỏi như ta: "Chứ cái giống người nhiều tình, lắm cảm, hàng triệu con người ấy đã đi đâu?"

Chúng ta là con cháu của những người chiến sĩ Việt Nam. Trong cuộc nam tiến vất vả và vô định kia, các chiến sĩ đã phải bỏ vợ con, bỏ gia đình lại nơi gốc tích nguồn ngọn để một mình băng xương tưới nước non người với một cây gươm và một cái cuốc. Thật là những cuộc chiến đấu vô hồi để mở mang bờ cõi khai phá ruộng nương. Những cuộc hành trình ngày đi đêm nghỉ. Những đêm trăng sao hay những đêm bão táp thì cũng là những đêm xa nhà, xa những người thân yêu, xa những núi sông quen thuộc, những đêm chỉ nghe tiếng vượn rú, tiếng nói líu lo của mán mọi, tiếng ca vang của người lạ, tiếng hót của chim rừng. Những đêm như thế sao cho khỏi gợi đến cái nỗi cô đơn của kiếp người dầu là kiếp chinh phu.

Tôi biết lịch sử đầy những sự vinh quang oanh liệt như thế. Nhưng thực ra ở trong những cuộc nam tiến mới thấy được cái vui hồn nhiên, cái hân hoan thành thực suốt tự lòng dân chúng. Vì đây không phải chỉ là cái tự đắc của bọn quân chúng, mà là cái vui hồn nhiên của dân chúng, của những thợ cầy thợ cấy, những người của đất ruộng Việt Nam, cái vui đã mở được một con đường sống về phương Nam. Cũng không phải là cái vui của vua chúa được thấy đất đai mình bành trướng, bờ cõi mình mở rộng, đây chỉ là cái hy vọng, cái thoả mãn của một giống người đã đào nhổ thêm được rẫy bãi: cái quang cảnh xinh tươi của mùa gặt, tương lai như đã mở đình đám hội hè ở trong lòng người quê mùa chất phác. Cái đám người ấy quen thuộc và trìu mến quê hương, nay cùng sung sướng mà được dời cái làng xóm, cái quê hương mình tới một nơi khác. Một sự sống mới, một sự sống dễ dàng hơn sẽ đón chào họ, tuy họ suốt mấy trăm năm phải phấn đấu. Những cái vui ngày nay đã làm cho họ quên cái mệt nhọc ngày hôm qua.

Những người của đất ruộng rẫy bãi Việt Nam bấy giờ họ đã hạ cái gươm. Ôi, cái khí giới tạm thời mà cũng thần diệu vô cùng, họ đã hạ cái gươm để cầm lấy cái cuốc. Tuy cái gươm đã làm cho họ vẻ vang và đưa lại bao sự vẻ vang cho lịch sử, nhưng cái gươm vẫn là nghề tay trái của họ. Cái cuốc đó mới là cái nghề tay mặt của họ. Cái khí giới vĩnh viễn mà họ không rời từ mấy ngàn năm nay. Sau khi đã mở rộng là đến lúc đào sâu, sau cái gươm là cái cuốc, cuộc nam tiến dân tộc ta chỉ có ý nghĩa ở sự đã làm cho đất đai hoang vu bạc bẽo trở nên những vật xanh tươi cò bay thẳng cánh, ở đâu người Việt Nam đi tới thì lúa má cũng mọc xum sê, một quang cảnh tốt đẹp, nức lòng dân nước mà cũng đẹp mắt Thượng đế là đấng đã dành riêng cho ta một cuộc sống phì nhiêu phong phú hơn nữa.

Những ngày mà cả một dân tộc những gia đình đông đúc lũ lượt theo bọn quân sĩ mở cờ gióng trống mà rời bỏ cái làng xóm quê hương của mình vào phương Nam thái bình ấy là những ngày tốt đẹp nhất trong cõi xuân của dân tộc. Sống lại những ngày ấy, chẳng khác nào buông thả những mầm giống suy nhược ở trong mình, buông thả nước Chiêm Thành bại vong đi, để tái sinh lại trong lòng mẹ của chúng ta. Quyển sách này chính là sự tái sinh của một dân tộc, trong sự tái sinh của một thanh niên suy nhược đã bại trận. Dân tộc ta sống lại những ngày vui mừng hớn hở của cuộc đời Nam tiến chẳng khác gì người thanh niên ba mươi tuổi kia, sau khi đã nếm đủ mùi ngọt bùi cay đắng, qua những bước nguy vong truỵ lạc, qua những ngày âm u đen tối, bây giờ trở lại với gia đình, với yên vui, với làng xóm, với quê hương.

Người ấy tìm lại mình ở trong cái bình lặng và trong trẻo của tuổi ấu thơ, tìm lại mình trong sự yên ấm trong gia đình, tìm cái tin tưởng của mình trong cổ truyện và trong quê hương của mình.

Bây giờ tôi đã ở trên con đường về... gia đình, quê hương, đất ruộng sẽ đón đứa con phụ bạc vào lòng, như đón lấy một niềm thân yêu. Một mặt trời mới lại mọc trên con đường về. Nhưng đó chỉ là cái mặt trời rất cũ của đất ruộng, của rẫy bãi, mọc ở phương Đông để rồi lặn ở phương Đoài, và ngày mai, sớm hơn ai hết, lại mọc ở phương Đông. Tôi tưởng như tôi tái tạo trong lòng đất ruộng, nhưng đó chỉ là cái vui của sự tái tạo mà thôi, chứ thực ra về đây tôi đi lại trên một con đường rất cũ, đạp trùng lên dấu chân của những người Việt Nam đã tới và đã đi qua, cuộc sống không phải chỉ có với những người đương sống, mà nó còn sống được bởi những kẻ đã chết. Những kẻ đi qua vẫn là những người còn đi mãi, chúng ta không thể sống một ngày, một giờ, một phút mà không kể tới tổ tiên ta. Một người chỉ là một cái tên không. Đoàn thể mới là có thực. Đoàn thể là một cá nhân lớn. Cái đoàn thể của người sống và kẻ chết. Cái đoàn thể cáng đáng ở trong một mối tình lớn lao bất tuyệt.

Tôi nghĩ "tôi" là tôi nghĩ "đoàn thể". Các người đọc tôi! Hãy đừng phân chia người với ta. Một chút của người đã reo vui với ta dưới ngọn bút, trên khoảng giấy. Một chút của ta cũng dự một phần với các người, khi môi các người nở ra hân hoan để nhắc lại những ngày đã qua, những chữ "ngày xưa". Đừng tưởng rằng ta là ai. Ta nói đến ta là chỉ muốn nói đến người nhưng không phải là ta chỉ nhắc lại một điều đã cũ, dạo lại một bản đàn đã sáo, người biết cùng chăng? Cái mầu nhiệm vẫn là tự ở người mà đến, nghĩa là ở ta mà lại một nhà văn Âu Tây đã nói: "Mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy, tôi rất ngạc nhiên vì sự tôi có ở đời này, rồi tôi khoái trá khôn cùng".

Cái sự ngạc nhiên vẫn tự ở trong mình mà lại. Vậy thì người hôm nay hãy cho phép ta nói tới ta một chút, một chút về tuổi trẻ của ta, về đời của ta, về tâm sự của ta, về ta... Đó là chuyện của ta mà cái mầu nhiệm, cái ngạc nhiên cũng vẫn ở người. Vì ta với người là một, vốn là một, vì những người đã tạo ra ta, sống cùng mang một chất, chết cùng nằm một đất. Ta hãy nói đến họ, để cùng được sống với nhau một lần nữa.

 

 

 

 

II

 

Sau cây gươm, là cái cuốc

Sau bề rộng, ấy là bề sâu

Mà dân tộc ta không chú trọng bề rộng bằng bề sâu. Vì dân tộc ta là dân tộc chắc chắn, không phải là một dân tộc mơ trăng tưởng gió, mà là một giống người đã sống một cuộc đời thực tại nặng nề. Dân tộc đã quen sống khó khăn, gay go nên không thể là một giống phong lưu công tử. Lịch sử của dân tộc này là lịch sử một cuộc chiến đấu vô hồi, chiến đấu với tự nhiên, chiến đấu với hoàn cảnh, chiến đấu với kẻ địch phương Bắc. Ta xuống được biển là ta đã qua được bao nhiêu núi đồi trùng điệp, ta đã tới được chỗ đồng ruộng phì nhiêu, là ta đã trải được bao nhiêu chốn nước độc ma thiêng.Có người tính rằng: Nếu dân tộc ta từ phương Bắc lại thì ta đã tự rời về phương Nam mỗi ngày 10 cây số. Cái tự chiến đấu để tự tồn cho đến ngày nay, không để lại cho ta một chút thì giờ để tư tưởng, để mơ mộng, mơ mộng như những người đời Đường đời Tống, tư tưởng như Lão Trang, Dương Mặc. Ta là một giống thông minh, cái thông minh dùng để phát huy hoàn cảnh, chiến thắng cảnh thực tại, tổ chức sự sống. Cái năng lực tự tồn là bản chất của nền triết lý của ta.

Có một độ người ta, mà lại là những nhà học giả đại danh nêu ra một mớ lý thuyết nhất định, rồi bảo đó là quốc học, là học thuật của một nước, mà cái ấy quả ta không có trọn. Hiểu quốc học là học thuật, là tư tưởng có theo lối Dương Mặc, Trang Chu thì quả cái dân tộc bạc phước này không có cái của báu ấy. Nhưng ta nên nghĩ rằng đó cũng là một cái trò chơi "Mở cuốn", một trò chơi tinh thần của một giống người phong lưu. Ta không có, ta mượn của người, ta vay của người. Bên Thái Tây không nước nào là không vay, không ít thì nhiều, của hai ba nhà giàu tối cổ, ấy là La Mã và Hy Lạp. Những điều ấy không quan hệ gì đến hồn một nước. Mà nói quốc học, phải nói là quốc hồn. Cái hồn dân tộc không phải ở một nền tư tưởng một nền triết lý. Vì ta có thể sống mà không cần phải dựa vào một nền triết lý nào cả, cái sức mạnh của ta là ở cái cách ta phát huy mình và phát huy hoàn cảnh. Vậy ta xét về hai điều này, ta là một giống phi thường, vì ta đã chiến thẳng bản thân mình, và chiến thắng hoàn cảnh. Ta là một giống mạnh, sao ta lại phải là bài ca của nước Sở nước Tần làm gì nữa. Ta đương trèo núi thì đã có bài "đăng sơn" của ta. Tôi nói cái sức mạnh là ở cách mình phát huy mình và phát huy hoàn cảnh. Phát huy mình là tìm ở trong mình một sức mạnh phi thường, một lòng tin vững chắc. Lòng tin ấy đã che chở ta bao lâu trên lịch sử với một nhóm người ta đã cản ngăn lại được, người ngựa mọi rợ từ phương Bắc đến phát huy hoàn cảnh là ta đã nắm được cái bí thuật, cái bí quyết của cuộc sống. Ta đã lợi dụng đến cái năng lực cuối cùng của sự sống, ta đã lợi dụng được cái phong lưu của núi rừng, cái phì nhiêu của đất cát. Ở đâu ta đã đến, hoa màu tươi đẹp như gấm vóc. Kẻ địch của ta ngày xưa khi giẫm chân lên trên khắp lục địa, đã có câu nói rằng "ở đâu ta đi qua cỏ sẽ không mọc nữa". Cái câu mà ta sẽ nói, là "ở đâu mà ngựa của chúng ta đi qua, mùa màng sẽ dậy tốt tươi".

Ta chiến đấu với người Chiêm Thành không phải chỉ vì cái vui chiến thắng, vì cái hân hoan của hiệp sĩ, cái thích khoái của gươm đao. Không, ta chiến đấu để mở cho ta một đường sống. Vì thế, trời đã tựa lòng ta, mà cho ta mở rộng bờ cõi.

 

***

 

Triết lí tư tưởng là cái hoa rất đẹp của trí não, nó biểu thị cái phẩm cách cao đẳng của con người. Nhưng ta phải nhận rằng nó không tỏ bày được hết cái đặc biệt của một dân tộc. Đạo Phật hay đạo Lão là hai cái hoa đẹp nhất, kỳ diệu nhất mà trí não nhân loại đã nở ra nhưng hai đạo ấy không hẳn đã bày tỏ được hết cái đặc tính của Ấn Độ, thơ của Trung Hoa. Muốn tìm cái hồn của một nước nghĩa là cái đã làm cho một nước mạnh hay yếu, cao hay hèn, tráng kiện hay suy nhược, phải tìm ngay ở trong cái phát triển tự nhiên, thuần tuý của nước ấy. Nói một cách khác tìm ở cái cách nước ấy phát huy mình và phát huy hoàn cảnh. Về phương diện này, như trên kia tôi đã nói, dân tộc ta quả đã phát triển hết cái tài năng của chủng tộc và vận dụng một cách dễ dàng, thần diệu cái tài năng ấy, lại khéo "điều khiển" được sự thực, được cuộc sống... Trận Bạch Đằng, trận Tây Kết, trận Đống Đa là những chứng cớ rằng ta đã chiến thắng được mình mới chiến thắng được người. Lại cuộc nam tiến của ta cũng tỏ được rằng: Ta biết lựa được một con đường sống thích hợp, thuận lợi.

Sự sống xúc bức, ta phải mở mang bờ cõi. Ta là một giống sinh nở nhiều, mà núi hoang rừng rậm lại chiếm hết một phần lớn. Mượn sức mạnh của gươm đạn, ta chỉ cốt một điều: đòi thêm ruộng đất cho mình. Nói cho đúng, ta chỉ đòi thêm đất cát hoang vu, để làm thành những nương ruộng, những rẫy bãi thuần thục cốt có thêm đất để trồng trọt, thêm gạo để ăn. Đó là một sự cần xuất tự chỗ "tinh tuý" của cuộc sống mà ra. Những cánh rừng hoang vu đã biến thành nương ruộng phì nhiêu, cỏ đầy chuồng, thóc đầy vựa, cái cảnh phong túc ấy tuy cốt để nuôi sống con người, cũng là một cảnh tượng nức lòng Thượng đế. Để những cảnh hoang vu cho những giống dân lười biếng, thì cảnh hoang vu ấy mãi mãi chỉ là cảnh hoang vu. Ở đâu lúa có thể mọc, mà không mọc, ấy là tội ác đối với đất đai. Những đứa con của đất đai như cha ông ta không bao giờ lại phạm những tội ác hay để cho người khác phạm những tội ác ấy. Vì thế khi cây gươm đã tra vào vỏ, ta đả bại kẻ địch của ta ở chiến trường, chính là lúc ta phải quyết tỏ rằng: ta cũng sẽ thắng họ ở trên trường sinh hoạt nữa. Vì cái thắng này mới là mục đích của cái thắng kia. Dân tộc ta trước hết và bao giờ cũng là những thợ cầy đã làm cho đất đai phải kinh ngạc.

Tôi không nhớ rõ ở trong một quyển sách nào, một người Pháp chuyên về lịch sử nước ta đã nhận rằng nước ta là một nước lấy nông nghiệp làm gốc, và cái khoa học về đất đai của ta, thật đã hoàn hảo và tinh xảo vô cùng. Nói rằng khoa học có lẽ hẹp nghĩa mất của hai chữ nghề ruộng, phải nói là một mới đúng.

Vì rằng nghề ruộng không phải chỉ có lượm lặt một mớ kinh nghiệm qua các thế hệ. Nghề ruộng, đó còn là cái nghệ thuật đặt mình vào lòng vũ trụ, nghe ngóng những cuộc biến thiên của thời tiết, cuộc chuyển di các hiện tượng... Gã cầy ruộng kia tưởng như thô lậu biết bao nhiêu, nhưng là người thi sĩ thứ nhất của trái đất, đã ngẩn người vì một cái bóng sao đi, đã thẫn hồn vì một mùa trăng... Nghề ruộng tức là cái nghệ thuật điều hòa cuộc sống với thơ văn. Mà thơ văn đây không phải là bọt bèo, tăm bóng, không phải là những cảnh phù phiếm, nhởn chơi của dân địa cầu. Thơ văn đối với dân tộc ta là sức mạnh chuyển di ở trong lòng vũ trụ, ở trong lòng người, một ngọn gió mênh mông từ cõi trời tạt sang cõi nhân thế. Ta thử hỏi một cuộc đời lấy cuộc sống làm mục đích cho cuộc sống, lấy đất đai làm trung tâm cho cuộc sống, và bắt những sức mạnh ở trời đất quy phục bên cuộc sống, đó chẳng phải là một cái đạo thiết thực và đẹp đẽ vô cùng mà dân ta đã biết lựa chọn lấy cho mình. Đời cả một dân tộc cũng như đời một người. Khi đã biết lựa một cái đạo thiết thực và đẹp đẽ là nông nghiệp ấy, thì còn thiết gì những điều viển vông khác nữa. Chỉ những ông nhà nho, nghĩa là một phần rất ít trong quốc dân mới hay nói chữ "nhàn", mới ngâm gió vịnh trăng, sầu hoa buồn tuyết, một số rất ít ấy mới tập lấy cái thói phong lưu, chứ cái đại toàn thể quốc dân Việt Nam vẫn là con cái của đất đai, vẫn sống với đất đai, vẫn lấy đất đai của căn bản cho mình, cho gia tộc mình và cho xứ sở của mình. Cái vững chắc, cái bền bỉ của đất đai giữ cho nén hương ở trên bàn thờ ông bà được sáng tỏ mãi. Khoảnh đất của mỗi nhà, mỗi họ đó, vì thế mỗi gia tộc đều có một miếng đất dùng về việc hương khói người ta truyền từ đời này qua đời khác, từ vô thuỷ đến vô chung, đó là miếng đất bất khả xâm phạm mà người con của muôn đời phải coi như cái trách nhiệm thiêng liêng là gìn giữ lại để truyền giao xuống cho người kế tiếp mình. Miếng đất ấy cha ông ta gọi là miếng đất "hương hoả", hai chữ ấy theo nghĩa thông thường là miếng ruộng dùng vào việc hương đèn, việc cúng tế ông bà tổ tiên. Nhưng miếng đất hương hoả tự nó đã ôm một cái nghĩa khác, cái nghĩa đến một lần với sự thực, cái nghĩa xuất tự chỗ tự nhiên, chỗ "tiềm thức" để tỏ cái sự tương quan giữa đất ruộng và gia tộc là hai mối quan hệ lớn lao của quốc gia Việt Nam. Nói đất ruộng là nói giang sơn, nói gia tộc là nói chủng loại. Trong chữ dân tộc có chữ "tộc", trong chữ quốc gia có giữ "gia". Đó mới nên hiểu rằng: nhà với nước, tộc với chủng tộc đều là một. Tôi nghĩ rằng đất đai chỉ là để bảo vệ lấy chủng loại. Cái miếng đất hương hoả tiêu đi là hương khói trên bàn thờ tổ tiên sẽ tàn lạnh mà cái dòng họ của mình cũng do đó mà tuyệt diệt. Nước ta, nhất là từ Hoành Sơn vào nam, hai chữ tổ tiên là để chỉ những người đầu tiên tới khai phá đất đai. Nó bắt đầu từ một nguyên do rộng lớn, từ một nguồn gốc mênh mông, nhưng dần dần muốn cho cái tinh thần được định cứ, sự tôn thờ được rõ rệt, sự tin tưởng được chắc chắn, người ta thu hẹp lại tất cả, để mọi sự được vững vàng. Vì thế từ chủng tộc người ta đi xuống gia tộc, từ tổ tiên kể những công thần có công khai phá đối với nước. Người ta chỉ biết có những tổ tiên là những tiền nhân đã mở nguồn cho một nhà một họ. Hẹp rộng có khác, nhưng cái chính nghĩa vẫn không suy suyển, sự quan hệ giữa đất đai và chủng loại vẫn y nguyên, lòng tin thờ vẫn là một, tin ở đất đai, ở sự bảo vệ thiêng liêng của đất đai, và thờ những tổ tiên khởi dòng mở thác cho mình. Trong những sự tin tưởng và thờ cúng của dân tộc ta từ xưa đến nay có bao nhiêu chứng cớ về sự động tĩnh của đất đai có quan hệ còn mất đến sự an nguy của dòng họ. Từ bậc vua chúa đến kẻ lê dân thảy đều nghiêng mình trước cái uy linh, trước cái quyền phép của đất ruộng để cầu xin sự yên lành cho gia tộc, cho dòng họ. Điều ấy cũng là lẽ tất nhiên ta là một dân tộc phải chiến đấu từng tấc đất thì ta phải biết cái giá trị vô cùng của đất đai, sự tôn thờ đất đai chẳng phải một phần ở đó mà ra ư. Trên có hai vầng nhật nguyệt rạng soi, xung quanh có quỷ thần chứng giám, cuộc đời của dân tộc Việt Nam là một cuộc đời đầy những điều cực kỳ nghiêm trọng, mục đích của dân tộc là tìm ngay ở trong lòng cuộc sống của tiền nhân, trong lòng của đất đai một lòng tin vững chắc. Một cuộc đời dựa vào lòng tin thờ người chết; lấy sự kham khổ, sự chiến đấu làm phương châm; thử hỏi một cuộc đời như thế còn có chỗ nào dung được những lời trăng hoa, những điều phù nhiêu dễ giãi. Xã hội ta là một xã hội không phải chỉ gồm có người đương sống mà khởi nguyên bởi những thế hệ đã đi qua và kết thành bởi những lớp người sắp tới.

Dòng họ phải có nghĩa đầy đủ ở ba kiếp dĩ vãng, hiện tại và vị lai. Cũng như dòng nước nó phải có chỗ bắt nguồn và cũng có nơi quy tụ. Vậy cái xã hội Việt Nam là một xã hội mênh mông trước hết là quan hệ ở những người đã chết nghĩa là đầu giây mối nhợ cho một cõi không cùng. Người đến sau là kẻ sẽ nhận lấy cái dĩ vãng và để truyền lại cho kẻ đến sau nữa. Hương khói không tắt, ấy là dòng dõi không dứt tuyệt...

Hương khói không tàn lạnh để dạy ta cái đạo lớn sao chẳng gọi là một tôn giáo? Cái tôn giáo về người chết vì người chết là tất cả sự quan hệ của cuộc sống gồm cả quá khứ đến vị lai. Cái tôn giáo ấy là lòng tôn thờ những bậc khai quốc công thần, lòng biết ơn, lòng tưởng nhớ đối với kẻ đã mở mang bờ cõi khai phá ruộng rẫy cho chúng ta.

Lịch sử chúng ta là lịch sử một cuộc bành trướng lớn lao về đất cát, thì những vị công thần, cố nhiên, nhưng đệ nhất công thần, trước hết phải là kẻ có công khai phá. Cái tôn giáo tôn thờ những kẻ có công bây giờ là lòng thờ phụng tổ tiên, nó đã đi từ chủng loại đến gia đình, nhưng bao giờ thì nó cũng là một tôn giáo. Một tôn giáo, hay chỉ là một quan niệm nhân sinh, nhận cho người chết cũng là phần tự trong đoàn thể của ta, nhận cho người chết cũng dự phần chủ trương các việc sinh tử tồn vong của ta, nhận cho người chết cũng được thưởng phạt về những hành động của ta, nhận cho người chết được dự bàn cả trong những điều sự cỏn con, thân mật hàng ngày nữa. Một cuộc sống đáng lẽ chỉ giản dị đơn sơ bây giờ trở nên rộn ràng bề bộn vì người chết cũng chen lấn bên những người còn sống, người chết cũng có chỗ ngồi, có bát cơm đôi đũa trong bữa tiệc vui của gia đình, người chết cũng có lời bàn ra bàn vào trong những việc cưới xin gả bán, hay những việc lỗ mỗ. Sự xuất hiện nhà giáo đương thiên là để tỏ lòng biết ơn đối với kẻ gây dựng ra mình, cứu rỗi cho mình, thì sự thờ phụng người chết cũng là bắt nguồn ở một tấm lòng nhớ ơn tương tự mà thôi. Chỉ khác một điều, đạo kia bao trùm cả vũ trụ, cái tôn giáo của chúng ta chỉ bân tuần ở trong vòng chủng tộc.

Hẹp hòi, vâng thì có hẹp hòi, nhưng cái sức mạnh là ở sự hẹp hòi đó vậy.

Cái tôn giáo ấy hay là một quan niệm nhân sinh của chủng tộc ta đó, chỉ một việc nhận người chết cũng được dự phần trong cuộc sống tinh thần và vật chất của ta nữa cũng đủ lấp cả con đường đi của ta. Người ở ngoài bước vào cũng chỉ thấy có hai việc, dường như bao quát, chi phối cả cuộc đời của dân tộc ta ấy là đất đai dòng họ. Hai điều ấy bây giờ có thể nhập làm một và tạo thành nước Việt Nam.

Đó là cái trục của cuộc đời dân tộc, mọi sự đều quy tụ lại xung quanh. Từ những hội hè trong ngày xuân, cuộc vui vầy đoàn tụ ba bữa Tết, cho đến lễ kỳ yên, cúng đất v.v... cũng đều là những dịp cho những con cái của đất đai, của nhà nông, mở rộng lòng hớn hở để tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên. Đó cũng chỉ là đất ruộng hân hoan đón rước ông bà, vì hòn đất thiêng bao giờ cũng biết bảo trọng giống tốt. Hồi trông những mùa gặt đã qua, mà ta nức lòng nghĩ đến những mùa gặt sắp tới... Cái đạo về cuộc sống, cái đạo về đất đai ấy, đó là cái đạo của dân tộc ta là một dân tộc đã luyện được hồn mình trong cái mài rũa của chiến đấu, của cuộc sống gay go. Cái tính chất của ta, vì thế không phải sự nhẹ nhàng bay bướm như người Trung Hoa, mà chính là sự nghiêm trọng nặng nề.

Tất cả người Việt Nam, đều mang theo mình một triết lý nghiêm nghị mà thiết tha ấy, gần gụi mà chắc nịch ấy, chúng ta có lẽ là những người hẹp hòi và thô bạo. Điều ấy có quan hệ gì, miễn chúng ta là những con người có tâm hồn cao thượng, chúng ta không muốn bay cao bay xa vì chúng ta đã có cặp chân thô bạo và chắc chắn. Đôi chân đã cột chúng ta lại với đất đai... Và lòng trí cũng chỉ bâng khuâng về một sự nhớ ơn người trước là cái đã đẻ ra tôn giáo thờ phụng tổ tiên. Đôi chân của chúng ta đã có chỗ đứng, tâm trí của chúng ta cũng đã có những chỗ nương tựa. Trời! Chúng ta còn ao ước gì những nỗi cao siêu huyền diệu? Đêm đã thay canh, người đạo sĩ của chốn đất rộng của nhiều, người đạo sĩ ở Trung Quốc nên khoác áo trắng mà qua sông, nhưng chúng ta đang ở giữa ban ngày, bao giờ cũng đương ở giữa một cuộc sống gay go và tàn bạo, chúng ta chỉ nghiêng mình tìm lấy đạo lớn ẩn nhẫn trong đất đai hay trong dòng huyết thống. Sự reo vui chừng như đã gần chúng tôi sao còn đuổi bắt chim ngàn dặm?

Ta thường nghĩ: cái điều gần mà rất xa, cái bắt được đã lại thoát. Nhưng chúng ta đã không phải lục lọi bốn phương mà đã nắm được cái đạo lớn ở trong gang tấc, ở bên ta, hay ở trong ta. Ta đã tìm được con đường của ta, ta đã phân được cái vị trị của ta, ta đã quyết được cái lòng ta, định được cái thái độ của ta, máu huyết đã cất tiếng kêu gọi là mà đất đai cũng đã hết lòng che chở cho ta thì ta còn cần gì phải vay son mượn phấn để tô vẽ mặt mày?

Tôi biết những tư tưởng như Lão Trang, Dương Mặc, thật có cái duyên đắm người, nhưng khi ta định được cái vị trí vững vàng của ta ở trong trời đất, đã tìm được cái đạo lớn của ta ở trong trời đất thì sao ta còn hỏi gió bắt trăng làm gì?

Có lẽ trong vũ trụ có những điều nên biết nữa ngoài cuộc sống của ta. Nhưng khi trời đã lấy khoảng 60 - 70 năm mà định hạn cuộc đời thì ta cũng nên tuỳ theo cái thời gian ngắn ngủi ấy mà định liệu lấy cái thân ta lấy cá biệt của ta. Ta không phải là ngựa thiên lý mà hòng chạy một ngày ngàn dặm. Biết được sức mình mà liệu đời mình ấy là sống.

Ta đã có một cuộc đời vật chất bảo vệ bởi một đất đai, ta lại biết góp với ông bà tổ tiên một cuộc đời tinh thần đầy đủ, ta cần gì phải khoác vào mình cái áo của người đạo sĩ, trên sông Hoàng Hà hay trên sông Gange. Tôi biết cái đạo Lão đã vào nước tôi, nhưng cái đạo ấy đã biến hình đến thế, nó mất hết cả mầu nhiệm cao xa mà chỉ con một phương thực tế, vì rằng cuốn Đạo đức kinh may ra ở xứ tôi còn tìm được ở trong những ông thầy phù thuỷ là những người cúng đất, đạo Lão đã bị diệt hoá quy phục thành một đạo bùa hộ mệnh cho gia đình, cho chủng loại. Còn đạo Phật tuy may mắn hơn, đã tràn qua nước tôi hàng chục thế kỷ, coi tín đồ khắp non cùng nước tận, nhưng cũng không giữ được sự độc tôn. Đạo ấy tuy có thay được một ít lề thói, một ít phong tục trong xã hội nhưng không đổi được những lớp cùng sâu của tâm hồn Việt Nam. Những con Phật vẫn là những kẻ nặng đạo với tổ tiên, vẫn lấy sự thờ cúng ông bà làm căn bản tinh thần, mà có khi đạo Phật cũng phải phục dịch cho cái nền đạo lý ấy nữa.

Duy chỉ có đạo Khổng lấy chữ hiếu trung tâm làm căn bản thì nó có thể tồn tại được ở cạnh cuộc đời của dân tộc ta. Vì đạo ấy không có gì trái lại với sự thờ cúng ông bà mà nó còn nương tựa giữ gìn cho nữa; tôi biết đạo Khổng đã vào nước tôi hàng chục thế kỷ nhưng ta hãy ngoảnh lại xem cái bản đồ lịch sử của chúng ta. Giang sơn nhà Nguyễn không phải là giang sơn nhà Lê, giang sơn nhà Lê không phải là giang sơn là Đinh, nhà Ngô, giang sơn nhà Đinh không phải là nước Giao Chỉ mà Giao Chỉ không phải là giang sơn của vua Hùng Vương. Cái dân tộc ta phát tích có lẽ ở trên sông Dương Tử mà cái giang sơn đầu tiên của nước ta có lẽ là ở trong vùng trung châu của nước Tàu. (1) Thế mà ngày nay ta đã phải dời cái quê hương của ta xuống tại bờ bể Nam Hải, đó chẳng phải chứng tỏ rằng: cuộc tiến về phương Nam của dân tộc là khởi đầu với ngày thứ nhất của sự lập nước... Ngày thứ nhất đã có những người trước quất ngựa về phương Nam để mở mang bờ cõi, thì sự biết ơn cũng đến trong lòng kẻ tới sau, nghĩa là lòng thờ phụng tổ tiên đã đến với dân tộc ta từ ngày gây dựng ra cái hình thù thứ nhất của giang sơn Việt Nam.

Vậy thì ta nên hiểu rằng: đạo Nho không đẻ ra cái lòng thờ phụng tổ tiên của dân tộc ta, mà chỉ đến gợi dậy những sự đồng cảm ở trong lòng người Việt Nam, hay là chỉ đến làm củng cố, đến gìn giữ lấy cái lòng thờ phụng người chết đó. Tôi biết cái đạo hiếu ở nhà nho Việt Nam nó rõ rệt hơn (vì nó đã có hình trên sách vở) nhưng nó không mạnh bằng cái đạo hiếu của gã dân cày kia, chỉ thầm lặng nhận lấy tự tay cha ông truyền lại, một đạo hiếu thầm lặng, không sách vở. Tôi biết ở trên bàn thờ kẻ dân giã kia, hương lửa không bao giờ tàn lạnh. Chẳng phải ở đấy, ta tìm lấy cái bất diệt của dòng dõi Việt Nam mà những chuyện khác chẳng phải là phù hữu ư?

 

 

 

III

Như ở chương trên đã nói: Xã hội Việt Nam là một xã hội gồm những người chết và người sống. Dòng dõi ta chảy xuôi qua các thế hệ cũng như dòng nước kia từ cao nguyên xuống bình địa và tuôn ra bể cả. Ta ngày nay hoặc anh hoặc tôi là một giọt máu đã phiêu lưu qua các thế hệ. Dòng kia không thể "hai"  vì giọt máu ấy chỉ có "một". Đừng tưởng rằng ta, hoặc anh, hoặc tôi, đến đây giữa thế kỷ này là một cá nhân hẳn hoi, một phẩm cách tự lập và có quyền tự đắc, một con người có dấu hiệu riêng. Chúng ta, than ôi! chỉ là những giọt máu không phải nẩy nở từ hôm qua hay hôm nay, mà là những giọt máu đã có một cuộc sống, có một cái hồn, những giọt máu cấu tạo trong cái mầu nhiệm của các thế hệ đã qua. Sáng hôm nay tôi dốc một bầu rượu, dự một bữa yến đầy thịnh soạn, hôm nay tôi thánh thót nhẹ nhàng hay âu sầu thơ thẩn, đều có nguyên nhân sâu xa, bí mật ở trong ấy, tầng lớp dĩ vãng của giống nòi tôi. Tôi tin ở thuyết định mệnh ấy cũng chỉ là cái định mệnh ở trong vòng chủng tộc và điều này, tôi vẫn coi như là một lòng tin căn bản. Hôm nay, nếu tôi mang lại một điều gì đặc sắc, ấy là từ chỗ trung tâm mầu nhiệm của chủng tộc truyền lại cho tôi. Những giọt máu hôm nay là tôi, đã bắt nguồn từ một nguồn ấy của chủng tộc tôi. Không phải từ hôm nay tôi mới có mà tôi đã có từ khi dòng giống tôi đã mang tên tuổi ở giữa khoảng trời đất. Người Việt Nam thứ nhất đạp cảnh hoang vu xuất hiện trên cái núi sông thứ nhất của chủng tộc, người ấy đã có mang ở trong mình cái nguyên nhân của sự mạnh yếu của sự an nguy của tôi hôm nay. Ta, mỗi người trong chúng ta không phải là một hình thức đã trọn vẹn một cái gì đã hoàn thành, mà ta chỉ là một phần tử của cái toàn thể gồm trong sự quá khứ, hiện tại và vị lai..., ta chỉ là một "giai độ" phải qua của dòng dõi. Ta là một giọt nước lưu động trong lòng sông.... Cái trong đục của ta chỉ là cái trong đục của dòng nước. Nhưng nào biết ta là thế nào. Tách riêng ta thì ta là một giọt nước đương lưu động, thì ta đã lẫn đi trong cái mầu nhiệm của dòng sông. Ta là một cái chấm tự động trên con đường thẳng. Ta nối liền cõi vô thuỷ đến cõi vô chung, ta "nối liền hai đầu múi và có ở khắp nơi". Trên cái thời gian Việt Nam, chỗ nào là chẳng có ta? Ta có ở trong Dĩ vãng, ta có ở trong Hiện tại và ta sẽ "có" ở trong Vị lai, ta "ba" trong thân kiếp mà ta chỉ một trong Dòng họ.

Chuyện sau đây là chuyện một giọt máu tự kể. Một giọt máu Việt Nam ở trong kiếp hiện tại của nó. Thời gian ngưng tụ lại trên lưng nó và ta là một giọt máu ngưng lại để tự kể chuyện mình, rồi ngày mai - không phải cái ngày mai của chúng ta, mà là ngày mai của dòng họ, - ngày mai giọt máu ấy lại tiếp tục cuộc phiêu lưu của nó, lại chu du trong cái thân kiếp của chủng tộc. Phát minh từ chỗ nhiệm mầu của cái thế hệ, nó sẽ có ở trong cái mang nhiên của vị lai. Nó là một sức mạnh, có hồn và tự biết, nó biết nó hiển hách ở trong ngày hôm qua, nó tin nó sẽ còn hiển hách vì chính nó là sự tin tưởng. Chuyện ta kể đây là chuyện một lòng tin vậy.

Hỡi người đọc vô danh ở nơi thảo đã! Bây giờ người đã rõ cái dĩ vãng của ta, đã rõ cái dĩ vãng của người, người đã nhận biết cái mối tương quan giữa ta và người, người hẳn sẽ để cho ta kể chuyện ta như người kể chuyện mình vậy. Người với ta là hai giọt máu song song lưu động trong cái chân thân của dòng dõi, hôm nay trên giấy bút ta còn phân ra với người, còn chia chủ với khách, nhưng chốc nữa, ngày mai ta lại ở cạnh nhau trên cái Dòng cũ, ta lại bị đánh lẫn đi trong man mác, và lôi cuốn đi tới cõi mang nhiên của dòng họ... Cả cái chuyện tôi kể đây tôi tưởng là cái đặc sắc của một kiếp nhân sinh, cả cái chuyện ấy cũng sẽ tuôn ra dòng và chảy vào biển cả.

Chỉ có dòng họ đó là cảnh sông dài biển rộng, ta là những giọt nước sao chẳng muốn tự biến thân cho sự cửu trường, bất diệt.

Người hãy nghiêng tai mà nghe: đây là chuyện của người, mà bấy lâu ta những ngập ngừng chưa muốn kể.

 

IV

Người họ Lưu thuỷ tổ xuống người kể chuyện này đã mười bốn đời. Người ấy cũng như những ông thuỷ tổ họ Trần, họ Lê, họ Nguyễn, họ Phan v.v... là những người chết đi được vua phong là những vị thần khai canh rẫy bái là nghề thuỷ tổ của chúng tôi. Như chương trên đã nói, sau khi đã đánh bại được Chiêm Thành, tổ tiên của ta tra gươm vào vỏ và cầm lấy cuốc để trau rồi lấy đất cát, 14 đời qua là 14 đời rẫy bái và đất ruộng. Những mùa gặt tốt đẹp đã liên tiếp nhau. Trên cái non nước của Chiêm Thành, trên cái chết của giống người hơn 10 đời xây dựng trong cái nề nếp của đất cát. Những lớp người trai tráng kế tiếp nhau truyền cho nhau giọt máu cương cường và một tinh thần cứng mạnh. Mười đời làm con cái của đất ruộng, đời thứ 11 có một người học trò xuất hiện, người học trò ấy đậu phó bảng và làm quan đến Tri phủ. Người tổ phụ ấy lại đẻ ra một người con chắc nịch như một cục đất. Cục đất chắc nịch ấy là ông nội tôi, ông nội tôi là một gã nông phu, cũng như bao gã nông phu khác của nước Việt Nam, lấy ruộng nương làm bản lãnh của nhà mình, nhưng cái thân hình vạm vỡ của gã nông phu kia, cũng không ngăn được cái nếp nho phong đã nhập vào gia tộc. Một hôm gã nông phu kia đương cuốc đất đồng cạn thì từ kinh kỳ có người về báo rằng: ba chú cháu cùng đậu đồng khoa, chú thì đậu cử nhân và hai cháu thì đậu tú tài. Gã nông phu kia cằm chống lên cán cuốc mà thẫn thờ như người lạc vía, vì ông cử kia chẳng ai khác là em ruột mình và hai ông tú kia thì chính lại là con mình. Gã nông phu ấy vội vàng vác cuốc về bảo với vợ: "Thôi! Chết rồi! Mạ mi không hay tin chi... à? Chú Xung nó đậu mà thằng cả thằng hai cũng đậu". Cái tin bất ngờ ấy làm cho bà tôi khóc oà lên vì quá mừng rỡ. Và ông tôi cũng ra dáng suy nghĩ hăng lắm. Cái mừng nó thái quá đi thì đối với nhà nông cũng có thể là một sự lo nghĩ, giá chỉ có một người đậu hay cùng lắm hai người đậu thì gã nông kia có thể sung sướng hơn.

Nhưng mà làng xóm bà con đã tới hỏi han đầy cửa đầy nhà. Người ta vui hộ cho ông bao nhiêu thì ông lại ra dáng lo nghĩ bấy nhiêu, gã nông phu ấy có một điều mà gã không nghĩ tới. Nhưng nó có thể đến làm lung lay tâm trí ông, lề thói của nhà ông, ấy là cái nề nếp chữ nghĩa sẽ làm rẻ rúng đất đai. Người nông phu thô lỗ ấy xứng đáng với ông bà tổ tiên, người nông phu ấy bây giờ người ta sẽ bắc giường cao chiếu sạch và đưa ông lên cái địa vị cao sang và sẽ gọi ông là cụ Cố. Mỗi lần ông son son vác quốc ra đồng để làm lụng như xưa, thì có người rào đón ông là: “Chết! ai lại thế, để đầy tớ nó mần, việc chi ông phải nhọc xác? Chẳng răng thì cung”. Không những người trong nhà mà bà con hàng xóm cũng hết sức khuyên ngăn, lấy lẽ rằng: Em là ông cử, hai con là hai ông tú mà mình huy đánh trần quần lá tọa coi sao cho được? Con cái trong nhà nghĩ thế, làng xóm cũng nghĩ thế, mà đó cũng là cái luận điệu thông thường của thế tình!... Nhưng ông đã không thể quên mình là một gã nông phu. Những ngày gieo vãi, hay những ngày gặt hái... mà không cho ông ra đồng là chẳng khác nào giam giữ ông lại, thân ông chẳng khác nào cái thân tù túng. Người nhà thấy cái vẻ bực tức của ông, thì cũng phải thả ông đi, thế là cái ông (cụ cố) kia lại xoay lưng trần, suốt ngày làm việc dưới nắng chang chang, tối về ông bắc ghế ra ngõ, đánh một giấc ngủ khoẻ khoắn của thời trịnh thịnh. Có kẻ đưa điều ấy trách ông thì ông xuýt xoa hai bàn tay mà đáp: "Con tôi có làm đến Tể tướng thì tôi cũng chỉ là thằng đi cầy mà thôi. Bắt tay chân tôi ở không thì thà "đâm" chặt đi còn hơn". Khoa sau, người con trưởng của ông già lại đỗ tú tài nữa, và người con thứ của ông đỗ cử nhân, mà cái ông già ấy vẫn là ông già của đất ruộng, giữa cái tuổi 60 ông vẫn xắn cao quần, làm lụng như một kẻ trai tráng.

Cái chí cương quyết của ông (1) đã làm cho chủ nghĩa văn chương cũng không thắng nổi ruộng đất rẫy bái. Mỗi bữa ông già ấy vẫn ăn cơm lẫn sắn và gật gật nói với con cháu: "Ta mà nuôi nổi các con ăn học thành thân, đỗ đạt được cũng nhờ ba tấc đất, các con sau này có nhờ chữ nghĩa mà làm nên cũng không nên phụ đám đất".

Trước cái thái độ cương quyết của ông già, những người con không thể nghiễm nhiên mà nằm ăn bát cơm trắng,(2) thành thử ông tú cũng là ông tú của rẫy bãi mà ông cử cũng là ông cử của đất ruộng. "Năm xe sách" của con không đổi được chí người cha. Người con trưởng là một bồ chữ trong thiên hạ thế mà trường ốc lảo đảo mãi mấy phen giật đi giật lại cái tú tài, còn người con thứ, sau khi đỗ cử nhân thì được bổ làm huấn đạo rồi xuất chính làm Tri huyện. Có gần mười năm trường, người con thứ ấy được bổ ở một huyện gần quê nhà, nhưng ông "cụ cố" vẫn không rời khỏi đất ruộng có lấy một lần gọi là lên thăm con. Kịp đến lúc, ông buông xuôi đôi tay, từ biệt vợ con, đất ruộng để mà về với ông bà tổ tiên, ông cũng chỉ trối lại với con cháu: "Đời ta lam lũ, sống đã xì xằng răng qua thì thôi, nay chết ta cũng không muốn linh đình, tốn kém vô ích”. Thành thử cái đám tang của ông không có gì là quan chiêm. Thiên hạ thì thào: "Thế mà cũng có con em hiển đạt ấy".(3) Các con cũng không lấy thế làm điều, miễn là không phụ cái ý cha là tròn đạo hiếu. Huống hồ là người con thứ đương nhậm chức Tri huyện, được tin cha chết về cư tang ba năm, xong ba năm, người cũng không ra làm quan nữa. Người chú đương làm quan to, có thế lực ở trong triều, có thể cất nhắc cháu lên, nhưng người cháu vẫn khăng khăng không đổi chí, vẫn thừa chí cha, trọn một niềm với đất ruộng không muốn rời xa một lần nữa, cái quê hương thân ái của mình. Vẫn biết trong sự từ khước không ra làm quan của ông Cử, có nhiều nguyên do khác, nhưng cái nguyên do chính vẫn là không muốn rời cái chí của cha... Cái cử chỉ ấy của ông Cử ấn định bởi sách Nho, bởi ông thánh, nhưng cái tiếng gọi bên trong vẫn là tiếng gọi của đất ruộng... Cái ông Cử ấy, từ đây treo ấn từ quan, sau ba năm cư tang thì ông mở trường dạy học... ông thường nói với học trò cũng như sau này ông đã nói với các con "Cái tội xấu xa nhất của con người là cái tội vong gia thất thổ".

Người thập tứ thế tôn của họ Lưu đã kẻ viết ra sách này, sau mười năm giang hồ phiêu bạt cũng đã nghiệm lại cái câu nói ấy của tiền nghiêm và cũng nhận rằng: cái tội xấu xa nhất vẫn là tội vong gia thất thổ.

Sau mười năm giang hồ vô định, người ấy tưởng trí óc mình đã nuôi ở trong cái nguồn Thái Tây, không tìm lại được con đường về nữa. Nhưng như có thần linh giúp đỡ, người ấy đã thấy lại cái ánh sáng đã đưa dần mấy chục thế hệ rẫy bãi...

Người ấy tưởng đã lạc loài ngớ ngẩn giữa cái dĩ vãng của giống nòi, nhưng không! Chính ở đấy, nơi cái bữa ăn giữa những người chết lẫn người sống, tôi đã tìm lại không bỡ ngỡ cái chỗ ngồi quen thuộc của tôi.

Sau mười mấy năm trời rẽ mình giữa những cảnh thực tại mới, chúi đầu vào những sách vở Âu Tây, "người cháu 14 đời" của dòng họ Lưu vẫn tìm thấy "mình", cái tư tưởng của con người chỉ là cái áo khoác trên mình, không phải là cái dòng máu lưu chuyển ở trong châu thân ta... cái dòng máu ấy còn, ta chỉ cần một chút yên tĩnh của tâm hồn là ta có thể lắng nghe được cái tiếng gọi mầu nhiệm mà tha thiết ở bên trong... cái tiếng gọi của 14 đời họ Lưu. Vậy, tôi đã trở về đây và tôi đã nghiệm thấy rằng: Người con của Tây học với người cha của Nho học vẫn còn gặp nhau ở trong một tư tưởng, trong một tâm tình. Vì rằng Tây học hay Nho học vẫn là cái áo tư tưởng khoác bên ngoài mà thôi, cho nên sự tương phản giữa cha con, giữa hai thế hệ vẫn là sự tương phản bên ngoài mà cái cốt cách và tâm tình vẫn là một, cái sự “đồng cảm” lưu chuyển ở trong mạch máu từ cha đến con vẫn “y nguyên”; nhà nho vẫn là hai: nhà nho Tàu và nhà Tây, nhưng con người vẫn là một... Con người mang ở trong mình cái dòng máu của đoàn thể, cái nho học không thể mang con cháu khỏi nề nếp của cha ông, cũng như ta không nên quy cho Tây học cái tội ác ấy. Sự phụ bạc ở trong lòng người, chứ không phải ở trên văn từ, ở trên giấy má... Ta có thể nói quyết rằng những chất Việt Nam bao giờ cũng có sẵn ở trong mình ta, ta biết luyện nó như luyện những linh đan, thì ta sẽ là một ngọn gươm, trăm mài nghìn rũa, ta còn e ngại nỗi gì?

Thầy tôi dạy: "Cái tội xấu xa nhất là tội vong gia thất thổ"? Tôi cũng sẽ đáp lại câu nói ấy và truyền lại cho con cháu tôi. Người đọc đừng hiểu lầm đấy không phải là một tư tưởng đã gặp một tư tưởng, một ý nghĩ gặp một ý nghĩ; ấy chính là một mối tình nuôi dưỡng trong một mối tình, một chí nguyện phát sinh trong một chí nguyện. Lột hết những thành kiến, rũ hết những mậu ngộ [a] mà mỗi người tìm thấy ở trong mỗi cõi học khác nhau, bấy giờ hai người hai thế hệ sẽ đối nhau, gặp nhau trong một tấm chí thành không che đậy, làm sao một giọt máu có thể nói được hai thứ tiếng, một giống có thể chia đôi hai dòng? Văn chương (1) tư tưởng là chuyện phù phiếm hết cả, khi ta đương đặt tay lên ngực để "dò xem triều máu hệ" (Xuân Diệu). Người khách ở trên bờ thì còn ngậm ngùi ca hát. Nhưng khi ta là giọt nước giữa dòng thì ta còn muốn gì nữa, còn nói gì nữa?

Tôi biết lời nói trên kia là sự phụ hoạ của hai thế hệ, không ngụ một chút văn hoa. Đó là lời nói của huyết tính và sự hưởng ứng của thâm tình. Không phải văn hoá Âu Tây dậy ta rằng sự vong gia là khả ố, cũng như không phải cổ học Trung Hoa dậy ta rằng sự thất thố là xấu xa. Điều ấy chúng tôi đã kinh nghiệm được trong 14 đời chung lộn với đất đai... không phải thế hệ trước ứng lên mà thế hệ sau phụ với, đó là tiếng gọi của máu huyết mà đất đai đã đáp lại. "Vong gia thất thổ"! Bỏ nhà là bỏ dòng máu, thất thổ là mất quê hương xứ sở... Khi ta muốn cho nén hương trên bàn thờ đừng tàn lạnh thì người con đừng sống xa nhà mà chết "không đất".

Nhưng đừng lầm sự giang hồ, lăng miếu, với cảnh thất thổ vong gia.

Vong gia thất thổ... là cảnh người bỏ nhà, sống không một tình thương, chết không một miếng đất chôn. Người vong gia thất thổ là người phụ bạc quê hương, không biết có tay chân ruột rà, mang giọt máu thiêng liêng cao quý ở trong mình mà không biết, không chịu cất mình lên cho ngang với sự cao sang ấy. Người ấy, sống thì vụn vặt vì ích kỷ, chết vì mang nhiên vì chẳng ai biết tới mà cũng vì chẳng nghĩ tới ai, sống không nhà, sống không xứ sở, sống không ý nghĩa mà chết với cái áo quan của người hàng xứ, chết lạnh lẽo, chết cô đơn, chết không một mối tình, kẻ ấy sao sánh được với kẻ giang hồ, ra đi như bão táp, to lớn vì sự từ biệt, cao quý vì sự hiên ngang, kẻ ấy sao sánh được với kẻ giang hồ sống xa nhà, xa hàng xóm, xa quê hương, nhưng sống trong nhớ thương, người giang hồ không chết về sự bất tài, chết làm nhục đất cỏ, với một cây đàn, với một ngọn gươm hay một cây bút, người giang hồ sống hiên ngang với một khí giới trong tay, rồi chết để mặc vận mạng. Có thể người giang hồ chết xa vợ con, chết trong tay thiên hạ, chết trong một rừng sim hiu quạnh, nhưng mà kẻ ấy chết trong một mối tình...

Ai đã qua những chiều bạt gió, đến trước ngõ một thành phố lạ, trăm nghìn ngọn đèn đỏ rực lên một lúc, mà không có môt tia lửa ấm nào đón rước mình? Ai đã qua những chiều mênh mông quá rộng lớn nhìn qua cửa sổ, trộm liếc và trộm thèm cái cảnh đoàn viên của thiên hạ mà tấc dạ bồn chồn; ai đã đi qua, rảo bước đi qua, mà giận vì cánh cửa kia không mở. Ai đã được chờn chờ trước muôn ngõ đường không đón rước; ai đã bâng khuâng trước những giây phút không biết đợi chờ; ai đã thắt lòng trước những cảnh đoàn viên ích kỷ của thiên hạ; ai đã qua, ai có qua những phút đau thương quằn quại ấy, thì mới biết mới hiểu cái giọng líu lo của đứa con thơ, cái cầm tay của người vợ yêu, cái lời âu yếm của người mẹ hiền, là những kho tàng vô giá, và tình cảm ở đời, vàng bạc châu báu ở trong thế gian cũng không đổi được cả những vật vô tình đã bỏ quên, đã chết trong xó lòng đáy trí, bấy giờ cũng vụt sống lại ở trong kẻ giang hồ, một hòn đá ở bờ sông, một cây bàng ở trước xóm, một cái miếu cổ, một cái quán xiêu, cho đến con gà pha con chó vàng, và với cả tuổi thơ ấu...

Những đàn quạ chiều chiều bay trước mái... và bao nhiêu cảnh vô tri nữa, có thực ở trong trí tượng phu nhân mà cũng có thực trong tâm linh người sông núi.

Nhưng bây giờ kẻ ra đi, đã trở lại... trong lòng tuy còn soi bóng của núi sông nhưng thật là đầy những nỗi nhớ tình thương. Người đã trở về và trong gia đình, cái chỗ ngồi của người vẫn như xưa, y nguyên, và đầm ấm.

Trông người vẫn có cái dáng dấp phong quang như xưa, có kẻ khen: "Quả là giống tốt". Nói rằng tiên thiên tốt chỉ là sự phú bẩm tốt ở giống nòi. Bây giờ tôi đã ở giữa gia đình tôi. Tôi viết cuốn truyện lại cho đứa con đầu của tôi, là kẻ nhận lấy giọt máu của tôi và sẽ truyền lại cho kẻ đến sau nó. Tôi là một cái vòng khuyên, và dòng họ sẽ là một sợi dây không đứt.

Cuốn truyện này là bức thư để lại hậu thế. Như tôi đã nói, đây là một giọt máu tự kể chuyện mình, trước khi đợi ngày lên đường... Cũng như hôm qua, ngày mai, nó lại băng vào chỗ mầu nhiệm của các thế hệ, một cuộc phiêu lưu qua các thân thế, qua các tâm hồn, nó sẽ mang những nỗi hân hoan của tôi, hay những nỗi buồn thương, hay những hăm hở nồng thiết của tôi mà phân phát cho hậu thế. Hậu thế đây chỉ là những người trực tiếp mang những giọt máu của tôi... Sao tôi chẳng hồi hộp cho được khi nghĩ đến một ngày sau đây, một trăm năm hay một nghìn năm khi luồng mắt tôi đã tắt trong bóng tối, da thịt tôi đã thối nát với cỏ cây, mà tôi vẫn còn sống trong một người, những người khác, vẫn mỗi ngày chu lưu trong chu thân của người khác, lúc vơi lúc đầy, lúc giá lạnh lúc nồng nàn, lúc nhàn nhã lúc kích thích... Bây giờ đây chỉ là một cái tư tưởng ấy cũng làm cho tôi hân hoan, ấm cúng... Vâng, một ngày kia tôi sẽ chết nhưng không phải chết một cách cô quạnh, lạnh lùng như từ trước tôi tưởng... vì tôi cảm thấy rằng tôi tin cuộc sống trong giây lát của tôi đây, và cả những nỗi vui buồn của tôi sẽ nở ra như muôn hoa trong thân kiếp của hậu lai, của cái lớp người sắp đến. Đây không phải là chuyện văn chương lạm rộn bút giấy, mà chính là tiếng kêu hân hoan của cuộc sống, tiếng kêu nhiệm màu và tha thiết.

Dòng họ! Ấy là sự thực, trên hết mọi sự thực. Sự thực tươi đẹp, mạnh khoẻ, bền bỉ. Thật đời tôi đã phí không biết bao nhiêu thì giờ, bao nhiêu tâm lý để tìm kiếm cái mà tôi gọi là cái đẹp trong trời đất mà than ôi! dòng suối mà tôi hằng mơ tưởng, nó ở ngay trong bản thân tôi, và không biết từ ngày nào, nó đã lưu động trong cái "châu thân" của dòng họ tôi... Tôi biết nói làm sao cho những người xung quanh tôi cùng hiểu thấy tất cả cái lộng lẫy, cái cao xa, cái mạnh chắc của điều muốn nói, dầu tôi biết những chữ, những tiếng là những hồn ở trong, đã có gửi gắm một ít những điều tôi muốn nói... Tôi biết có kẻ sẽ chặn tôi lại và bảo đây là thần bí. Vâng thì tôi tin ở sự thần bí, ở sự huy hoàng của thần bí.

Đây là một luồng ánh sáng mà linh hồn đã ngập tắm ở trong, tôi biết nói thế nào để tỏ hết được thần "khoái" của những giác quan. Thật vậy, tôi đã nói và tôi xin nhắc lại: cái điều mà người khác đặt cho tôi là thần bí đó, nó là lòng tin căn bản của tôi. Không phải hôm nay mà trước đây ba năm tôi đã hằng nghĩ rằng sự sống của tôi, cuộc đời của tôi không phải mới bắt đầu từ ngày tôi lọt lòng mẹ và sẽ kết liễu khi cái nắp hòm đóng lại trên cái hình hài của tôi... Không, từ trước tôi đã cảm thấy rằng: cuộc sống của tôi như một ngọn triều cùng lên một lần với mặt trăng của các thế hệ đã qua. Linh hồn tôi đã mang cái dấu vết của thời gian. Cuộc đời hiện tại của tôi chỉ là cái giai độ của một cuộc cử hành vô hạn. Không phải là cuộc luân hồi mà là cuộc cử hành trên một con đường nhất định, một con đường thẳng băng. Tôi không muốn tự hỏi: "Kiếp trước tôi là con gì, hay là cái gì?" Song tôi chỉ nhìn vào tôi, tôi sẽ thấy, sẽ sống lại cái "tiền thân" của tôi. Tôi không tin ở sự hoang mang của một kiếp luân hồi, mà tôi tin ở những phép, tuy nhiệm mầu mà nhất định đã sinh ra tôi, tôi biết rằng cái "tôi" hiện tại là cấu tạo ở trong một mối tình to lớn, cái mối tình đã bảo trọng lấy giống nòi tôi. Những luật phép đã cấu tạo ra tôi, thì cũng là những luật phép đã cấu tạo ra những người khác. Chúng ta, tất cả chúng ta... đều sinh ra và giữ được, là nhờ những luật phép nhiệm mầu dựa theo cuộc sống của dòng họ, máu huyết đã nảy nở thế nào thì ta cũng đã nảy nở như thế. Tôi có nói: chúng ta lưu giữ được là nhờ một mối tình to lớn ấy, là ý tôi muốn nói rằng: những sinh chất, những đặc tính của ta đã khéo điều hoà nhau đã biết phối hợp với nhau, theo những phép luật nhân nhượng, mới sinh ra được cái giống chẳng đớn hèn này. Cái giống tốt đã tự do nẩy nở, nên trên lịch sử ta đã thấy nối tiếp nhau mọc ra những bậc anh hùng kiệt hiệt để biểu thị cái khả năng khác thường của chủng tộc. Những bậc ấy đã tỏ rằng những luật phép đã cấu tạo ra họ là những luật phép biết công, dưỡng, biết bảo trọng lấy dòng giống. Nhưng chớ ai hiểu rằng những vị anh hùng là những ngoại lệ, là món quà riêng tặng của Thượng đế. Anh hùng chỉ là đứa con tất nhiên của giống tốt đã biết tự bảo dưỡng đấy thôi. Nhưng tôi không muốn nói, chưa muốn nói tới các người anh hùng là cái phần tinh anh cao quý của chủng tộc... Tôi chỉ muốn nói ở sách này, một điều rất dung dị rất tầm thường là tôi, là tất cả chúng ta cũng là tự giống ấy mà ra, là cấu tạo bởi những luật phép ấy, nhưng tôi đã bị héo hắt vì cái giống cỏ ác hại kia... nhưng dầu sao thì tôi cũng có quyền tự kể đời mình như biếu một "kiểu" nhân chủng. Huống hồ trên cái quyền nằm ở nhà bảo tàng nhân chủng ấy, tôi lại có cái quyền... điều này mới là một sự bất khả xâm phạm cái quyền... sống, tỏ mình sống nghĩa là cảm giác và tư tưởng... Ở một thế kỷ trước, có một nhà đại tư tưởng của nước Pháp đã nói "Cái tôi thật là khả ố". Đó chỉ là cái tôi của những người muốn khoa trương mình là anh hùng, là danh nhân, bắt thiên hạ bốn phương phải biết chuyện mình, phải phục mình, như thế thật quả là đáng ghét.

Nhưng sau những kẻ anh hùng, những bậc danh sĩ, sau những vị tướng quân, sau những ông bá tước, sau những vị thân hào, sau những nhà đại phú... thì bây giờ đến lượt chúng ta là những người tầm thường. Ta hằng nghe nói ở bên Nhật, những cô thư ký đánh máy cũng tự kể chuyện mình, những điều thân mật trong đời mình, thế mà xã hội vẫn công nhận đó... Lắm cuốn lại chạy hơn những sách các nhà đại văn sĩ. Ấy chỉ vì thiên hạ vẫn không hề sợ sự tầm thường, sự dung dị...

Hôm nay tôi cũng chỉ muốn nói những điều tầm thường dung dị... Hẳn sẽ không ai trách tôi, vì những điều tôi nói cũng là điều họ muốn nói, những điều ở trong mỗi chúng ta, ở trong tất cả chúng ta.

 

 

 

 

 

V

Cái cảnh trời đầy chớp nhoáng trước cơn giông tố, chả có một chút quan hệ gì đến cái linh hồn nho nhỏ kia sắp nở ở trong một gian nhà ngang ẩm thấp. Mẹ tôi theo một lề thói truyền lại bởi bà ngoại tôi, mẹ tôi không đẻ ra ngoài nhà lớn mà chỉ đẻ ở trong nhà bếp, nhà này với nhà lớn nằm thành chữ “đinh”, cho nên gọi là nhà ngang.

Nhưng chả bao giờ tôi, tôi lại tự hỏi rằng: Tại sao mẹ tôi lại không "nằm nơi" ở một nhà hộ sinh của hàng phủ, hay của hàng tỉnh. Giá cái khoa y học của Âu Tây đã can thiệp đến cái sự sinh nở tôi, thì có lẽ tôi đã có một cái hình thù chẳng giống như bây giờ, những cái dao cái kéo, cái lọ thuốc, cái kim chích, không chừng đã có một ảnh hưởng đến tờ giấy trắng kia là tâm hồn tôi.

Nhưng mà cái việc mẹ tôi "nằm nơi" theo cái nề thói nhà quê, theo cách thức từ thuở xưa truyền lại, việc ấy là một việc hết sức dĩ nhiên ở trong óc tôi, nên chẳng bao giờ tôi lại tự hỏi tôi sao bà không đẻ nhà thương Yây mà đẻ ở nhà như sau này thiên hạ thường hỏi vợ tôi mỗi khi người ở cữ.

Thuở ấy người đẻ An Nam, người đỡ đẻ cũng An Nam. Bà mẹ cũng hoàn toàn là bà mẹ An Nam. Mà những người tới thăm nom cũng hẳn hoi là những người An Nam và nói một tiếng An nam không một mảy may pha trộn. Chẳng hạn mẹ tôi đẻ trong một cái nhà bưng kín như một cái hộp, giữa mùa hạ, mà bếp than cháy đỏ rực cả ngày, ngoài ngõ người ta treo hai "bụi dứa" như để báo với khách qua đường: "Đây có người đẻ, người ta tạ khách và chó sẽ dữ hơn người thường". Đàn ông, ngay cả người trong nhà cũng không ai được đặt chân vào nhà đẻ; chỉ thầy tôi được vào một lần và anh tôi được vào vài bận, để đái vào một cái "ô" sắt cho mẹ tôi uống, chỉ có đàn bà thì được đi lại. Người thì mang cho nồi cơm, kẻ mang cho trách cá kho khô, kẻ trách thịt rim, trong cái thời gian ở cữ ấy thì người đẻ hầu hết là ăn cơm thiên hạ, duy có mụ bà thì được hậu đãi hơn, không mấy ngày là không cúng... mà thần tình, tự bé đến lớn tôi chưa thấy một vị thần nào lại gần gụi thân mật với người An Nam như cái bà mụ của những người sinh nở, đứa bé khi cười khi khóc, cũng do mụ "dậy", nó se mình hay nó "ăn chơi" cũng do mụ khiến. Đến ngót một tháng trời khi mẹ tôi mang cái mặt còn vàng những nghệ, vì người đẻ nào cũng tự tô cái mầu sắc ấy để đi chợ "không long" nghĩa là buổi chợ đầu tiên thì mụ mới tiễn về trời mà "khổ chủ" cũng như trút bớt được cái món nợ "cung đốn"... Những điều ấy mà tôi biết được là nhân cảnh mẹ tôi ở cữ các em út tôi sau này, mà tôi đoán biết được cái cách người ta sửa soạn cho tôi ra đời... Tôi biết chắc là không khí đầu tiên tôi được hít khi mới bước vào cõi đời, ấy là một không khí hoàn toàn An Nam. Tôi biết có làm cho tôi khác với đứa trẻ ở chốn kinh kỳ, đẻ ra đã hưởng thụ được cái không khí văn minh ở nơi nhà hộ sinh tổ chức theo cách thức Âu Tây. Thật tình cái khoa học đỡ đẻ của ta nhiều khi lầm lẫn và giết chết vô số đứa hài nhi, nhưng tôi là người đã sống được thì lời nói thứ nhất của tôi khi vừa bập bẹ phải là lời nói cảm ơn... Cảm ơn cái mụ bà rất An Nam ấy đã cho tôi trong cái phút đầu tiên của tôi ở đời này được làm một người An Nam trọn vẹn; cho tôi cái vinh dự ra đời, cũng như những đứa trẻ khác trước tôi hàng nghìn năm, dưới một sự che chở ấy của bà. Khi tôi biết mấy hàng này thì người ta, những người vật ngày nay, nhân danh tiến hoá mà bóp chết cái bà mụ cần cù kia của họ... có lẽ ở đôi nơi tốt phước, bà ấy đương ngoắc ngoải... nhưng mà trước sau rồi thì bà cũng quảy tráp ra đi... Cảnh chia ly cũng sẽ không làm rớt được một giọt nước mắt của cái thiên hạ phụ bạc xung quanh tôi... Nhưng phần riêng tôi mỗi lần tôi nghĩ tới vị thần đàn bà ấy thì vị ấy hiện ra như hình ảnh một người đàn bà thô kệch, nặng nề, khờ khạo, mà thật ra cần cù, siêng năng, lam lũ, một người đàn bà ta thường thấy ở trên các đồng ruộng ở miền Nghệ Tĩnh... Sự tưởng vọng ấy có lẽ một phần tại các bức tranh của anh thợ họa vụng về đã gửi lên trán bà, cái dáng ngườ, cái vẻ mặt ấy... Nhưng dẫu sao thì người đàn bà ấy đã ở giữa chúng ta hằng mấy chục thế kỷ, không dưng mà một bước bỏ ra đi như thế, nghĩ cũng là một cảnh đáng ngậm ngùi.

Với cái sự ra đi của người đàn bà ấy, cả một cuộc đời Việt Nam bắt đầu sụp đổ... Ở đây không muốn bàn chuyện hay dở, phải trái, tôi chỉ ký nhận một điều là tâm hồn của chủng tộc ta đôi khi đã bị lung lay. Trước cuộc sóng gió của Thái tây, mặc dầu lòng tin ở sự trường cửu của chủng tộc, lòng tin ấy vẫn còn nguyên vẹn ở trong chúng ta, nhưng cái cảnh mòn mỏi xung quanh trước mắt thật là đau lòng. Tôi còn nhớ rõ, như một hôm qua cái hình ảnh của người đàn bà ấy còn gấp đôi lưng lại, để hát mừng đứa con thơ. Tiếng hát quê kịch mà trong vắt:

Ru cao hát bạo em nghe,

Lá bù, lá bí, lá tre, lá vằng

Mà hát cũng gần như vô nghĩa. Nhưng trong cái chỗ xuất ư vô tình mà thành vô nghĩa đó, ta thấy cả cái chân thành thô bạo của một giống người, nương tựa nhau, bảo dưỡng nhau trong một mối tình chẳng "văn hoa", một mối tình nồng nàn như rau sắng vừa hái ở nguồn, thô bạo như đường đất thịt vừa mới sới.

Cái câu hát ấy là câu hát mẹ tôi hát ru ở bên giành (1) của em gái tôi. Cái câu hát ấy có lẽ là một câu hát đầu tiên có ý nghĩa đã rót vào tai tôi bây giờ đã là một đứa bé vừa biết suy luận, và bâng khuâng và ngạc nhiên. Vì nó biết mình suy luận như bấy giờ tôi đã 7 tuổi. Cuộc đời của đứa bé từ đây mới là đáng kể. Vì nó đã bắt đầu tự nó nhận xét, suy nghĩ thấy mình cũng giống như những người khác.

Trước kia hẳn nó đã nghe nhiều lần những câu hát êm ái rót vào tai nó như thế, những câu hát làm cho nó thiếp đi như trong một giấc mơ, chứ chưa một lần nào cậu bé ấy sửng sốt về cái vị đắm say bất ngờ trong câu hát. Không phải là cậu muốn giải thích lời hát, tâm trí cậu rất đơn sơ, lần thứ nhất cậu cảm xúc mà biết mình cảm xúc. Đã bao lâu những lời hát như thế thoảng qua rồi vụt biến, nhưng lần này câu hát ở lại, ngừng lại trong trí và nó thốt ra đã có một ảnh hưởng quyết định đối với câu rồi sau này là người thế nào, chẳng phải một phần do cái câu hát đầu tiên ấy quyết định đấy ư?

Người chép sử vì tôi cũng có quyền xem mình như một nhà chép sử chỉ nên kể từ đây giở đi, còn từ đây trở về trước đó là thuộc về quãng đời gần như vô tri, xin hãy gác lại, như gác cái quãng tiểu sử mang nhiên cái câu hát hình như vô nghĩa như đối với người lớn chúng ta, nhưng nó đã có một nghĩa sâu xa đối với cậu bé. Những âm điệu quả có cái mãnh lực mở ra một thế giới mới lạ.

Thật ra trong câu hát kia người ta không thể thấy cái nghĩa thông thường của nó, cái nghĩa định ước giữa loài người. Nhưng từ trong sự tiết tấu mầu nhiệm của âm điệu, người ta nhận thấy đột khởi lên một cái không ai giải thích được, một xúc cảm bất ngờ, từ đấy cậu bé đã bị dẫn vào một thế giới mới lạ mà tâm hồn cậu như triền miên, như tràn ngập đi trong một thứ ánh sáng huyền diệu, tưởng như cái linh tính con người bấy giờ mới đánh thức dậy. Có lúc người ta thấy cậu bé đang vui đùa, bỗng ngừng chơi, bỏ đám trẻ nhỏ, rẽ một nơi riêng, một nơi vắng tịnh, và ra dáng thẫn thờ, cậu bé vừa mới lên 7 tuổi ấy hình như đã bắt đầu làm quen với cái điều mà thiên hạ thường gọi là cái buồn, cậu bé ấy buồn? Nhưng mà cậu buồn về nỗi gì chả ai biết mà cậu cũng không biết. Chẳng qua cái cuộc đời tình cảm đã bị khêu gợi tới cậu phải vin vào những cớ linh tính để mà được buồn. Vì buồn là một cái thích khoái của tâm hồn hai mươi, thì cũng là điều rất dễ ưa của đứa bé vừa nẩy nở ấy. Điều ấy nếu chẳng biểu lộ ở các đứa bé cùng tuổi khác ấy là do cớ này hoặc cớ nọ, chứ đứa bé nào cũng có thể rất ưa cái buồn....

Vì người ta buồn tưởng cũng giống như nước cứ tìm chỗ trũng chảy xuống: buồn đó là bản tính tự nhiên của con người.

Ở cậu bé kia! Cái buồn đã là một sự thực hiển nhiên mà có lẽ cũng là một sự tiền định về cái kiếp mỗi người, nhưng thật là não nùng, thật là bi đát khi ta nhận thấy rằng ở trong một xã hội mà đứa bé lên năm lên sáu đã mang trên lưng nó một tấn kịch, mang trong tâm hồn nó một nỗi đau thương... Nhưng chữ tôi dùng khí thái quá, nhưng đôi khi tôi nghĩ đến cái đứa bé ấy là tôi đây trước hơn vài mươi năm thì tôi không khỏi ngậm ngùi thương mến! Tôi biết nó đương sống cạnh một bà mẹ hiền từ hết sức yêu dấu nó, là những bộ mặt vui tươi, tôi còn nhớ rõ như đã trông thấy trước mắt những đứa bé tuy áo quần lôi thôi lếch thếch mà cặp mắt rất linh động và đi đứng rất nhanh nhẩu. Sống giữa một tiểu nhân loại có phần vui hoạt tưởng đứa bé kia không có quyền được thẫn thờ ngơ ngẩn mới phải. Thế mà tội nghiệp thằng bé! Nó dường như một người ốm, hồn vía nó như bị vướng bắt... Nó nhìn không chính, nó nói không hết câu. Bao giờ cũng thốc thếch như kẻ mất cắp hay như một đứa trẻ gian. Ta phải nghĩ rằng, ở bên trong tâm trí của nó có điều gì u uẩn, hay là sự u uẩn giấu ngay sau những bộ mặt vui tươi rằng ngay xung quanh nó, sự u uẩn có thể ở trong người mẹ hiền kia bao giờ cũng muốn chuốc một vẻ bình thản dối giả ấy. Bà mẹ cũng như những đứa trẻ kia biết đâu vui thì cũng chỉ là để giấu giếm một cái gì. Biết đâu bây giờ người ta đã cố giấu tôi một điều gì rất thương xót, một điều gì rất nghiêm trọng. Bây giờ đây là những lời ước chừng mà thuở bấy giờ tôi cũng không biết gì hơn, những việc gì đã xảy ra và tôi cũng không biết tôi được ở trong một tình thế, cảnh nhà ra sao hay là chính cái cảnh mơ hồ ấy đã ảnh hưởng đến đời tôi chăng. Sau này một người anh tôi kể lại cho tôi hay rằng lúc nhỏ khi tôi mới lên hai tuổi tôi đã có một lần chết đi. Người ta bấy giờ kể cũng không rõ là tôi mắc bệnh gì. Người ta chỉ thấy tôi hất vú mẹ ra. Tôi không khóc trong một lúc lâu, chân tay tôi đã lạnh. Người ta nói với nhau là tôi bị phong. Hình như người ta có đút mấy muỗng thuốc cho tôi nhưng tôi vẫn không chuyển động. Có người bàn nên bỏ riêng tôi ra cho nằm riêng một chỗ. Mà mẹ tôi cũng đành như thế, coi như tôi không còn ở đời này nữa và tôi đã phụ bà mà đi. Nếu bà chưa khóc là bà còn ôm một chút hy vọng... Trong lúc ấy thì ông ngoại tôi một ông già phương phi, vừa băng ba đồng núi, mà tới thăm cháu, cái gậy trúc chửa rời tay. Ông vốn là một ông thầy phù thuỷ danh tiếng ở làng ngoại tôi, lại kiêm cả nghề thuốc nữa. Ông bước vào không truyền cắt thuốc, mà chỉ cầm một nén hương rồi đọc thần chú làm phù phép. Ông lấy kim mổ vào mình tôi mấy huyệt, thế là tôi lại khóc oe oe... Mẹ tôi vui sướng như chính mình sống lại. Tôi mỗi lần nghĩ đến chuyện đó, vẫn coi như có một vị tiên trên động xuống cứu sống tôi. Vì cái ông ngoại tôi, cái ông già đầu tóc bạc phơ, vẻ mặt phương phi, đi đứng như mây gió đó tôi vẫn coi như một ông tiên hiện thân. Nhưng nhân cái chết đi sống lại của tôi đó mà có người cho rằng tôi vì đó mà lạc đi mất một ít vía. Đó là nguyên nhân đã làm cậu bé lên năm kia phải thẫn thờ... Cũng như một người anh tôi đã cho sự thẫn thờ lúc nhỏ ấy là do cái tinh thần thi nhân của tôi sớm phát triển. Không, tôi không tin rằng: từ năm bảy tuổi tôi đã phải cái bất hạnh ấy, tôi đã phải cái tội ấy là một thi nhân. Tôi chỉ nghĩ rằng: tôi là đứa trẻ khôn sớm, mà tôi đã cảm thấy một điều gì nghiêm trọng mà người nhà tôi, mẹ tôi đã cảm thấy... không những cảm thấy, tôi còn bắt gặp được.

 

Một hôm tôi nhớ về mùa đông... Trời chưa tối cả nhà tôi đã quây quần bên giường mẹ tôi... Ngoài thềm những tiếng mưa, có lẽ là trận mưa thứ nhất trong đời tôi, ngoài thềm những giọt mưa đều đều đập vào thềm gạch. Ngoài xa nữa những con ễnh ương, mà được người vùng tôi gọi là những con “ueeng ooang”, và chỗ tôi nói sai đi, để cho họ cười rộ... Mẹ tôi cũng cười theo và ôm tôi vào lòng. Cái trò chơi ấy vẫn kéo dài đến khuya... Những nồi lửa ở dưới giường tôi than vẫn đỏ rực. Tôi tưởng gia đình tôi chỉ biết vui như thế và không biết có gió rét, hay cũng không biết một cơn lạnh lẽo nào khác nào... Nhưng ngay đêm ấy, chừng như gà vừa gáy xong lần thứ nhất, mặc dầu đầy tớ dưới nhà chưa ai dậy, tôi nghe có tiếng khóc, tiếng vừa khóc vừa kể. Tôi không kịp nhận là tiếng ấy kể những gì. Cái tiếng khóc cũng đủ làm cho tôi lạnh người. Bỗng tôi vừa nhận ra tiếng khóc ấy là của... Tôi đưa tay sờ hai bên tôi thì quả nhiên mẹ tôi không nằm ở cạnh tôi nữa. Tôi bất giác thấy lạnh lùng, khóc oà lên... Mẹ tôi nín khóc cúi xuống ôm lấy tôi, và nói mẹ để con rét ơ ơ... Nhưng thật ra mẹ tôi có thể nào biết được rằng cái tiếng khóc thứ nhất của mẹ tôi, tiếng khóc thứ nhất trong đời tôi đó, đã làm cho lòng đứa bé thắt lại. Tôi đã lạnh vì tiếng khóc của bà mà từ đó sự bí mật của gia đình tôi cũng bắt đầu khám phá.

Hôm sau và những hôm sau nữa cứ quen chừng là vào khoảng gà gáy lần thứ nhất thì tôi thức giấc dậy. Lần nào tôi cũng nghe tiếng khóc lẫn tiếng kể mà những tiếng kể của người đàn bà.

Đại để thì tôi thấy nhớ chừng chừng như mẹ tôi kể lể với thầy tôi như thế này: "Thân tôi như giọt nước sa vào đâu thì nhờ đấy. Tôi đã bỏ làng, bỏ cửa, bỏ nhà, bỏ cha mẹ, anh tam (1) mà theo ông… Con gà, con lợn cũng mang theo. Thế mà ruộng nương cha mẹ tôi cho, nay ông đòi bán, mai ông đòi bán. Đã vậy mà mẹ con tôi nào có được yên thân. Nay người ta chầu chò, mai người ta thì thộ". Tôi không để ý nghe những lời thầy tôi đáp lại. Nhưng tôi nghĩ chẳng phải là lời vỗ về yên ủi. Cho nên ngày này qua ngày khác mẹ tôi vẫn lên cái điệu sầu thương không thay đổi ấy. Nhờ vậy, mỗi ngày tới, tôi càng thấy rõ những nỗi đau đớn của mẹ tôi, những nỗi đau đớn vì phải lìa cha mẹ, lìa chị em mà lấy chồng hàng xứ, tuy rằng lấy chồng quan mà thật ra vận vào mình một gánh ưu tưởng nặng nề. Mẹ tôi tuy được cái danh hiệu là kế thất, nhưng là người vợ thứ tư của thầy tôi.

Lấy thầy tôi, thì cũng lấy luôn cả cái “giang sơn” nhà chồng. Người vợ chính của thầy tôi, lấy thầy tôi, chết để lại một đàn con mà người thi sĩ kia là thầy tôi đã ghi lại trong một câu thơ linh động. 

Đứa đòi, đứa gọi, đứa mong,

Đứa đi, đứa đứng, đứa bồng, đứa mang.

Người con sau hết bấy giờ mới có 5 - 7 tháng nghĩa là bữa bữa còn đi xin sữa người. Tuy rằng thầy tôi bấy giờ cũng có hai người hầu thiếp nữa, nhưng một người thì là người tôn thất, một người nữa cũng xuất tự chỗ phong lưu, cả hai chưa bao giờ quen với cuộc sống nặng nhọc, lam lũ. Hai người ấy giá thầy tôi còn làm quan, thì là những người có thể giúp được thầy tôi một cách đắc lực, nhưng bây giờ thầy tôi đã treo ấn từ quan lui về với ruộng nương. Mà nào phải nhiều nhặn sung túc cho cam, ruộng nương về phần thầy tôi cũng chỉ đủ để nuôi sống một gia đình nhỏ. Huống hồ thầy tôi bây giờ có đến ba cái gia đình lớn. Mẹ đích tôi để lại một đàn con, mà mẹ hai mẹ ba của tôi, mỗi người cũng đều có năm ba đứa trên tay. Bà nội tôi nhân cái chết của mẹ đích tôi, muốn đưa một người mẹ thứ của tôi lên cái địa vị kế thất ấy. Nhưng thầy tôi hiểu hai người vợ thứ của mình hơn là bà nội tôi, vì nhiều lẽ không thể đảm đang hết việc nhà. Hai người ấy chưa phải là người của “tình thế". Mà thật vậy, thầy tôi nghĩ không sai, cái cảnh nhà tôi chẳng khác nào chiếc thuyền giữa cơn bãp táp, không người vững tay chèo lái thì không sao qua nổi. Ý thầy tôi cũng hiểu rằng: thầy tôi đã không làm quan nữa thì dẫu sao cũng không thể trông vào đất ruộng mà sống được. Người nội tướng mà thầy tôi sắp chọn đây phải là người con cái của đất đai, quen với công việc đồng áng, thức khuya dậy sớm được, mà cũng còn phải là người bặt thiệp đảm đang, trên thì thờ mẹ chồng, thờ chồng, làm cho những ngày ông bữa bà được tươm tất, còn thì biết săn sóc con dại, coi ngó tớ thầy, làm sao cho cái bầy con của thầy tôi lên vai lên vế, có cánh có lông. Chính trong lúc ôm lấy đàn con dại, giữa cái cảnh gà sống nuôi con ấy thì có người mách mối mẹ tôi cho thầy tôi, mẹ tôi nguyên là người ở một làng hẻo lánh, ở trong dãy núi Giang Mâu, trước đã qua một đời chồng, nhưng không ra gì lại trở về với cha. Ông ngoại tôi là con một ông Tú, vì thế cũng có theo đòi bút mực. Đã làm Chánh tổng được bộ hộ lại kiêm cả nghề phù thuỷ và nghề thuốc, nên khắp một xóm Cồn đều coi ông ngoại tôi như một vị giáo chủ, và già trẻ trong xóm đều gọi bằng "bọ", không bao giờ động đến tên. Nhưng dẫu sao làng ngoại tôi vẫn bị người làng nội tôi gọi một cách khinh bỉ là nơi "cây sim bóng đá". Ông tôi gả mẹ tôi cho thầy tôi là ở trong cũng có chút lòng lưu luyến kẻ khoa mục. Còn thầy tôi băng rừng băng rú lấy cho được mẹ tôi là vì tin rằng đã chọn được một người đàn bà chắc chắn đảm đang, người đàn bà của đất ruộng, và còn một cớ khác, mà điều này cũng là một điều rất chính đáng, ông tôi là một người giàu, thì cái hồi môn của mẹ tôi cũng không phải là không nên nghĩ tới, nhất là cái cảnh bần bách của nhà tôi lúc bấy buộc thầy tôi phải trông mong vào của cải ấy. Tội nghiệp cho mẹ tôi! thật có lẽ bà chẳng bao giờ ngờ là khi bước vào ngưỡng cửa nhà chồng, mang theo cả một sự nghiệp, thế mà lúc đứng dậy như thể phủi hai bàn tay không. Mẹ tôi cũng tưởng lấy chồng là lấy sự êm đềm no ấm, có ngờ đâu vướng phải một cảnh khốn khó chật vật ấy. Được cái hư danh là người kế thất, mà phải gánh lấy một cái trách nhiệm quá ư nặng nề. Người thiếu phụ hơn ba mươi tuổi ấy, thì dưới cái vành khăn nhiễu tam giang, dưới cái mầu áo cổ y, tưởng bước về nhà chồng, mà lại là chồng quan nữa, thì ít ra cũng nếm được một chút hạnh phúc êm đềm, một chút nhàn hạ phong lưu. Than ôi! Mỉa mai là số mệnh, cái ngày thứ nhất của người ấy ở nhà chồng đã thấy rằng mình chẳng khác chi một bà mẹ rồi, mẹ một đàn con thơ dại, đứa bồng, đứa bế, đứa xách, đứa mang. Không đẻ mà mang, ấy là cảnh mẹ tôi lúc bấy giờ. Một năm, hai năm tuy rằng khó nhọc, nhưng có bên nhà mình chu cấp một ít, lúa gạo đủ ăn quanh năm, lại khéo tảo tần nên sự tiêu dụng trong nhà cũng không mấy khi chật vật, và kẻ thầy người tớ, biết sai khiến đảm đang nên việc nội trợ cũng nhẹ nhàng, mà mỗi khi quan khách tới cơm nước đãi đằng cũng tươm tất. Mẹ tôi thạo nghề tầm tang, khéo việc chỉ kim nấu nướng, nên xóm giềng họ mạc đã có tiếng khen mẹ tôi, nhất là khi họ biết mẹ tôi có tài muối mắm, thì có người đã phải ngạc nhiên mà tấm tắc khen rằng: "Hỏi gái họ Lưu có được mấy người như rứa". Lấy mẹ tôi, thì thầy tôi cũng tưởng là chỉ lấy một người quê mùa chắc chắn mà thôi. Nhưng khi thấy mẹ tôi cũng nón thượng quai thao mặt mày hớn hở và khi khách quan tới, mẹ tôi cũng tỏ ra người miệng lưỡi đón đưa thiệp liệp, thì thầy tôi lại càng bằng lòng hơn, mà làng nước càng kính phục hơn. Nhưng than ôi! Bao tiếng khen lao cũng chỉ gạt gẫm con người quá đảm đang, quá lam lũ, suốt ngày mải miết hết việc nọ đến việc kia không mấy lúc dở tay. Có một điều này làm cho khắp họ hàng làng xóm nhắc tới như một câu chuyện vui: Nguyên lúc về nhà chồng, ngoài mấy mẫu ruộng, ông ngoại tôi có mua cho mẹ tôi một cái nhà. Cái nhà này, thì tuy trạm trổ không có gì, nhưng có điều cột nhà phần nhiều là gỗ gụ và ván giầm là gỗ mít. Cái nhà ấy, mẹ tôi săn sóc chẳng khác nào săn sóc một đứa con yêu, tôi còn thấy cái bóng người đàn bà ấy từ sớm đến trưa sắng sít giữa những hàng cột một con dao phay với một cái dẻ lau tay, bên cạnh có một người mang theo một chậu nước, mà người đàn bà ấy làm gì hẳn những người thiếu nữ tân thời ngày nay khó lòng đoán ra được. Bà nhúng dẻ vào chậu nước rồi lau từ cột này qua cột khác, từ trên đến dưới chỗ nào có dớp không lau được thì bà lấy dao ra cạo, đến nay đã gần 30 năm trời mỗi khi trở về làng cũ, bước vào cái nhà thấp đẹt ấy, nhìn lại những cột nhà với cái nước bóng nhoáng, và nhất là những chỗ có ngấn dao thì tôi vừa buồn cười vừa cảm động vô cùng mà tôi tưởng như mẹ tôi chưa có thể chết được, không thể tin là mẹ tôi đã vắng nhà, vắng cõi đời đến hàng 30 năm rồi.

Sự thực buộc tôi phải thú nhận rằng: lúc sinh thời mẹ tôi cũng chỉ là một người đàn bà như những người đàn bà khác mà thôi. Cái việc đảm đang đối với việc nhà chồng chỉ có hạn, mà cũng chỉ có hạn cái lòng săn sóc bao dung đối với những người con không phải tự mình sinh ra. Vì thế mà tôi khi có những sự xích mích giữa mẹ tôi và các bà thứ và các con thầy tôi, có thể nói với các anh khác mẹ của tôi, nhiều khi mẹ tôi đã phạm nhiều điều bất công, nhất là từ khi mẹ tôi đã có một đàn con để săn sóc và để yêu đương thì âu đó cũng là cái lòng yêu thương ích kỷ rất thông thường của con người ta. Và chính những điều này đã làm cho mẹ tôi đau đớn thắc mắc, những lúc tàn canh gà gáy làm cho mẹ tôi thường thốt ra cái giọng đau thương như tôi đã được nghe thấy, chắc cái ích kỷ hay cái bất công của mẹ tôi thì thà trách như người thời nay thường trách cái chế độ đáng ghét kia, đã cho phép thầy tôi lấy nhiều vợ, mà làm cho người đàn bà đáng kính ấy phải điêu đứng trăm chiều. Nhưng tôi lẽ nào tôi được quyền lên án cái chế độ đa thê kia, vì chẳng phải nhờ cái chế độ ấy tôi mới có thể thấy được bóng mặt trời mang cái tên đứng ở trên trời đất. Không những tôi phải cảm ơn nó mà tôi còn có những lý do rất chính đáng để bênh vực cho nó nữa.

Nếu ở xã hội này không có chế độ đa thê thì gia đình chúng tôi không có được cái cảnh đoàn viên tốt đẹp như cái cảnh gia đình của chúng tôi. Chúng tôi là người thiệt thòi trước hết, bởi không có chế độ đa thê thì không có các anh tôi mà chắc chắn không có tôi nữa. Ở trong óc tôi không có lý nào mạnh bằng cái lý ấy, chốc nữa ở cuối sách, người đọc sẽ thấy cái kết quả rực rỡ của chủ nghĩa đa thê và cái kết quả ấy sẽ bênh vực một cách hùng biện cho chủ nghĩa ấy. Huống hồ là ngoài lý do ấy, tôi thấy có một lý do vững chắc... mà xưa nay những kẻ bênh vực cho chủ nghĩa đa thê như ông Nguyễn Văn Vĩnh và ông Phan Khôi không nói cho cặn kẽ, ấy là cái lẽ thuộc về sinh lý.

Mà cái lẽ này là một sự hiển nhiên, ai để ý tới cũng thấy được.

Trước kia ai cũng nghĩ mà không nói ra là ở trong cái xã hội Việt Nam số đàn bà quả có lấn hơn số đàn ông. Nếu luân lý phát luật không tìm cách giải quyết việc ấy bằng cách này hay cách khác thì sự quân bình ở trong xã hội sẽ mất và mối loạn cũng sẽ do đó mà ra. Ngày xưa cha ông trong mấy chục thế kỷ giải quyết vấn đề ấy bằng sự công nhận cho người đàn ông nhiều vợ, từ thiên tử đến thứ dân. Vì thế cái số đàn bà làm nghề "vợ thiên hạ" không có là bao. Đến nay cái việc đàn bà nhiều hơn đàn ông là một sự thực không thể tránh được. Những người đàn bà thất nghiệp... chồng đó không lẽ lại trọn đời ôm bụng thủ tiết với một chủ nghĩa bất đắc dĩ là chủ nghĩa độc thân. Khinh nghề làm lẽ thì bây giờ người ta lại tự xô vào nghề làm... "vợ cả thiên hạ". Vì thế xóm Khâm Thiên sầm uất hơn phố Hàng Giấy ngày xưa, mà ngõ Hàng Mành, Yên Thái là những xóm "tân tạo". Sự so le về số đàn ông, đàn bà ở trong xã hội ta là một sự hiển nhiên... Ngày xưa giải quyết tai nạn ấy bằng nghề làm lẽ, ngày nay bằng cái nghề giang hồ, chán ghét cái nghề làm lẽ thì thà rằng chán ghét cái nghề lầu xanh, nhà đỏ. Huống hồ cái sự làm lẽ thật không có gì đáng khinh cả. Khi từ sự phối hợp ấy sinh nở ra những đứa con, những đứa con mang giọt máu mình lại có trách nhiệm thiêng liêng truyền xuống cho hậu thế, giữ cho cái nén nhang ở trên bàn thờ tổ tiên không tàn lạnh... thì điều ấy sao chẳng cho là việc chính đáng mà nỡ nào đưa so sánh với cái cảnh giang hồ dơ bẩn ấy làm đau xót cho biết bao kẻ lo đời!

Nhưng cái chế độ đa thê ấy trước khi gây nên cái kết quả tốt đẹp như tôi đã nhận thấy trong gia đình tôi, thì nó cũng đã đưa lại biết bao đắng cay cho người cho những người trong cuộc. Người đàn bà đáng yêu, đáng kính là mẹ tôi đó. Than ôi! Là người thứ nhất phải chịu những sự đắng cay ấy. Thứ đến là những anh khác mẹ của tôi, mà bây giờ tôi cũng yêu như những anh em ruột một mẹ một cha, những anh ấy cũng phải chịu lắm phen điêu đứng. Mà thầy tôi là tác giả của cái cảnh lắt léo ấy, cũng mang ở trong mình những khổ tâm khôn tả được. Nhưng cái này cũng chẳng thấm gì với cái kia, những nỗi khổ cực lúc đầu ấy thật không đáng gì bên cái cảnh đoàn viên, những cảnh sung sướng mà chúng tôi đã được hưởng sau này... Tôi phải khen phục cái can đảm cái cương quyết của thày tôi là người đã thấy tất cả cái cảnh điêu đứng nguy vong mà cứ thản nhiên bước vào, như bước vào nơi bình địa vậy.

Ông đã sinh chúng tôi ra những nỗi cực nhọc đau khổ không tên. Nhưng cái cảnh nhà của chúng tôi cũng như hạt lúa đã phải bao lần ươm ở chỗ bùn lầy nước đọng, mà sau mới nở được dưới ánh nắng mặt trời... Thầy tôi quả có cái kinh nghiệm lớn lao của nông gia, thật xứng với dòng dõi của mình... cái ẩn nhẫn trong kiếp đắng cay... mà chính ông đã rút được từ trong cái mạch sống của một dòng họ đã quen sống với những sự thực tế gay go nhọc nhằn... Nói đến thầy tôi, là nói đến cái giống tốt đã truyền lại đến bây giờ.

 

Tôi biết mẹ tôi biết mẹ tôi phải chịu trăm điều cay đắng. Nhưng thầy tôi cũng chẳng chịu kém mẹ tôi về sự đắng cay, điều làm cho mẹ tôi khổ sở, thì chính cũng là cái điều đã làm cho thầy tôi phải não nuột.

Như chương trên tôi đã thuật cái điệu đau thương mà mẹ tôi thường "dạo" vào lúc canh tàn gà gáy sáng thì tôi cũng chẳng thể bấm bụng mà  chịu được mãi cái giọng rên xiết của mẹ tôi.

Ấy cũng chỉ tại cái điều đau xót của mẹ tôi vẫn lấy cái sự con cái năm bảy phòng của thầy tôi làm một điều đau xót của mình. Bận nào mẹ tôi khóc than thì cũng vì những sự xích mích giữa các mẹ tôi hay giữa các con khác mẹ của thầy tôi. Tôi biết nhiều khi chỉ là sự xích mích chẳng có một chút quan hệ nào, nhưng nó cũng nhắc lại cho mẹ tôi cái danh phận, cái số kiếp của mình. Mà như thế, mẹ tôi đã đặt thầy tôi vào một cảnh ngộ khó xử, vì thầy tôi không bao giờ muốn nhận cái lỗi của một người chồng lắm vợ, nói như bây giờ, cái tội một tín đồ của chủ nghĩa đa thê. Nhất là khi thầy tôi thường khen rằng: nhiều con là cái phúc lớn... mà thuở bấy giờ chỉ kể con sống thầy tôi đã có được vài chục đứa, không kể về con gái, tôi là đứa con trai đến sau cùng và mang con số 11. Làm cha... mười một đứa con trai, và cũng ngần số ấy về con gái (mà đó là chỉ kể những người còn sống) đó chả phải là một trách nhiệm nặng nề, một nghệ thuật khéo léo, phi thầy tôi thì trong bọn anh em chúng tôi không ai đương nổi. Cả một đàn ấy, cùng một lúc đứng dậy. Đứa thì gọi, đứa thì đòi, đứa thì nheo nhóc, đứa thì kêu réo chẳng phải là một cảnh tượng có thể làm cho những người yếu bóng vía phải giật mình kinh hãi. Huống hồ đây là những đứa con khác phòng, chúng còn tìm cách cằn cựa nhau giành giựt nhau... Lại còn những bà mẹ nữa, trừ bà mẹ đích đã quy tiên, cũng lại chỉ là những người đàn bà như trăm nghìn người đàn bà khác. Nếu có yêu con mình, bênh con mình hơn con chồng, thì cũng là việc rất dĩ nhiên, mà chính cái việc dĩ nhiên ấy đã làm cho gia đình của thầy tôi thành một nơi lục đục lớn lao: vì danh phận, bà này đi với bà kia, vì quyền lợi con phòng này đi với con phòng nọ, lại bà nội tôi thì có ý nâng đỡ người này mà ghét bỏ người kia. Và còn ông chú và các mụ o, nhất là các mụ o.

Thầy tôi, trước cái sự hỗn độn ấy, muốn đặt mình lên trên cái sự riêng tây, cái sự thiên vị... Thầy tôi muốn xử theo lý mà gác hẳn tình, vì nếu xử theo tình thì cái lòng thương yêu của thầy tôi quả có thiên vị. Chẳng hạn như thầy tôi yêu con phòng này hơn yêu con phòng khác, mà ngay trong các con một phòng, thầy tôi cũng yêu đứa này hơn đứa khác. Vì thầy tôi là một nhà nho, thầy tôi cũng nhận rằng cái tính cách của vật là bất tề, thì cái đẳng cấp trong lòng yêu thương hẳn là lẽ tất nhiên vậy. Nhưng cũng vì thầy tôi là nhà nho mà thầy tôi phải sửa lại cái trật tự trong lòng cho phù hợp với các trật tự lập ra bởi một nền luân lý. Vẫn biết thầy tôi trong lúc xử sự có khi đã chạm tới lòng hiếu với mẹ, hay cái đạo nghĩa với chồng, nhưng thầy tôi cắn răng bấm bụng mà chịu, chứ không thể làm trái với cái mà ông gọi là cái lý đương nhiên ở trong trời đất. Trước hết, ông hãy chỉnh lại cái tên, định lại cách xưng hô, việc ấy đã xong thì mọi việc cũng yên vậy. Nếu cái tên chưa chính, thì cái lời nói chưa thuận được, các ngôi thứ chưa yên, thì đạo lớn cũng chưa thể sáng tỏ được. Đó là lý thuyết của nhà nho, mà trong lúc thi hành thầy tôi đã gặp những trở ngại lớn lao.

Xưa nay trong thiên hạ phàm con nhiều phòng mà con bà đích thì toàn là con lớn mà con bà thứ thì toàn là con bé, nghĩa là con phòng thứ dầu có lớn tuổi hơn cũng phải gọi con phòng đích bằng anh. Đó là sự thông thường trong thiên hạ, lập nên bởi anh hủ nho nào đó, chứ thánh nhân không bao giờ dạy điều ấy cả. Vậy thầy tôi nghĩ vậy cho nên cần chỉnh đốn cái trật tự ấy lại cho hợp với thiên lý. Vì theo ông thì con là con cha cả, chứ không phải là con mẹ, cái lẽ giản dị là con mang họ nhà cha, đối với bên ngoại không có cái bổn phận thiêng liêng nào, thế mà đối với bên nội, phải lưu truyền giọt máu xuống vạn đại. Ông thường nói: "Con trai mới là con ta, con gái là con thiên hạ ta không phải lo lắm". Cái lối nghị luận của ông là như thế, nên ông chẳng lấy phòng mà phân biệt ngôi thứ con ông... Theo vậy thì trong cái sắp con của ông độ, đứa nào lớn tuổi thì là anh mà đứa nào nhỏ thì là em. Thật ông đã xử một cách rất hợp lý, nhưng cái lý của ông đã phụ cái tình.

Vì cứ theo cái lý này thì những đứa con ở dòng mẹ tôi là người đều thua hết, cố nhiên là nhỏ tuổi hơn hết, tất nhiên phải gọi tất cả những người khác bằng anh. Một sự tương phản và đây cũng là một sự trở ngại nữa, mẹ tôi trong danh phận là một kế thất, là người được thay bà đích, nghĩa là cũng có những quyền lợi như bà đích vậy. Trong các "chúc văn" trước người chết tên mẹ tôi vẫn đứng trước hai bà thứ, thế mà từ nay con bà phải chịu phận làm con út, như thế mà tôi cho là một sự bất công. Cái bất công đã phụ mẹ tôi mà lại phụ cả thầy tôi nữa. Vì chính thầy tôi xét về tình, thì là người yêu chiều mẹ tôi hơn, và cũng chính thầy tôi mà rằng: mẹ tôi là người đã giúp thầy tôi một cách đắc lực, đưa chiếc chuyền nan qua con sóng gió. Mẹ tôi đã đưa lại cho gia đình tôi một chút an vui về đường vật chất, thầy tôi không đến nỗi túng thiếu khổ sở như trước. Đã khéo đảm đang xoay xỏa, lại đưa về được một ít ruộng nương, tiền của, và trong tay có nghề tằm dâu, nên mẹ tôi đã đưa lại một chút an nhàn cho thầy tôi. Thầy tôi vì thế cũng có bụng chiều mến. Khổ tâm cho cái ông nhà nho kia, biết rằng phụ lòng mẹ tôi, ông cũng không thể xử sự theo cái lối thông thường kia được, nghĩa là "trái với thiên lý". Ông phải nghĩ đến tương lai của dòng họ, thà rằng làm phật lòng một người đàn bà, mà ông ta cứu được cái sự thuận hoà vĩnh cửu của gia đình chúng tôi. Tôi là người thương mến mẹ tôi vô cùng, nhưng tôi phải mạnh bạo mà kêu rằng thầy tôi đã xử sự một cách xứng đáng với tình thế, trong gia đình ông đã tỏ ra là một tay chính trị già dặn. Vì trị nhà tôi nghĩ cũng như trị nước, phải có một phương sách vững vàng chắc chắn. Nếu thầy tôi không có lòng tin vững chắc ở sự lý của mình thì gia đình của chúng tôi đã sụp đổ và mối nguy vong không thể tránh được.

Nhưng mà người ấy đã làm cho mẹ tôi đau đớn vô cùng chỉ vì một điều tưởng rằng chẳng quan hệ ấy. Ai ngờ mẹ tôi đã đặt vào đấy một sự quan hệ sống chết mất còn. Tất cả cái khổ tâm cái đau đớn của người đàn bà cần cù ấy chẳng phải là do đó mà ra ư? Chính những sự xích mích ấy đã làm cho mẹ tôi kiếm chuyện rầy rà với thầy tôi như cái cây một ngày một thêm khô héo. Tôi thấy có lần, trước những lời kể lể than khóc của mẹ tôi, thầy tôi chẳng biết tính toán sao được nên một hôm thầy tôi đương ngồi hút thuốc lào, kéo xong một hơi thì ông đập đầu vào tường, mẹ tôi vội vàng chạy lại, đỡ thầy tôi dậy. Bấy giờ tôi nhớ cũng vào khoảng gà vừa gáy, lại trên nhà chưa ai dậy, mà tớ thầy nhà dưới và cả người láng giềng cũng không ai hay biết gì hết. Thầy tôi không nói một tiếng nào nữa mà mẹ tôi từ đấy cũng không dám động tới những việc như thế nữa. Những nỗi bi thương thầm lặng qua, một tấn kịch bi đát thầm lặng diễn ngay ở giữa gia đình tôi trong những giờ hiu quạnh vắng vẻ, ngoài hai người ấy chỉ có một đứa bé lên năm là chứng giám nỗi đau thương không lời ấy mà thôi. Mà tôi thầm lặng nhìn cái đau thương của hai thân tôi. Lời tôi nói đây không phải là lời nói ngoa, cái nhân loại lớn lao kia có thể đau xót thế nào thì đứa bé kia cũng đau xót nhường ấy. Tôi đã nói cái thế giới tình cảm đã sớm mở ra trước mắt thằng bé.

Cũng nhờ thế mà nó khôn sớm hơn nhiều đứa bé cùng tuổi. Những điều tôi đã thị chứng lại làm cho tôi thêm già dặn. Nhưng có vì thế tôi đã thôi là một đứa bé, giữa cái tuổi lên sáu?

Năm lên sáu, tôi đã cắp sách tới trường. Nhưng trước hết là một trường học... chữ Hán, nghĩa là nhà ở của một ông đồ. Ông đồ này là môn sinh của thầy tôi, đậu tú tài. Nhưng không xin bổ được một chức gì, ở nhà mở trường dạy học. Thực ra học trò của ông, lớp lớn, lớp nhỏ, không quá ba mươi người.

Trường học này thật là cái hình ảnh của một cảnh oai nghi đã về chiều. Cái cảnh oai tàn ấy thật là thương tâm. Học trò thì thưa thớt, người nào cũng có vẻ mệt nhọc uể oải. Học người ta cũng không có cái cảnh đua tranh tấp nập ngày trước đã đành, mà đến chơi đùa, người ta cũng lười nhác, đến cái tinh nghịch người ta cũng không dám tinh nghịch. Thật là một đám ma ban ngày! Họ lạc loài, họ ngơ ngác, thật tội nghiệp. Tôi còn nhớ rõ, cái người học trò thông minh nhất trường tay ôm cột nhà, một chân đưa đi đưa lại đọc ôn bài cũ, đọc một cách thông suốt như nước chảy. Nhưng đến khi thầy hỏi nghĩa thì người học trò thông minh ấy chỉ nhìn lên xà nhà một cách rất lâu, tưởng như không muốn thu cặp mắt trở về nữa. Té ra người ta cần thuộc, chứ không cần hiểu nghĩa. Vì bấy giờ trong cái lúc tàn cục này, người ta cũng không thiết gì nghĩa nữa. Cả ông thầy học cũng như ngơ ngác, không hiểu sao mình lại hỏi nghĩa người học trò ấy làm gì? Thật là thảm hại! Thấy cái vẻ mặt quá hiền lành của ông thầy mà tôi sinh chán. Không phải là ông thầy đồ kia không có cái bút son để hằng ngày khuyên những vòng khuyên "xích chó". Không phải là ông thầy ấy không có cái roi mây và lâu lâu cũng dùng tới, cũng không phải thiếu cái tráp sách, cái gối dựa, cái cặp mục kỉnh, hay là thiếu một cái nghi vệ nào của một ông đồ. Nhưng mà cái roi cũng như ông thầy không còn chút uy lực nào nữa đối với những người học trò.

Chữ nho đã lên một cái địa vị cao sang ở trong cái xã hội. Trong lòng người học trò nó hay dậy nó không còn sự tin tưởng nữa. Xưa kia đình còn mở khoa thi, người ta ăn nhờ vì nó cho nên cả nước đều hi vọng nó.

Cái cảnh học rộn rịp ngày xưa làm cho người ta háo hức bao nhiêu thì ngày nay cái cảnh tro tàn của nó làm cho người ta ngao ngán bấy nhiêu. Đáng thương hơn hết là cảnh lạc loài, cảnh gượng gạo của những con em cuối cùng của nho học.

Những cha anh cho con em tới trường ông đồ kia để học, tôi nghĩ mục đích chỉ cốt cho con em sau này coi được cái gia phả, hay cái khế ruộng, cái tờ vay, hay cao hơn một bậc nữa, làm lý trưởng, làm hương dịch, làm xã làm nhiêu. Còn tôi, thầy tôi gửi đến cái trường học trái mùa ấy để làm gì? Có phải là chôn cái thân thế tôi trong một kiếp sống thừa, đày tôi vào một con đường chẳng có nẻo ra? Không, tôi không tin rằng thày tôi có cái ý tàn nhẫn ấy, đối với một đứa trẻ có chút khiếu thông minh như tôi.

Gửi tôi tới trường học ông đồ kia, hoặc giả thầy tôi chỉ muốn trước khi chia tay qua một cuộc đời văn minh là kết quả của Tây học, có người vớt vát lấy một chút tồi tàn của nền đạo học cao quý kia.

Điều này tôi không dám quả quyết, nhưng tôi có thể chắc chắn rằng: thầy tôi muốn cho tôi sau này có thể biết được, đọc được, hiểu được những cái gì đã gửi lại, truyền lại ở trong cái tủ sách đầy ứ kia, hay ở trong những bài văn, bài ký do thầy tôi soạn ra. Tội nghiệp! Không biết cái ý của ông nhà nho ấy có đạt được không khi những chồng sách chữ nho kia, cả những bài văn của thầy tôi các anh tôi và cả tôi nữa cứ mỗi ngày vào xé trộm một tờ mà bất kỳ cuốn sách nào của thánh hiền xé để hút thuốc giấy (1) và để dán diều. Ôi! Với tàn thuốc thì chữ thánh ra tro, với những cánh diều thì những chữ thánh tiêu dao trên mây, không biết đó có phải là những cái vinh quang đối với thánh hiền không. Tôi chỉ biết rằng mỗi lần xé đi như thế chúng tôi bị thầy tôi nọc ra đánh. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu cái thâm ý của thầy tôi khi thầy tôi cho tôi tới học cái trường trái mùa kia để mà không sợ ông thầy, để mà chẳng buồn chơi, để mà sống những giờ buồn tẻ nhất đời tôi. Có lẽ đó là những giờ buồn tẻ nhất của đời học cũ, mà các ông nhà nho sau này nhiều khi nghĩ lại, tôi cho rằng: Sở dĩ thầy tôi cho tôi học chữ Hán là muốn vớt vát bòn đãi một chút vàng ngọc châu báu của Hán học đó thôi. Mà cũng là cái lòng thầy tôi muốn giúp cho ông tú kia cũng có một công việc ở đời này và kéo lại cho Hán học một chút vinh dự cỏn con, nó không có địa vị ở chốn triều đình, trong dân xã thì ít ra nó cũng có một chút tưởng vọng ở trong lòng người. Nếu ông nhà nho ấy mà phụ bạc trước hết đối với chữ nho thì còn có thể trách ai phụ bạc nữa.

Nhưng chính thầy tôi cũng từng là một ông thầy học nữa, tuy không phải là một ông thầy học trong lúc tàn cục này.

Khi thầy tôi treo ấn từ quan, thì thầy tôi mở trường dạy học. Tôi không được biết cái trường học của thầy tôi, nhưng chắc không giống cái trường học của ông đồ kia. Ấy là tôi muốn nói về đường tinh thần... Trường học thầy tôi mở vào khoảng chữ nho còn đắc dụng, khắp thiên hạ đều ở trong cái không khí "tử viết". Lại ba năm triều đình còn mở một khoa thi, tuy bấy giờ trong các món đã có xen lẫn chữ Quốc ngữ, mà chữ Nho vẫn giữ một địa vị độc tôn. Thầy tôi bỏ nghề làm quan về nghề dạy học, nhưng trong dư luận của các nhà nho, của dân gian, thầy tôi không giảm chút nào, trái lại thiên hạ nhất là các nhà nho vẫn cho thầy tôi là người có thuỷ chung với người vợ tao khang kia là chữ Hán.

Thầy tôi mở trường dạy học, tuy đường vật chất chẳng có thể vãn cứu được cái tình thế nguy khốn của nhà tôi, nhưng về tinh thần thầy tôi đã đưa lại một cảnh tấp nập vui vẻ ở trong hàng huyện mà tiếng tăm của trường học thầy tôi đã vượt qua sông Linh Giang, những anh khoá ở bên phủ vẫn tìm đến học, hay nghe giảng sách.

Không những học sinh mà thôi, những tay khoa mục ở hai phủ huyện, đều có đi lại với thầy tôi. Tôi nghe các môn sinh thầy tôi thuật lại rằng: lúc bấy giờ có một ông Phó bảng hay Tiến sĩ gì đó người Nghệ Tĩnh vào ngụ cư ở trong Phủ, vốn là một tay hay chữ. Ông với thầy tôi là bạn đồng liêu và cũng như thầy tôi, ông xuất chính được vài năm rồi thì ông cũng như thầy tôi, mượn cớ cư tang, rồi ở mãi với đồng ruộng không chịu ra nữa. Cư tang cũng chỉ là một cớ mượn mà thôi chứ thầy tôi cũng như nhiều nhà nho khác, lúc bấy giờ sở dĩ cáo quan mà về vườn là chỉ vì họ thấy rằng mình không phải là người của thời đại mới:

Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,

Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.

Họ nói với nhau cái tiếng nói của "đàn, hạc" tiếng nói của văn thơ... Trong nghề làm quan một chính sách hay có lẽ không bằng một câu thơ hay. Mà ông quan trước hết là một thi sĩ cho nên "ngày tháng thanh nhàn tiêu dao đàn hạc" là cái cảnh của một ông quan; ngài, một ông quan huyện, một ông quan phủ "hoạn hải ba đào", đó chỉ là câu nói của những vị tham quan ô lại, chứ cái ông quan "vô sự" chỉ biết một niềm phụng sự "nghệ thuật thơ đàn" thì hẳn chỉ gặp cái cảnh "ngày tháng thanh nhàn, tiêu dao đàn hạc" mà thôi. Nhưng tiếc rằng nhà thi sĩ đã bị lạc vào một thực tế mới. Làm quan bây giờ theo cái nghĩa mới, làm quan là phải phục dịch cho dân chúng, xen lẫn giữa dân chúng, phải biết, phải hiểu những quyền lợi của dân, phải săn sóc đến cuộc sinh hoạt của dân, nhất là cuộc sinh hoạt về đường vật chất, phải mở trường, mở đường, mở chợ cho thật nhiều... làm một nghìn câu thơ không bằng làm một cái chợ cho dân.

Những ông quan thi sĩ vì thế có nhiều ông đã phải trả ấn mà về hưu. Ông thì vì không biết đốc xuất việc đắp một con đường. Ông thì vì không hiểu cái mối quan hệ của việc nông lâm. Ông thì vì đã hiểu lầm một món quan thế... Ta phải nhận rằng những ông quan thi sĩ phần nhiều đã giữ được nhân cách, tròn được tiết tháo... đã làm vẻ vang cho đạo Nho, cho chữ Hán... nhưng thật trở ngại lớn cho phép "chăn dân" mới...

Nhưng ông nhà nho ấy "lui" về là chẳng chịu để cho tâm trí mình khuất phục trước cái hỗn tạp của cuộc đời mới. Những ông nhà nho đã lui kia... thật còn là cái chứng cớ linh động rằng cái tinh thần đạo Nho chưa đến nỗi suy... Huống hồ là họ lui mà vẫn không cam tâm nói với cỏ cây ở nơi thảo dã... Ít ra cái chí muốn làm ông thầy của hậu thế đó cũng đáng cho ta ái mộ họ, và lưu giữ họ lại trên lịch sử, đặng cho họ đóng một vai tuồng cuối cùng, hay một lần cuối cùng cầm giữ lại cái nền danh giáo của xã hội ta.

 

Ở trên hoan lộ, thầy tôi phải chịu tiếng bất tài vì không đốc xuất nổi một việc cộng tác. Nhưng nếu chỗ kia ông đã thất bại thì ở chỗ này ông đã thắng một cách vẻ vang, vì đây là sở trường của ông.

Những người học trò của ông, tuy chẳng hiển đạt gì, nhưng cũng là những người một thời đã góp nên một cảnh rộn rịp vui tươi hoạt động giữa vùng tôi.

Cái cảnh trường của thầy tôi đâu phải là cái cảnh trường đương hấp hối của ông thầy học tôi.

Trường học của thầy tôi có hàng trăm người, mà toàn là những học trò lớn không có bọn lau nhau li ti như bọn chúng tôi lúc bấy giờ... Luôn luôn có những ngày bình văn giảng sách, không những một mình thầy tôi bình giảng mà thôi, thầy tôi còn mời những người danh tiếng ở trong vùng tới giảng cho học trò nghe nữa. Trong chỗ quen thuộc thường hay đi lại có một ông bạn đồng liêu của thầy tôi, đã nói ở đoạn trên. Ông này chỉ lựa vào tuần trăng mới tới chơi. Thầy tôi bèn đáp lễ tổ chức những cuộc chơi trên sông Linh Giang, một cuộc chơi mà các học sinh cũng đều được dự. Vì chính là cuộc bình văn trên sông Thành là một cảnh tượng vô cùng ý nghĩa và ý vị, vì ta thấy ở đấy có một trường học dong chơi cái đạo thánh hiền ở trên sông. Cho chở được hết một trường học thả cái đạo thánh hiền, theo mái chèo buông xuôi trên dòng nước, băng vời giữa lòng trời đất thật là một cảnh tượng hiên ngang mà vĩ đại vô cùng, tưởng thời đại chật hẹp, khốn khó này không sao tìm thấy được.

Trả ấn từ quan để lui về, đem môn sinh cả một trường học, lại kèm với đạo thánh đi thưởng trăng ở trên sông, sao đó gọi là bỏ việc thiết thực mà theo việc viển vông. Đó mới gọi được là kẻ có kiến thức rộng, biết phí cái việc gần mà nghĩ đến cái việc xa, gác cái sự tạm bợ, mà theo việc cửu trường. Vì tác thành một lớp thanh niên, một đàn hậu bối cho hiểu được đạo thánh hiền, lại khéo điều hòa đạo người với con đường lớn trong trời đất, đó chẳng phải là một việc trường cửu ở trong thiên hạ ư? Một hôm một người học trò cũ của thầy tôi có đọc lại cho tôi nghe một bài thơ của thầy tôi soạn ra, vào một đêm trung thu đi thưởng trăng như thế, cả bài tôi chỉ nhớ có hai câu:

Song song sứ đệ binh thu sắc,

Thượng hạ giang lưu, trên hậu thuyền.

Đọc lại hai câu thơ ấy tôi thấy cái thời đại mà thầy tôi đã ghi lại trong hai câu thơ nhẹ nhàng thanh thú ấy, cái thời đại ấy thật đã xa cái thời đại của chúng ta ngày nay nhiều quá... Ta đã mất đi một quãng trời đất mênh mông, mà ta cũng mất luôn một tâm hồn quảng đại?... khoáng đạt?...

Tôi cũng đã từng có hai câu thơ:

Tìm đâu cho thấy con sóng dài?

Vì biển hồn ta đã khô cạn?

Mà thật có thế, núi chúng ta bây giờ hết cao, không phải tại có máy bay, mà sông ta hết dài vì ta có ham lớn; chính vì tâm hồn ta bớt rộng, ta thiếu những tâm hồn khoáng đạt ngang nhiên nên trời đất của ta cũng thu hẹp lại.

Mất thầy tôi, tôi mất đi cả một cuộc đời thảnh thơi, một khoảng trời đất bao dung....

Một sự tôi lấy làm ngạc nhiên là cái cảnh gia đình chật vật, khốn khó của chúng tôi, nó quả không có một ảnh hưởng sâu nặng ở trong đời thầy tôi... Chính ở trong cái thời đại trước, ta mới còn nhặt được một ít việc làm vô tư, một ít cuộc đời, một ít tâm hồn vô tư... Cái việc thầy tôi tự tạo cho mình một thế giới sách vở, kinh truyện thánh hiền, giữa sự sục bừa của cuộc sống chẳng phải đã chứng rằng người đời xưa quả có "hai vạn dặm" để vượt qua cuộc sống?

Thầy tôi sau này gửi tôi tới một trường học đương hấp hối trong cơn hấp hối của một thời đại, chả phải cũng là có cái ý ngược dòng tiến hóa. Cũng như xưa kia đã theo bóng trăng mà buông xuôi con thuyền đạo lý? Thầy tôi, hoặc quả cũng muốn cho đứa con ngạo ngược kia cũng bơi ngược lại cái dòng tiến hóa! Nhưng có cái gì bảo rằng tôi là một đứa bé ngỗ ngược... Tôi vẫn thùy mị và hay khóc, hay buồn như một cô con gái. Tôi rất chán ghét cái vẻ mặt quá hiền lành của ông thầy học, cũng như chẳng ưa gì cái trường học chữ Nho kia. Nhưng đó không phải là điểm ngạo ngược. Lỗi ấy không phải tự tôi, mà tại cái cảnh tro tàn nguội lạnh của Hán học... không đủ gợi dậy một luồng sinh khí cỏn con, trong lúc ấy thì những trường học mới xuất hiện ở các phủ huyện với những mái gạch vui tươi tưởng có thể hấp dẫn được cái sắp trẻ con ưa mới... ưa cái đầu tóc mới, ưa cái áo mới. Không phải (mới) theo nghĩa duy tân của các ông đồ duy tân, mà mới chỉ vì "không cũ"... Bấy giờ tôi nghe các ông khóa sang và các ông tuyển sanh ở huyện, ở tỉnh, về tả cho tôi nghe những cái trường học mới đó... Tôi tưởng như trường huyện sẽ là cái đích đẹp nhất đời tôi. Còn trường tỉnh thì tôi coi như là một trường cao, cao đẳng, cao quá tôi không thể nào với tới được.

Thế rồi một hôm thầy tôi và cả mẹ tôi nữa cho tôi hay tin rằng: Tôi sẽ đi học chữ Tây. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi đi học chữ Tây, cũng như tôi vẫn không hiểu tại sao tôi đi học chữ Nho, rồi lại vụt thôi không học chữ Nho nữa. Đó là cái bí mật của thầy tôi. Có lẽ chẳng bao giờ tôi còn khám phá ra được nữa. Bấy giờ tôi cho là một cái may mắn mà được thôi học chữ Nho và một cái phúc là rời khỏi cái không khí uể oải của nhà ông đồ sau một tháng như chập chờn trong một giấc mộng lạ lùng. Tôi không nhớ rõ trong gần một tháng ấy, tôi đã học những sách gì, học được những chữ nào, quen được những người bạn nào. Tôi chỉ nhớ rõ là thời học của tôi đó thuộc vào mùa hè, tháng năm tháng sáu… Tôi lại chỉ nhớ sau nhà ông đồ có một bụi tre có cây to đã lên nước ngà và tiếng kêu kẽo kẹt như tiếng kêu vạn cổ của những bụi tre ở nước Việt Nam, dưới sự xô đẩy của cơn gió nam. Điều này cũng có một chút quan trọng là chính ở nhà ông đồ ấy mà tôi làm quen lần thứ nhất với cơn gió nam và cái nắng gay gắt ở vùng tôi. Rồi đời tôi mỗi lần trở qua cái nhà ông đồ, nghe cái tiếng tre kẽo kẹt, kẽo kẹt, tôi lại tưởng như cái tiếng hờn giận của một thời đại. Nhưng bấy giờ thoát được cái trường học ông đồ, tôi cho là một điềm may mắn thứ nhất của đời tôi… Mà sau này, bây giờ đây, khi tôi đã là một văn sĩ "quốc ngữ", cái may mắn lúc đầu ấy, đã trở thành một điều bất hạnh lớn nhất của đời tôi. Cái phút chia tay với chữ Hán lúc bấy giờ có ngờ đâu là cái chia tay mãi mãi, tôi nay vẫn không biết gì hơn cái cậu bé lên 6 kia, mặc dầu đã hai ba phen tôi rước thầy về để học.

Cũng may, tuy không học chữ Hán tôi vẫn có chút ít chữ Hán ở trong máu mạch.

 

Năm ấy thì thầy tôi rút tôi về, cho đi học chữ tây. Nói chữ Tây, chứ thực ra là Quốc ngữ. Mà thầy học là một ông tổng sư. Ông tổng sư này nguyên là chú ruột tôi, em rốt của thầy tôi. Trường học là một cái nhà nhỏ, tuy có bề cao ráo hơn, nhưng không chắc chắn bằng. Tôi còn nhớ rõ cái trường học đầu tiên của đời tôi… Nó giống như một cô gái mảnh khảnh con một ông quan nghèo. Trên cột có dán những giấy hồng điều, trên có những câu đối chữ, tôi không tin rằng chú tôi đặt ra những câu đối ấy, có lẽ chỉ là những câu đối xưa nay người ta thường dán ở trường học chữ Nho, nay chú tôi cũng lấy lại cho có lẽ. Chữ Nho, tuy rằng bị đuổi khỏi nhà trường, vẫn đóng một vai tuồng nho nhỏ trong cái vận hội mới: những câu đối hồng điều ấy, đối với bọn học trò mới này, chỉ là cái mầu sắc tươi vui trong tâm trí.

Nhưng khi tôi đến thì những câu đối hồng điều chỉ còn là những mảnh giấy cỏn còn con dính đôi chút vào cột. Mà những cột cũng đã lung lay, những cái vách đất cũng đã lở mất cái lớp vôi trắng và nhiều chỗ đã xiên thủng. Lại bàn ghế nữa cũng đã chệnh choạng đứng không vững. Chừng ấy cái cũng đủ thấy rằng khi người ta dựng lên cái trường mới này, người ta đã thiếu hẳn lòng tin tưởng vững chắc. Nền xưa đã sụp đổ, không phải một sớm một chiều người ta có thể xây được cái nền mới với cái kiên cố của mấy chục thế hệ…

Tôi không nhớ cái cô gái mới ra đời đã bao năm mà đã có cái vẻ lung lay của một cô gái già. Ngày thứ nhất tôi bước tới trường ông đồ nho kia thật tôi không có một chút kỷ niệm đáng ghi nhớ, ấy có lẽ tại trong buổi tàn cục, người ta đã giảm hết những cái hình thức tuy phiền toái mà rất có ý vị… những hình thức về buổi nhập học, về sự khai tâm… Sau này tôi đọc một quyển truyện bằng chữ Pháp do một người Nam viết, tả cái buổi học khai tâm của một người học trò chữ nho, thì tôi tưởng như tôi lạc vào một thế giới đối với tôi còn toàn là những điều mới lạ. Giá cái buổi nhập học của tôi cũng có những hình thức nghiêm trọng, cũng có ván xôi con gà thì không chừng, tôi đã chẳng dám xem thường chữ Hán, xem thường ông đồ.

Âu là cái vận của chữ Hán xui nên thế, chứ thực ra khi tôi cắp sách lần đầu tiên đến một trường học chữ Tây, tuy cũng không có một hình thức nào, không có một lẽ nào, thế mà bao nhiêu điều đến vấn vương ở trong tâm trí tôi. Cái buổi học đầu tiên ấy ở "trường mới" đã làm cho tôi suy nghĩ và cảm động nhiều lắm. Tôi nhớ cái hôm đầu tiên ấy là một ngày vào tiết cuối tháng bảy. Tháng bảy ở vùng tôi là một tháng mưa lâm râm. Những cây bàng trụi cả lá, trơ cả xương, đường làng thì bùn lầy, những chân trâu đi qua đã để lại những cái hố nhỏ. Những ruộng lúa ngập nước và có đôi chỗ đã trổ đòng đòng. Mặt trời chỉ hé trong một lúc rồi lại trở vào ẩn sau cái màn mây dầy đặc. Trời thấp xuống và đất như đùn lên. Cảnh vật như thuộc về cõi âm, không có một chút khí sắc thanh tân, mới mẻ... Cảnh vật ấy không giống gì cảnh vật tươi của một ngày tựu trường tả trong những trang bất diệt mà một văn sĩ Pháp đã kỷ thuật[a] và sau này tôi đã học ở trường trung đẳng. Ở đây mặt trời không cười, chim không hót... và cậu bé tới trường cũng không cười như mặt trời mà cũng không nhảy nhót như chim được. Vì đường bùn cậu phải bấm chân mà đi, và vì thế, mặt cậu phải ngó xuống đường để khỏi phải đạp lên những vũng chân trâu. Sách cậu, cậu giao cho người anh cậu mang hộ vì cậu đi với anh cậu, một người anh khác mẹ. Những chỗ quá lầy thì cậu giơ tay ra để anh dắt. Con đường từ nhà đến trường chỉ có ba trăm thước, nhưng với cậu bé kia con đường quả dài đến hai cây số. Cậu phải đi ít nhất là hơn nửa giờ đồng hồ. Thì giờ ấy đủ cho nhà triết học tí hon kia nghĩ đến những cái mộng vĩ đại ở trên đường đời... Mặc dầu đường trơn. Cậu bé phải bấm chân phải chú mắt vào những vũng chân trâu, cậu bé vẫn ngao du tới những miền xán lạn rực rỡ ở cõi nhân sinh, vì cậu bé được cái là một cậu bé đãng tính... cậu có cái đức tính là vượt một cách dễ dàng khỏi cuộc hiện tại đi băng mình tới những chỗ mộng huyền...

Thật là một điều rất khó khăn cho tôi khi phải sống lại hồi tưởng lại cái tâm trạng của cậu bé lên sáu, trong cái ngày thứ nhất trên con đường tới trường học, nhất là trường học chữ Tây. Lúc ra đi khi mẹ tôi giao cuốn vở cho tôi, tôi nhớ lời mẹ tôi bảo:

Chết! Mới đóng có mấy giờ đồng hồ chưa học tới mà những trang giấy đã cong vèo ở góc.

Rồi mẹ tôi lấy tay vuốt những góc giấy lại cho thẳng. Từ phút ấy, tôi đã thấy cả cái nghiêm trọng của sự học chữ tây. Anh tôi là một người học trò mới như tôi nên cũng nghĩ bụng về cái điều dặn của mẹ tôi. Đi được một đoạn anh tôi bảo tôi, nhưng thực ra nói một mình: "Đi học chữ An Nam rứa mà không răng hết".

Tôi hiểu tư tưởng anh tôi một cách không khó vì đó cũng là một tư tưởng của tôi. Chúng tôi đều muốn bảo rằng: "Biết thế thà cứ học chữ nho mà sướng", điều ấy tỏ rằng chúng tôi lo nhiều về cái cảnh đời mới của chúng tôi... chỉ mới học có một cái tờ giấy một cuốn vở mà đã làm cho chúng tôi bận trí đến thế, huống chi là những điều khác nữa. Mà cuộc đời học chữ Tây, đối với chúng tôi, thật là cả một thế giới đầy những điều nghiêm trọng bí mật, những điều với chúng tôi sẽ hết sức lạ lùng... Cái việc được gặp một ông thầy quen (chú tôi bấy giờ dạy ở trường làng tôi), cũng không đủ để an lòng chúng tôi. Không những sợ, chúng tôi còn lo nữa, lo sợ những điều mà chúng tôi chưa biết là những điều gì. Không biết trên những trang giấy trắng tinh kia, chúng tôi sẽ biên chép những điều gì... Vì học chữ Tây, tôi tin rằng còn có nhiều điều mới lạ hơn là sự "tự viết". "Đi học chữ Nho rứa mà không răng gì hết". Cái tư tưởng ấy của anh tôi như bảo với tôi một mối lưu luyến, những cái gì đã quen thuộc hiền lành quả hiền lành mà không đáng ghét nữa. Cuốn vở chữ nho gợi trong trí tưởng tượng những điều rất giản dị rất đơn sơ, khiến cho lòng tôi được yên ổn. Xưa kia đối với cuốn vở kia, chúng tôi chỉ có hai đường: một là chúng tôi một niềm cung kính, rơi rớt một tờ, một mảnh cũng cúi lượm phủi đi và đội lên đầu, một là chúng tôi là những cậu bé bướng bỉnh, học trang sau thì xé trang trước, xé để vẽ nhảm hay là dán diều... Mà cuộc đời trong sách lại còn giản dị hơn: Hôm nay đức thánh nói rằng, mai vẫn đức thánh nói rằng, mở mắt ra cũng đức thánh nói rằng mà nhắm mắt lại cũng đức thánh nói rằng.

Chúng tôi chỉ có một cuộc đời, chúng tôi chỉ có một ông thánh, thiên hạ thật là giản dị, trời đất thật là đơn sơ... Nhưng những điều quen thân ấy, nay không còn nữa rồi... Chúng tôi chập chững bước vào một con đường dài ngắn không hạn mới lạ không hay. Hai thân tôi cũng không bảo một điều gì mới hơn chúng tôi. Nhưng chính cái mầu nhiệm có những sáng lạng say sưa của mầu nhiệm. Bấy giờ xung quanh tôi, người ta chưa có một quan niệm rõ rệt về sự học chữ Tây mà chung quanh tôi vẫn chưa xuất hiện những ông tham, ông đồ, ông thông, ông phán để lấy đó làm chuẩn đích cho sự học.

Sau này con sẽ làm gì?

Một đứa bé ở khoảng năm 1930 sẽ đáp:

Con sẽ làm tham biện, lục lộ, kỹ sư, canh nông, bác sĩ hay trạng sư...

Nhưng ngày xưa cách đây gần 30 năm, những người ở vùng tôi đều biết sự sang trọng của chữ Tây, vẫn chưa rõ nó sẽ đưa lại những sự sang trọng gì... Có một điều người ta thường nhận thấy là những người bồi bếp, nói tiếng tây thoắng... và chỉ có một sự ấy cũng đưa lại cho những hạng người kia, cái sự thèm muốn của dân quê. Nhưng điều ấy là một điều nhà nho không muốn nói tới.

Thế mà tôi là con một nhà nho, tôi đã dám nghĩ tới, tôi sực nhớ lại cái hôm tôi ở quê ngoại về, cả nhà tôi đương đi trên một con đường cái, đường từ huyện lên động Phong Nha, thì nghe có tiếng ngựa đuổi sau chân tôi, chúng tôi ngoảnh lại và đứng ở bên đường. Hai con ngựa đi song song tiến lên rất mau, người ngồi trên con ngựa nâu là một người tây, người ngồi ngựa trắng là một người Nam mặc ka-ki. Ông tây nói tiếng tây, người kia cũng đáp bằng tiếng tây cũng thoắng. Các người nhà tôi có vẻ khiếp phục lắm. Tôi ở trong cáng vén màn ra nhìn cũng phục lắm.

Tôi nhìn thầy mẹ tôi xem hai sắc mặt ấy trước cái việc xảy ra. Mẹ tôi thì như vừa hoàn hồn bô bô nói cái sự khiếp phục của mình với người nhà, mà người nhà cũng kinh hoàng, duy có thầy tôi là sắc mặt không biến, một lúc lâu vẫn không nói gì. Còn tôi thì cái đoàn người ngựa ấy đi qua rồi mà cái tiếng ồ ồ kia vẫn theo bên tai, trong lòng tôi đã ướm cái kính phục cái người An Nam cũng nói tiếng tây ấy.

Tôi không rõ người này là ai, nhưng phải là một người có địa vị, một người được trọng vọng lắm. Cái hình ảnh người ấy, hôm nay lại hiện trong trí tôi trong cái ngày tựu trường này. Người ấy đã mở ra trong lòng trí tôi như một cái hoa. Trong một lúc, tôi bỗng vụt trèo như trèo một cái tầm cấp, trèo từ tường này qua tường nọ, từ làng đến phủ, từ phủ đến huyện và chẳng mấy chốc tôi đã lên tới tỉnh rồi, trường tỉnh là cái đích cuối cùng của tôi rồi. Tôi thấy tôi vừa đỗ tốt nghiệp ở trường tỉnh ra, và bấy giờ tôi sẽ uốn giọng nói tiếng tây giống hơn tây. Đến đây, người đàn ông ấy lại hiện ra. Bỗng tiếng chó sủa làm tôi ngửng lên: Tôi đã đến trường. Mệ vú, con chó đương chạy xộc ra. Con chó ấy, cái hung dữ của nó tôi đã mấy lần biết tới, nên thoạt thấy nó chân tôi đã rụng rời, anh tôi đưa tay ra nhưng không kịp nữa, tôi đã ngã một cái "huỵch" xuống đường. Áo quần lấm hết và nước bắn lên cả đầu. Anh tôi đỡ tôi dậy. Tôi khóc như mưa như gió. Càng nghĩ đến cái bộ quần áo mới, tôi lại càng khóc rú lên nữa. Người trong chạy ra cười bảo anh tôi "thôi dẫn út về". Bấy giờ đường chỉ còn năm chục bước nữa mà thôi.

Nhưng số mệnh đã muốn rằng: Chúng tôi trở về, và trong ngày thứ nhất trên con đường tây học, chúng tôi đã có chút dơ dáng mà rồi không phải chỉ ngày thứ nhất, mà là suốt cả cuộc đời.

***

Hôm sau, tôi trở lại trường. Trời nắng tạnh và đường ráo. Tôi bước những bước mạnh dạn hơn trước. Mà lòng tôi cũng bình tĩnh hơn.

Tôi ngồi vào bàn thứ nhất, gần một cái cửa sổ, nói rằng một cái tổ tò vò thì đúng hơn. Mặc dầu thầy học là chú ruột tôi, tôi vẫn thấy ông có vẻ nghiêm nghị khác thường. Cái búi tó, với cái vành khăn tầy rế, với cái vẻ mặt hơi gân guốc của ông và cái tuổi của ông, đủ làm cho sắp trò nhỏ chúng tôi phải kính sợ. Nhất là khi ông mở cái tráp sơn đen lấy ra một cái bình mực đỏ và mấy cuốn sách chữ in, thì tôi thấy ông chẳng còn giống chút gì cái ông đồ nho của tôi. Ông rất ít nói, ông bảo học là học, bảo viết là viết, ông bảo đọc là đọc, ngoài ra ông không nói một câu đùa cợt nào.

Nếu như có một câu chuyện nào vô tình mà trở nên có vẻ bông đùa làm cho chúng tôi cười rộ lên thì ông cũng không cười theo đã đành mà ông còn nhọn môi ra, thế là chúng tôi im phăng phắc. Thật ta cái "ông thầy học" cũng như "người chú ruột" quả là một người lành, đời tôi chả bao giờ nghe ông nói xấu ai, nặng lời với ai, ông chỉ nhọn môi tỏ vẻ không bằng lòng, thế thôi. Người chú ruột đó thật quả là một người mà tôi mến trọng nhất trong gia tộc tôi, ông là sự hiện thân của đạo đức; sau này, khi thầy tôi mất, anh em chúng tôi nhiều khi đã làm phật ý ông, đôi khi nghe theo những tư tưởng cải lương cách mạng, chúng tôi vô tình đã vụ nhục tổ tiên ông bà mà chú chúng tôi không hề tỏ một vẻ khó chịu bất bình. Mặc dầu ông là một người cực kỳ thủ cựu từ trong gân thịt đến da tóc. Thật là một người hiền lành như cục đất, theo tiếng quê tôi thường nói. Nhưng ở trường ông chẳng hề cho bọn học trò "lờn mặt". Các anh em tôi lúc đầu có học với ông đều là những người trọn đời kính sợ ông. Thật là tôi không hiểu cái bí quyết của ông ở chỗ nào.

Có một điều đến nay tôi vẫn không hiểu ông làm thế nào để đàn áp cái lớp học "ô hợp" ấy nhiều khi lên tới quá năm chục. Vì đến nay tôi vẫn không nhớ là trường học một thầy ấy có bao nhiêu lớp. Có thể là lớn bé trên dưới trong ngoài cũng đều là một lớp mà thôi. Mà cũng có thể mỗi người học trò là một lớp.

Vì có đứa bắt đầu từ A, B, C như tôi, có đứa đã đến "uynh uych" lại có đứa đã làm được toán chia bốn con số. Người ngồi ở sau tôi là những anh khoá đã gần ba mươi tuổi. Hình như người giỏi nhất lớp là người mỗi bận đi về được cái hân hạnh bưng tráp cho thầy.

Về năm thứ nhất ở trường làng ấy tôi không thể nhớ lại được gì, giá mà tôi nhớ được những hình thù những quyển vở của tôi lúc bấy giờ nhất là những nét vẽ ở trên giấy thì cũng là một điều thú vị. Tôi chỉ nhớ chắc chắn là chính ở trong trường học đầu tiên ấy mà tôi làm quen với một cuốn sách luân lý của ông Đỗ Thận. Tôi làm quen với cả cô Tấm cô Cám, làm quen với con gà đẻ ra trứng vàng và bao nhiêu truyện thú vị nhất là món địa dư, tôi phải phục cái sự biết rộng của chú tôi về khoa ấy. Cái biết của ông là cái biết của về những tên nước, những cái tên mầu nhiệm, nó có thể làm cho thẩn thơ những tâm hồn trẻ nhỏ của phiêu lưu.

Những chữ "Tây Bá Lợi Á", "Bắc băng dương"… làm cho tôi ngơ ngẩn trong một hồi lâu. "Tây Bá Lợi Á" thật đã gợi ra trong tâm trí tôi một niềm kì dị, có một sự hấp dẫn dị thường… mà chính lúc ấy, tôi mới hiểu cái xóm làng tôi chỉ là một vùng nho nhỏ mà những nhà có cái "hài vạn dặm" như những nhà địa dư có thể bước qua như người ta bước qua tổ kiến vậy. Lại còn những cái tên của những tinh tú ở trên trời… Hành tinh, hoả tinh, nguyệt cầu… Những cái tên ấy đã làm cho trí tưởng tượng của tôi được khoái trá vô cùng. Những buổi học giữa ban ngày, bỗng sầm tối lại, ban đêm hiện ra, vùn vụt lại vùn vụt, tâm hồn tôi như một luồng ánh sáng, bay từ tinh cầu này qua tinh cầu nọ, có khi tôi đã đi khỏi lớp học trong những giây phút lâu mà thầy giáo cũng như các bạn tôi không hay biết gì hết. Cái khoa địa dư đối với tôi lúc bấy giờ là cái khoa học những tên huyền diệu, nhưng chưa có môn gì làm cho các học trò vui thích bằng môn sử ký. Thật là một bài học thực hành, một bài học linh động nhưng chỉ linh động sau lớp học những khi thầy giáo về nhà rồi. Tôi nhớ có một bận giờ học tan, các học trò nhởn nhơ đều ở lại để diễn một tích ở trong Nam sử. Tích ấy trích ở đoạn Tây Sơn chiếm thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc ngồi vào trong một cái cũi cho bọn đồ đảng nhưng vào thành để nộp cho quan chúa Nguyễn. Rồi thừa lúc quân nhà Nguyễn vô tình không để ý, bọn đồ đảng mở cũi cho Nhạc ra. Nhạc lên mở thành cho quân ở ngoài… cửa thành đây, chính là cái cửa chính của nhà trường. Khi cửa đã mở rồi, thì một mặt quân ngoài ùa vào, một mặt quân trong nội ứng, hai quân cùng đánh áp vào quân Nguyễn… Thế là từ trên các bàn các ghế, người ta tung nhau những thước kẻ, những bút chì, tiếng hò hét dậy trời, những cái bàn cao lòng nhòng, chân yếu không chịu nổi cái cân lượng của những đồ đảng Tây Sơn kêu ót ét, có khi ngã lăn chiêng… vất nhau nháu người ta ôm vật nhau đấm đá nhau. Một cuộc hỗn chiến bất phân thắng phụ và quân hai bên quên mang dấu hiệu riêng nên có lúc quân Nguyễn đánh với quân Nguyễn và quân Tây Sơn đánh với quân Tây Sơn. Cả hai bên trong lúc chiến đấu quá hăng cũng quên phắt cả bài tuồng lịch sử mà chính mình đương đóng.

Nhưng khi cúi nhìn cái cảnh chiến trường, thì hoảng hốt, kinh hoàng: nền nhà thì đầy giấy loại, bàn ghế thì ngả nghiêng, chiếc thì gẫy mất chân, chiếc thì xệch xạc. Nguy nhất là cái bàn bất khả xâm phạm của thầy, cùng những bụi chân, và ván thì sứt mông, thật quả là một cảnh thê lương, một buổi chiều trên trường. Nhưng các chiến sĩ cũng không quên sửa chữa lại cái cảnh tan hoang. Sáng hôm sau thì thầy giáo và các học trò trở lại không còn một chút gì còn bảo đây là chốn chiến trường. Rồi mấy hôm sau người ta sửa soạn cuộc đón rước quan Thủ hiến trong tỉnh hạt và quan Đốc học. Những hương chức cũng đến phụ lực với thầy giáo và học trò làm cho nhà trường có vẻ lộng lẫy một chút. Những lá cờ vuông và lá cờ xéo dưới ánh nắng mặt trời đầu hạ như phấp phới ở trong tâm trí của các học trò. Hôm ấy tự nhiên đứa nào cũng trở nên sạch sẽ, và không ai bảo ai, cũng đều khoác một vẻ nghiêm trang cảm động. Không ai nói một câu bông đùa, không đứa nào dám cười to nói to, túm năm tụm ba chỉ thì thầm hỏi nhau về những điều bí mật mà những ông thanh tra có thể gợi ở trong trí những trẻ con nhà quê. Chúng vừa trầm ngâm mà vừa hớn hở. Bỗng giữa cái giờ địa dư nghe có tiếng trống thùng thùng, đứa này đưa cùi hất đứa bên cạnh, đứa bên cạnh lại đưa cùi lại thắt đứa bên cạnh nữa. Cái sắp học trò thầm lặng truyền cho nhau cái tin "quan sắp đến". Tiếng trống một lúc một gần… Trong cái giọng ông giáo hơi run run… Sự cảm động tỏ ra mặt ra trên tay chân. Cả lớp học không có tiếng động mạnh, không có một tiếng thì thào.

Những đứa trẻ như nín thở… Bỗng tiếng trống dứt… Một đứa bé ngồi ở cuối lớp thoạt thấy những lá cờ, bèn sợ hãi, đứng dậy thưa to "Thưa thầy, con thấy quan đã đến". Cái vẻ ngơ ngẩn của cậu kia, mọi lần thì đã làm cho cả lớp cười rộ lên, nhưng bây giờ người ta đương lo sợ quên cả sự bông đùa… Thầy giáo, nhọn môi lấy thước chỉ vào thằng bé bảo im, cái giây phút muốn kéo dài… Bỗng thầy giáo đứng dậy đi ra thềm, cả trường thở ra một cái có vẻ thư thái… Các quan bước vào mới bước lên thềm, đứa này thúc đứa nọ bảo nhau đứng dậy. Nhưng quan chưa vào hẳn, đứa đứng dậy trước lại ngồi xuống, và đứa ngồi xuống lại đứng dậy, có đứa ngỡ ngàng nửa đứng nửa ngồi. Nhưng cái lễ phép của học trò nhà quê bao giờ cũng sẵn sàng chu đáo. Khi các quan thanh tra bước vào thì cả lớp đều đã đứng dậy hẳn hoi cả rồi. Ông giáo giảng tiếp bài địa dư… Quan Bố vào trước, rồi đến quan Đốc học, rồi sau là quan Huyện sở tại và thầy tôi là quan làng và sau nữa là những sai nha và lính huyện hương dịch. Những người sau này, hoặc cầm quạt, hoặc xách điếu chỉ đứng lẩn quẩn ngoài thềm mà thực ra làm cho bọn học trò chú ý hơn hết.

Quan Bố đi ngang qua mấy bàn đầu, rồi đi lại phía tôi và các bạn tôi xanh mặt đi và ngực hồi hộp. Nhưng quan đã dừng lại trước mặt tôi. Tôi đương đưa mắt xét, coi quan sắp làm gì thì bỗng quan đưa giật lấy cuốn vở ở tay tôi. Và trong một cử chỉ rất âu yếm ngài vuốt thẳng những cái góc giấy cong veo: Tôi biết cái điều đáng lo vẫn là những góc giấy cong queo. Tôi đương lo quan sẽ cật vấn tôi về sự thiếu cẩn thận, thì ngài như chẳng nghĩ gì đến điều đó, hỏi tôi một câu hỏi bất ngờ:

− Con có biết con ở làng nào?

 Tôi không cần phải nghĩ đáp ngay:

− Con thuộc làng Cao Lão.

Và sực nhớ đến cái câu thường xuất từ miệng khấn của các ông thầy cúng, tôi không đợi nói tiếp, tôi nói trước:

 − Cao Lao xã hạ thôn… Cao Lao tổng, Bố Trạch huyện, Quảng Trạch phủ, Quảng Bình tỉnh…

 Tôi thấy có vẻ hài lòng trên mặt mọi người nhất là quan Bố. Có lẽ thấy câu đáp của tôi xuôi như nước chảy nên ngài hỏi tiếp luôn một câu khác để thử tài tôi.

− Thế con có biết tỉnh Quảng Bình ở đâu không?

Giá quan Bố hỏi: Tỉnh Quảng Bình giáp giới với những tỉnh nào thì đó là một câu hỏi thuộc về địa dư mà tôi đáp một cách chẳng khó khăn gì, vì tôi là một người học trò giỏi địa dư.  Nhưng lắt léo là ở câu hỏi: "Tỉnh Quảng Bình ở đâu?", làm cho tôi sực nhớ đến câu người làng tôi thường nói "Mai tôi lên tỉnh", thì tôi tôi biết cái tỉnh ấy là tỉnh tôi xa tôi đến 50 cây số chứ thực ra không biết tỉnh đóng ở làng nào, tôi liên tưởng đến cái cách tìm nhà, tìm đường, tìm chỗ mà người nhà quê thường dạy nhau "Nhà ở nơi cái lỗ miệng chứ ở đâu". Ý người nhà quê muốn bảo rằng: Mỗi khi không biết nhà nào hay quên ở một chỗ nào, thì cứ hỏi ở lỗ miệng là tất chỗ ở người ta ở ngay đó. Tôi toan đáp một cách rất sâu sắc rất ý vị rằng: "Thưa quan, tỉnh Quảng Bình ở nơi cái lỗ miệng ấy mà!...". Nhưng tôi thoạt thấy rằng tôi lạc với cái câu hỏi mất nên tôi cứ do dự ngập ngừng và lẩm bẩm ở miệng. Quan Bố thấy tôi nói nhỏ có ý giục tôi đáp, ông bèn cúi xuống và nghiêng tai lại và bồng tai lên để nghe cho rõ. Trong lúc không kịp nghĩ, tôi đáp một cách rất nhanh và bằng một giọng đắc thắng: " Dạ thưa quan tỉnh Quảng Bình ở đây ạ!" Quan Bố lại nghiêng tai khít vào, khiến tôi càng không sợ và đưa ngón tay chỉ tận tai ông và đáp tất to: "Dạ thưa quan, tỉnh Quảng Bình ở đây ạ!" Cả lớp cười rộ lên. Các quan cũng cười theo… Tôi đỏ mặt tía tai nhưng tôi trộm nhìn các quan khách gật gù nói với nhau: "Cậu ấy thế mà nghĩ sâu xa lắm đấy", thì bây giờ cái câu nói ấy của quan khách tôi mới hiểu họ sở dĩ khen tôi sâu xa, là vì theo cái luân lý của họ hiểu tôi như vầy: Quan Bố là quan đầu tỉnh, bấy giờ chưa có quan Tuần, thế mà nay hỏi tỉnh Quảng Bình chỉ vào nơi quan, thì thật là sâu xa lắm rồi. Nhưng theo cái lối "luân lý" của tôi lúc bấy giờ thì sở dĩ tôi chỉ cái vành tai quan Bố, là vì quan nghiêng, bành ra vào lúc tôi đương nghĩ đến câu: "Nhà người ở nơi lỗ miệng mình", thành thử tôi đáp một cách tự nhiên như sự liên tưởng đã khiến, không kịp kiểm soát lại. Nhưng dầu sao, thì tôi với câu hỏi ấy đã làm vinh dự cho trường học của tôi, cho cha mẹ tôi (vì quan khách về sau cũng biết tôi là con của thầy tôi). Còn quan Bố, sau này làm đến Tuần vũ thì về hưu… Ông là một ông quan rất tài hoa, bình sinh thường hay xướng vị. Ông người hoàng phái thuộc dòng Tuy Lý vương, ông lấy hiện là Thúc Giạ Thị, và tôi thường gặp lại ông ở trên báo chương và trong các thi xã ở Huế. Thơ ông điêu luyện, chuốt như ngọc, trong như pha lê. Cái lối thơ Huế xuất sắc đến như ông là cùng, mà cái duyên của ông với tôi ở trên chỗ văn tự, thật đã bắt đầu ở cái thủa rất xa ấy vậy.

Nhưng cái trường đầu tiên ấy đã chết. Chết ở trên miếng đất làng và chết ở trong lòng tôi nữa. Mà nó chết bằng cách gì, chết lúc nào, thật tôi không nhớ rõ. Tôi chỉ còn nhớ là sau khi cái trường học ấy tan độ năm bảy tháng thì trên miếng đát mà chúng tôi hàng ngày đụng cùi nhau đã mọc lên những luống khoai lang xanh tốt, những bông khoai tím như mầu áo các cô gái quê trong ngày chợ Tết làm cho chúng tôi cũng quên hẳn những buổi chiều ủ dột, những buổi chiều đen sẫm của chúng tôi ở học đường.

Có lẽ nhà nước lập nên những trường học khác, quy mô rộng rãi hơn, những trường học của văn minh. Nhưng sắp trẻ chúng tôi lúc bấy giờ đã phải qua những giai đoạn nhọc nhằn. Sau cái trường học ấy, tôi bị tống vào trong tay  một ông thầy chữ Tây, hoàn toàn chữ Tây. Vì đấy là một trường tư dạy chữ Tây do các phụ huynh trong làng lập nên, thầy chính các phụ huynh rước lấy và nuôi lấy. Ấy người ta cũng chỉ muốn đi nhanh, ăn mau, người ta muốn cho con em biết ngay chữ Tây và để tiện kiếm ăn chứ không muốn qua cái giai độ Quốc ngữ quá ngân nga làm mất thì giờ bọn trẻ nít. Huống hồ là ở cái trường chữ Tây này còn có bọn học trò lớn, có những anh khoá chữ Nho, muốn xoay qua chữ Tây chỉ cốt để kiếm gạo. Ta phải nhận rằng những người muốn đi đường tắt này đã thành công một cách rực rỡ. Có người chỉ học có một năm hay cùng lắm hai năm là có thể có cái sức học về chữ Tây bằng một người học trò giỏi bây giờ học trong sáu năm, một phần cũng nhờ ở những người học trò ấy, những anh khoá ấy đã đứng tuổi, trí hiểu biết đã chín chắn, cái điều trở ngại lớn nhất của họ gần như là điều không thể vượt qua được, ấy là sự uốn lưỡi đọc cho đúng theo phép tắc của tiếng Pháp. Nhưng cũng may cả một thế hệ học sinh vào lớp học cũng đều đọc như họ nghĩa là một cách hết sức khó khăn, những anh Khoá bấy giờ còn là cái "cối xoay trần". Vội làm cho họ líu lưỡi không thể đọc đúng như người Pháp được.

Nói rằng một trường học chữ tây nhưng cái phong khí vẫn là cái phong khí y như những ông Khoá vẫn mang về đây, những cái lề thói, những cái quy tắc của một trường học chữ Hán, người ta đãi đằng ông thầy cũng như ngày xưa người ta đãi đằng ông đồ. Những ngày lễ mồng năm ngày Tết hay những lúc thầy về hay thầy đến, người ta cũng vẫn tiễn đưa bằng "quan tiền thúng nếp"… Ông thầy chưa hẳn đã là một viên chức như bây giờ, nghĩa là một người chỉ có cái chức việc mà người khác đã giao phó cho ở cái trường mới này tuy học trò không nằm ẹp xuống để viết. Mà người ta vẫn học và dạy theo những phép tắc xưa. Cách đọc bài, cách giảng bài… cũng như xưa, cũng vẫn có những cuộc bình văn… nghĩa là người ta hội các học trò lại một ngày nào đó trước mặt phụ huynh học trò rồi người ta bình những bài văn nào hay nhất. Người ta cũng yết tên lên bảng, người ta cũng phê ưu, bình… như thế… có khi muốn cho cuộc bình văn ấy các phụ huynh cũng có thể hiểu được, người ta ra đầu bài bằng quốc âm nữa. Tôi nhớ lần ấy thầy học của tôi ra một cái đầu đề như thế này: Chữ Tây là: Décrivez votre village, và Quốc ngữ thì là: "Tả cảnh làng anh".

Cái phần quốc âm làm trước, rồi Pháp âm làm sau… về phần quốc âm, thầy buộc phải làm văn vần. Tôi nhớ bài của anh tôi được chấm ưu, do thầy tôi gà. Bài ấy mở đầu bằng hai câu như vầy:

Làng ta phong cảnh thường thường

Thầy đã hỏi đến xin tường thầy nghe, v.v...

Và cứ cái giọng vè ấy mà tả cho hết từ núi sông, khe suối cho đến nhà cửa, chùa đình, ông Hương ông Lý, thằng Mõ thằng Thôn, việc cúng việc tế, việc cầu việc đảo cũng không hề bỏ sót… mà có điều này thật là ngộ là bài chữ Tây cũng na ná như bài chữ nôm thế: không hẳn là một bản dịch, vì thực ra anh tôi không đủ sức dịch, nhưng cái lối tư tưởng, cái cách bài văn cũng đều đều một điệu như thế.

***

Không phải một mình anh tôi, tất cả học trò lúc bấy giờ đại để mở bài luận của mình bằng hai câu tương tự như thế… Vì bấy giờ cả một thế hệ đều tư tưởng như thế, viết chữ Tây một cách rất An Nam như thế. Không những luận về "làng" mà luận về con heo con gà, cái nhà cái vườn, đều luận như thế cả. Ta không nên lấy đây làm một cớ diễu cợt bọn đàn anh của chúng ta hay vì như thế chính họ đã tỏ ra là họ còn An Nam hơn chúng ta…. Chúng ta bây giờ, đừng nói bọn học trò là những người đào luyện theo cái lối tư tưởng mới, tất cả chúng ta và nhất là những nhà văn An Nam viết quốc văn bằng văn Pháp, thật đã bày tỏ một tình trạng về tinh thần rất tai hại: ta không giữ cái cốt cách cố hữu của nòi giống ta nữa. Vẫn biết về sự đòi hỏi của cuộc đời mới, chúng ta phải có một lối vận dụng tư tưởng, một phép tắc luân lý thích hợp với khoa học. Nhưng điều ấy không có quan hệ gì đến cái sự bày tỏ cốt cách riêng của ta, sự phát huy những nỗi niềm riêng của ta. Mỗi dân tộc muốn tồn tại được phải có một cách riêng để biểu lộ những đặc tính của mình, cái cách riêng để bày tỏ mình đó chính là cái cốt cách riêng của mỗi người, của một dân tộc. Cốt cách căn bản ấy không còn nữa, là dân tộc ấy đã mất hết cái khí cốt và cái sinh lực của mình. Tôi biết, sống, nhất là sống về tinh thần, là một nghệ thuật rất tinh tế, ta không khéo vận dụng thì thật là tự huỷ hoại mình đi mà không biết. Tôi cũng nhận như mọi người "tân tiến" rằng: Muốn giữ mình được trong cái vận hội mới, trong cuộc sống mới, ta phải biết hấp thu lấy cái phương pháp mới để điều khiển cuộc sống mới, ta phải học lấy của người đời nay những cái lẽ gì, những bí quyết gì đã làm cho người đời nay được sống mạnh. Quên cái lẽ quan hệ ấy, tức là bơi ngược lại dòng tiến hoá, ta sẽ đuối sức mà chết. Nhưng dầu có bơi xuôi dòng, bơi theo một chiều với cuộc sống mới, thì trước hết ta phải luyện lấy ta trước đã, luyện lấy đôi cánh tay và một tinh thần. Nói một cách khác là trước khi ta băng mình trên dòng tiến hoá, ta phải kiểm điểm lại sức mạnh của ta, lại những giá trị sẵn có của ta.

Dân tộc ta đã có cái sống vẻ vang, tất nhiên có cái cốt cách riêng. Cái cốt cách riêng ấy chính là cái từ mấy chục thế kỷ, đã giữ cho tinh thần của chủng tộc, được cứng mạnh, được cường tráng. Cốt cách không phải là sự cường tráng, mà chính là cái đã giữ gìn, đã gây tạo được sự cường tráng. Ấy cũng chính là những hình thức, những nguyên tắc của một cuộc sống về tinh thần. Cái cốt cách ấy đối với con người, đối với dân tộc cũng tương tự như cái duyên đối với người đàn bà… Nhan sắc chết cái duyên còn, ấy là người đàn bà vẫn còn là người đàn bà. Một ngày kia ta còn giữ được một lối riêng để tự phát huy mình, tự thực hiện mình, ngày ấy ta còn là những người An Nam. Điều này ở trên chỗ văn chương, lại có sự quan hệ gấp bội… Tôi cầu nguyện cho người Việt Nam vẫn giữ được cái cốt cách riêng của mình. Cái cốt cách ấy không hẳn phải là một tâm học hay là một đạo học, học ở người Tàu mà là một cái gì thuần tuý An Nam, vì tôi tin rằng: Khi người Tàu đến với ta, tuy nói rằng họ dạy cho ta điều này điều nọ, nhưng ta đã có một cách sống riêng làm cho ta vững tin ở mình và cứng mạnh ở trước những cơn bão táp của lịch sử. Những câu ca dao, cái nền văn chương phong phú nhất của người Việt Nam (nhà quê chứ không phải nhà nho) còn lại đó để nhắc lại cho ta rằng xưa kia và bao giờ nữa, ta vẫn có một cuộc đời riêng, một cách sống hoàn toàn Việt Nam, những cái tư tưởng, những cái cảm xúc riêng. Lại không phải là một cách sống đớn hèn, những vị anh hùng như Lê Lợi, như Nguyễn Huệ, những đứa con thuần tuý của đất ruộng, của rẫy bãi Việt Nam đã chứng rằng cái hiên ngang, cái cứng cáp của ta là rút ngay ở trong máu thịt ta mà ra.

Lại cái cuộc Nam tiến là công cuộc của dân chúng môi mớm ở trong cái nguồn tục ngữ ca dao, ta hãy tin rằng ta nguyên đã có sức mạnh vững vàng ở  bên trong, mà đã có hàng mấy nghìn năm nay; không có cái sức mạnh bên trong ấy, không có cái cốt cách riêng ấy, thì ta chẳng có quyền sống đến bây giờ. Và nền văn chương Việt Nam không còn một chút gì đáng kể nữa. Làm văn theo cái nghĩa Việt Nam là biểu hiệu cái cốt cách Việt Nam ấy vậy. Những sự phù phiếm mà ta hằng thấy một độ trên văn đàn Việt Nam chỉ là một sự tiêu khiển mượn của người lúc trà dư tửu hậu. Cái ấy, vốn không phải của Việt Nam, vốn không phải "Việt Nam". Kho văn ta quả nghèo mà cái nghèo không phải là cái đáng lo. Cái đáng lo ấy là nghèo mà ta chẳng giữ lấy cái cốt cách của mình.

Tôi sung sướng và kiêu hãnh khi nghĩ đến rằng nước ta đã có một Truyện Kiều, và cảm động hồi hộp biết bao khi nghĩ tới rằng: có hàng triệu người và từ bao nhiêu thế hệ, những người chết và những người sống, đã gửi vào những vần thơ ấy một ít của mình và nhận ở trong đó một ít của chủng tộc. Một cuốn sách đã chứa được một cái hồn chung như thế, chẳng phải là có giá trị trăm nghìn hơn những cuốn sách dầy nặng và rỗng không.

Tôi biết Truyện Kiều là một tác phẩm về văn chương. Nhưng tôi cảm mến nó là vì đã bao đời nó đã tự biến làm một nơi quy tụ của bao rung động của người Việt Nam. Những khi tôi đưa sánh nó với công trình vô danh kia là nền ca dao thì sự cảm mến của tôi lại tăng lên gấp bội, vì đây là chỗ gặp gỡ của tất cả những thế hệ Việt Nam, nơi mà người ta đã ký thác những nỗi ái ngại, những nỗi buồn thương, những nỗi bâng khuâng của giống người một tâm hồn Việt Nam.

Đó mới là tất cả những gì sâu xa, là tráng kiện là thuần tuý trong cái chất Việt Nam.

*

Tôi nói cái trường học chữ Tây ấy, các anh nho anh khoá, đã mang đến những phép tắc của Hán học. Không những trong cách học mà cả trong cách chơi. Từ cái cách đi dạo núi, bơi thuyền, thưởng trăng đều có một ít khí vị thời xưa. Có một trò chơi nho nhỏ nhưng nó biểu thị được cái tinh thần đẳng cấp ở trong cái thời đại cũ, và đó cũng là một cái tinh thần thượng võ mà bây giờ ít thấy. Tôi muốn nói đến cách nhẩy roi. Mỗi tuần người ta thi một lần, có khi thầy học đứng giám sát. Người ta lựa sắp: lớn sắp với lớn, nhỏ sắp với nhỏ, roi bằng roi hóp hay roi mây. Người ta nhảy từ bậc thấp lên bậc cao. Có điều này là khác cái lối nhảy dây bây giờ là những cái roi mang những chức hiệu cao quý nhất của xã hội Việt Nam, cái trật tự trong khoa mục trên trường thi. Roi thấp nhất là roi tú tài, roi cao nhất là roi trạng nguyên. Nghiêm trọng và cảm động nhất là những cái tên hiệu mà người ta tuyên lên: Đệ nhị giáp Tiến sĩ, đệ tam giáp Tiến sĩ… Khôi nguyên, Á nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn, v.v… Những tiếng ấy làm cho những người ứng thí nao nức vô cùng. Và nay đã gần 30 năm qua, những tiếng ấy như còn vẳng bên tai tôi, làm cho tôi còn xôn xao thèm muốn cái cảnh phấn son cũ kỹ kia.

*

Rồi cái trường học chữ Tây ấy cũng như trường học chữ Quốc ngữ chết lúc nào tôi cũng không còn nhớ. Ấy cũng chỉ vì cái sống không rực rỡ, nên cái chết bị bỏ quên. Tôi chỉ nhớ cách độ ấy không lâu có một ông thầy nhà nước đổi tới… Một ông thầy trẻ tuổi, nói năng hoạt bát, mặt mày sáng sủa, áo quần sang trọng. Ông thầy "viên chức" ấy không có một chút gì là ông đồ, không những người dân kính mà người ta còn sợ nữa. Cái địa vị của ông thầy ấy là địa vị cao trọng. Ông thầy ấy thật là cách biệt với dân quê. Vì thế những lối tiễn đưa đãi đằng cũng khác hẳn ngày xưa. Người ta không tiễn thầy "thúng nếp quan tiền" như khi tiễn ông đồ cả. Ngày bãi trường, các học trò cho thầy một câu liễn và kèm theo một bó hoa và một bài điếu từ. Trường học thì tuy còn là một trường tranh, nhưng cao ráo và không biết bao là cửa sổ và cửa chính. 

Ngoài sân lại có một bồn hoa và một cái barre-fixe.[a] Lần thứ nhất ở trong cái trường học nước Việt Nam, người ta chú ý đến sức khoẻ của thân thể, và ngang với sức khoẻ của tâm hồn. Và sự vệ sinh của thân thể ngang với sự vệ sinh của tâm hồn; lần thứ nhất, từ ông đồ đến học sinh người ta cắt trụi hết những móng tay mỗi ngày, trước khi vào lớp các học sinh phải đưa tay cho thầy khám và anh nào có tay bẩn phải trở về nhà rửa sạch mới được vào học.

Mỗi ngày người ta tiêm thuốc cho những trò bị bệnh mắt. Và tôi nhớ có lần tất cả thầy trò chúng tôi phải cơm đùm cơm nắm đi tới một nơi xa đến chục cây số để cho một quan thầy thuốc khám con mắt.

Mỗi bên là một thế giới đóng chặt cửa. Đó là những cảnh rắc rối, không thể tránh được trong thời quá độ. Người con học một thứ chữ mà người cha không biết gì hết. Người cha vì thế không kiểm sát được sự học của con. Đứa con nhân cái dốt của cha mẹ về những cách thức mới, bắt đầu dối cha mẹ về những việc vặt, rồi lần lần đến những việc lớn. Hôm nay chỉ mới  là dối cha mẹ trong chuyện bút, giấy, sách vở, ngày mai thì là những việc có thể nguy hại đến danh giáo, đến phong tục.

Phụ huynh tin rằng chữ Hán mới dạy người ta cái đạo của thánh hiền, dạy những điều nhân nghĩa lễ trí tín. Chữ Tây chỉ dạy người ta tất cả những sự biết để mà sống, để mà kiếm ăn. Vậy thì cho con tới trường học chữ Tây để gây cho con một cái nghề kiếm ăn.

Xưa kia không có một cái tên học trò rồ dại nào có cái mộng làm một ông đồ. Nhưng chính "thầy trợ" bây giờ là cái thèm muốn của bao nhiêu người. Tôi nhớ thủa ấy "thầy trợ" ăn cơm tháng ngay ở trong nhà tôi. Bấy giờ cô dì tôi ở làng ngoại tôi ra chơi. Tôi tưởng trong đời dì tôi không còn thấy ai cao sang đẹp đẽ hơn ông trợ kia nữa. Chẳng thế một hôm thầy trợ đương ngồi ở bàn cúi đầu viết, dì tôi gọi mẹ tôi lại và thì thầm: "Mụ coi cái đầu tóc! răng giữ cho Cọt mình được thế". Cọt là tên đùa của tôi lúc nhỏ. Bà gọi cái tên tộc của tôi cũng chẳng sao, nhưng có điều làm tôi đến nay còn ngạc nhiên là không ngờ cái đầu tóc cúp láng mướt lại rẽ giữa, nơi đường ngôi thẳng băng đã làm cho người đàn bà kia thèm và phục đến thế. Mà về sau Cọt chẳng được làm "thầy trợ" mà lại làm một anh văn sĩ. Thiệt quả là một điều quái gở. Nhưng sự quái gở ấy vốn là điều hay thực hiện được mà cái mộng của người ta chẳng có thể thành bao giờ.

 

*

 

Sự xuất hiện của ông trợ giáo như cái ông trợ giáo đầu tiên ở làng tôi, thật đã làm cho người ở thôn dân có một ý rõ ràng về sự cao sang của nền học mới. Chẳng mấy lúc mà trường học của làng tôi lên đến gần 100 học trò và chia làm ba lớp. Và có cả thảy đến hai ông giáo. Người ta mang vào trường những trò chơi mới, bi, bóng tròn, đá cầu, chơi "chủ nhật", những trò chơi ấy cũng dần dần lan ra khắp hương thôn.

Cả những trẻ không tới trường, những đứa trẻ chăn trâu cũng có nếm được một chút gì ý vị văn minh. Lại có những người thợ "cúp" từ các thành thị đến để cắt tóc cho các học trò, những đứa trẻ khác cũng nhân đó mà húi đầu mình theo kiểu mới, và cả những cái búi tóc ương ngạnh nhất rồi cũng rụng dần. Ngày một ngày hai người ta đã nguội lòng mong nhớ chữ Hán, và hoàn toàn tín nhiệm ở chữ Tây. Chữ Tây không còn là cái trò "pantalon là cái quần, robe là cái áo" mà cũng là một sự học nghiêm trang đứng đắn. Chính là những ông đồ nho kia, xưa vẫn chỉ tin một điều là cái đạo "tu tề binh trị" là bao quát cả đông tây, bao quát cả trên dưới, cả trong ngoài. Những người ấy có lần đã tìm mua những sách tân thư của Tàu nói về những khoa học và triết lý của Tây. Thầy tôi, tuy là kẻ đã quy hàng trước cái học thuật của Tây phương, thầy tôi không hay đọc sách mới của Tàu nhưng cũng đã từng nhận rằng quả Tây có nhiều điều hơn ta. Ta đây nghĩa là Tàu và Ta. Thầy tôi thường nói: cái hơn của Tây là hơn về đường "cách vật trí tri". Thầy tôi vẫn quyết rằng cái học làm người, học "sửa mình" chỉ có những bậc thánh hiền Á Đông mới có thể dạy ta điều ấy thôi. Vì thế, thầy tôi vẫn giữ lấy cái trách nhiệm ấy ở trong tay mình, không bao giờ ký thác cho học đường. Tôi còn trông thấy như mới hôm qua cái cảnh xum vầy ấm áp của gia đình tôi để nghe những lời diễn giảng về đạo lý của thầy tôi. Thầy tôi đọc lại cho các con nghe những truyện hiếu nghĩa đời xưa, vừa đọc vừa giảng giải. Cái truyện quả lê nhà ông Trương Công Nghệ là truyện thầy tôi giảng đi giảng lại biết bao lần và cái giọng thân mật đôi khi cảm động đã đưa vào lòng chúng tôi một sự khắc khoải say mê đạo lý. Tôi tưởng ở đời không có gì đẹp bằng lòng yêu thương. Một quả lê nấu với nước lạnh để chia đều cho cả gia tộc, thầy tôi từ thủa ấy đã khéo gieo hạt quý vào tâm trí chúng tôi, nên sau này mới có được cái cảnh đoàn viên tươi tốt như cảnh nhà tôi. Nhưng trước khi có sự đoàn viên, gia đình tôi đã phải qua nhiều nỗi lục đục. Ở chương này tôi hãy tạm bỏ việc nhà trường mà trở về với gia đình tôi.

 

***

 

Ở đây tôi phải đau đớn, phải mạnh bạo mà nhận rằng: Mẹ tôi, người đàn bà cần cù đáng kính ấy, vẫn là cái cớ của những sự lục đục ở gia đình tôi. Mẹ tôi vẫn là người phản đối cái sự trật tự ở trong các con thầy tôi, do thầy tôi đã lập ra. Theo cái "thuyết" ấy thì con mẹ tôi là kế thất lại phải gọi các con ở các dòng thứ bằng anh, nếu như những người con này đều lớn tuổi hơn các con của mẹ tôi. Mẹ tôi không chịu được điều lấy tuổi mà hạn định máu huyết anh em. Theo thầy tôi, thì "con" toàn là con cha, mà theo mẹ tôi, con trước hết là "con mẹ". Thật một điều đáng tiếc là mẹ tôi chẳng bao dung tất cả những người anh khác mẹ của tôi hơn một tí nữa. Nghĩ cho kỹ, thì việc cũng đáng tiếc mà không nên quở trách. Có ai trách một bà mẹ chỉ biết một lòng một dạ thương những đứa con đẻ của mình? Mà cái lòng mẹ tôi thương những đứa con đẻ của mình, thì thật ở trên đời này không có gì sánh được.

Tôi nhớ lần ấy là lần đầu tiên anh Lai tôi lên tỉnh học. Lúc ra đi, mẹ tôi khóc như mưa như gió. Chỉ có một cái áo lụa mới mà mẹ tôi bao lần cặn kẽ dặn anh tôi: "Áo lụa xếp vào tận dưới đáy tráp cho con chỉ khi mô có "việc" thì con lấy ra mặc rồi xếp vào cho mẹ!". Mẹ tôi còn dặn tiếp: "Trong túi trên áo lụa, có bảy đồng bạc, phòng khi người ta có hỏi tiền cơm thì đưa ra trả cho người ta 3$00, còn bao nhiêu nữa để tháng sau, kẻo tháng sau sợ không ai đi tỉnh không gửi được”. Tiền tiêu thì đã có hai quan tiền để ngoài. Nhưng mẹ tôi dặn như thế còn sợ anh tôi quên đi chăng nên lại mở tráp ra soạn cái áo lụa trắng, từ cái túi áo nhỏ ở cái vạt con, mẹ tôi lấy ra 7$00 và đếm lại từng đồng một trước mặt anh tôi. Bà đặt đồng bạc, cái đồng bạc thật, đồng bạc "bà đầm" lên trên ngón tay chỉ rồi lấy con dao gõ đồng bạc nào tiếng kêu "coong coong" bà mới chịu đặt xuống, để đặt đồng bạc khác lên. Thủa bấy giờ người ta hay "thử" bạc không phải tại lúc bấy giờ kẻ gian sảo nhiều, mà tại người ta trân trọng cái đồng bạc hơn. Những đồng bạc với mầu sắc với cái thanh âm của nó, quả có dự một phần trong cuộc đời thân mật của những người nhà quê ngày xưa. Những đồng bạc giấy không vì cái lẽ mất giá ở thị trường mà cũng bị mất giá luôn cái địa vị của nó trong cuộc đời thân mật của người ngày xưa. Những tiếng gõ như thế, thật đã cho người nghe những cảm tưởng bồi hồi và thanh thú. Đã lâu, cả đồng bạc ấy đã biến mất nhưng cái tiếng kêu vẫn còn văng vẳng bên tai, nhắc gợi lại cho tôi một thời đại đơn sơ và chân thực mà đồng bạc vẫn như đất ruộng không hề có biết "dối giá" bao giờ.

Muốn cho cẩn thận hơn, sau khi bỏ những đồng bạc vào túi áo, mẹ tôi bèn lấy kim may kín miệng lại, rồi lại cẩn thận xếp cái áo lụa ấy vào, như xếp vào trong ấy cả cái lòng mẹ thương con. Mẹ tôi vừa xếp vừa tấm tắc khen cái "áo lụa", mẹ tôi hỏi anh tôi: "Lụa mị là lụa mẹ nhờ dì đặt ở Hoàn Bão cho con, còn mấy thước nữa để may cho Cọt nhưng chỉ sợ Cọt bôi quá...". Áo lụa ấy chỉ có mấy đứa con của bà là có mà thôi, còn con thầy tôi không ai có. Tôi nhớ tôi còn một cái áo "địa xanh" nữa, đến nay đã gần 30 năm mà cái mầu xanh ấy vẫn còn chưa có thể chết ở trong tâm hồn tôi, nó phấp phới tươi đẹp như cảnh trời thủa nhỏ. Chắc là mỗi khi anh em tôi đi ra mặc cái áo rực rỡ đã làm cho các bà làng xóm dị nghị nhưng mẹ tôi chỉ biết một lòng thương con, quản gì thiên hạ.

Trước anh Lai tôi, các anh khác mẹ tôi đều đi lên tỉnh học. Nói rằng thầy tôi lo liệu mà kỳ thực là chỉ một mình mẹ tôi chạy vạy. Thực ra đó cũng là một chút thương yêu, mà cũng là một chút nghĩa vụ. Vì bấy giờ mẹ hai tôi cũng đã khuất núi rồi, mà bà mẹ ba của tôi là người tông thất, thường thường chỉ ra thăm một ít lúc rồi cũng lại trở vào Thừa Lưu là nơi các người con bà đã sinh trưởng. Bà mẹ ba của tôi tuy cũng lâm cảnh bần bách mà vẫn có vẻ phong lưu an nhàn, cái số an nhàn thực ra là tự tánh con người trời cho là được, cảnh ngộ cũng không làm gì nổi. Các con của mẹ ba tôi vì thế cũng không có vẻ nhọc nhằn khổ sở như chúng tôi.

Nhưng tội nghiệp cho bà mẹ hai của chúng tôi. Bà sống không căn bản, chết trong sự lạnh lùng. Tôi thường chả được thấy mặt bà, nhưng cái lòng thương mấy người anh tôi, đôi khi bắt tôi phải tưởng nhớ đến bà, dựa vào mặt các anh chị tôi mà hình dung ra mặt bà. Những đứa con trắng trẻo và đẹp đẽ của bà khiến cho tôi tự hỏi: Làm sao bà lại có thể sinh trưởng ở một làng cũng như làng mẹ tôi, một làng "cây sim bóng đá". Không có gì là nho nhã thanh bai… Mẹ bà một bà "bóng" cũng như ông ngoại tôi là một ông thầy phù thuỷ. Tôi không rõ cái máu "đồng" ấy ảnh hưởng gì đến chúng tôi không? Bà mẹ hai của tôi, tôi không biết. Nhưng buổi thơ ấu, hình như có một lần, tôi nghe các anh tôi reo lên rằng "cáng mê ngoại đi qua trước đằng bản". Bà đã già, mỗi khi đi "ngồi bóng" ở đâu đều ngồi cáng.

Mỗi lần đi qua làng tôi, chỉ có nhắn các anh tôi ra và phát cho các anh tôi vô số bánh oản. Tôi chẳng bao giờ thấy mặt bà, nhưng cuộc đời của bà cũng như cuộc đời của ông ngoại tôi, có một cái gì rất màu nhiệm, như ẩn như hiện và ấn định vào tâm trí trẻ thơ của tôi những cảnh tượng thực hư, lay động như những cảnh chiều mùa thu. Còn điều này nữa là trong cái cuộc đời của những người ấy, phải có chút gì "đạo sĩ", chút gì khoáng đạt phong lưu. Tôi thấy các anh tôi ở phòng này có chút gì như thế, mặc dầu phải nhọc nhằn. Trong các con thầy tôi, thì duy có các con ở phòng này là phải cực nhọc hơn cả. Tôi không hiểu từ đâu nhưng chắc cũng một phần vì cảnh nhà quẫn bách xui nên.

Tuy vậy anh Hai tôi là con phòng này lớn lên cũng vẫn được đi học, tuy học chẳng bao nhiêu mà không có chút tư chất nên lớn lên gây cho mình được chút sự nghiệp. Anh tôi là người ở trong việc kinh doanh, khi chìm khi nổi. Làm nên bạc vạn đó rồi lại phải tay không ngay. Nhưng cũng khi hai bàn tay không mà anh làm nên bạc vạn dễ dàng như đồng tiền sấp ngửa ở trường cờ bạc. Chính cái sự gian nan đã tạo cho anh tôi những đức tính không ai có dám "liều" mà không hề sợ sự nghèo nàn khổ sở. Một là ăn to làm lớn, hai là phủi tay không đứng dậy, cái điều thứ nhất làm cho anh kiêu hãnh, nhưng cái điều thứ hai không làm cho anh sợ. Cái bí quyết của đời anh là dậy trước khi mặt trời dậy và reo cười với tất cả cảnh ngộ. Nhưng cái vui làm cho người ta eo hẹp. Anh không từng biết có một giây phút trầm ngâm, vì thế cuộc đời anh ta không hề có một say mê nào đáng quý. Anh bao giờ cũng xử sự theo bản năng. Cuộc đời anh vì thế, nhiều khi trở nên vô nghĩa, gần thú vật nhiều hơn con người. Anh cũng không hề biết có tình cảm đã đành mà cũng không hề biết suy luận. Anh chỉ đọc thơ Hồ Xuân Hương và cả cái cao quý của cuộc đời là ở trong những vần thơ xuất tự cái bản năng của con người. Lúc nhỏ anh chỉ có một cuộc đời ở đồng ruộng, lấy đất sét viết hình Vua Tướng. Đất ruộng đã cho anh một cốt cách hiên ngang, đất ruộng đã dạy anh sự thật thà chất phác, một đức tính mà có lẽ anh sẽ giữ đến già, nhưng đất ruộng vất đứa con ấy vào một xã hội nho nhã thuần thục thì nó sẽ lạc loài bỡ ngỡ, ở giữa gia đình tôi anh cũng gần như bị lạc loài nữa, vì anh lúc nhỏ không được hưởng thụ sự giáo dục của thầy tôi, lớn lên thì đã phải đi học xa, rồi luôn luôn ở ngoài để kiếm ăn, giá anh được nghe một lời giảng giải về đạo lý của thầy tôi thì cuộc đời của anh đã thay đổi. Có một điều làm cho tôi hằng suy nghĩ là cái sự đào luyện của đất ruộng ở mỗi người một khác, ở anh thì đất ruộng chỉ đánh thức dậy những bản năng chân thật và thô bạo, mà ở phần nhiều chúng tôi thì mùi lúa ngự hay hương rừng, cảnh chiều ở núi hay trăng ở đất ruộng gợi cho chúng tôi một thế giới tình cảm thanh thú, chúng tôi như bị lưu luyến trong một mối tình to lớn, mênh mông bao trùm cả cuộc đời thơ ấu.

Đất ruộng đã dậy tôi thương yêu thầy tôi, cái ông nhà nho ấy chỉ dạy tôi biết lý hội, biết đắn đo giữa sự hay dở, thiện ác và đẹp xấu. Đất ruộng là một bà mẹ bên cạnh mẹ tôi đã chi phối cả cuộc đời tình cảm của chúng tôi.

Nhà tôi sau này, chỉ là một nhà nề nếp thi hương, chỉ có biết bút mực. Duy có anh Bảy tôi vẫn giữ được trọn niềm đất ruộng. Chính nhờ anh mà tôi làm quen với cuộc đời rẫy bãi đất ruộng, làm quen với rừng núi, chim muông với tất cả những thú vị ở thôn quê.

Anh tôi không có một cái học bằng chúng tôi, nhưng quả anh Bảy tôi có một tinh thần gia tộc ít ra chẳng kém chúng tôi, mặc dầu trong gia đình anh bị bạc đãi nhất.

***

 

Nhưng đó là chuyện sau khi mẹ tôi mất. Mẹ tôi còn thì chúng tôi con của bà bị nhốt lại trong một thế giới riêng. Chúng tôi không được, ít khi được tiếp xúc với các anh khác mẹ tôi, còn với những đứa trẻ khác thì lại càng ít lắm nữa. Mà thủa bấy giờ cái cảm tình của tôi, cái tính trìu mến của tôi cũng chỉ chân tuần ở trong vòng cái gia đình nhỏ của tôi gồm có thầy mẹ tôi và hai anh tôi. Một thứ hạnh phúc ích kỷ mà thật ra cũng đã làm cho thầy tôi khổ tâm vô cùng. Nhưng cái tình yêu có bao giờ lại đáng trách? Thật là một cái thú khi yêu và khi được người yêu.

Tôi nhớ lần ấy là lần thứ nhất anh tôi rời làng lên tỉnh học. Mọi việc mẹ tôi đã sửa soạn từ mấy ngày trước. Mẹ tôi cứ vào ra mà chẳng làm được công việc gì. Đã coi ngày rồi mẹ tôi còn bảo thầy tôi coi giờ xuất hành nữa. Rắc rối là cái giờ tốt lại là giờ dậu… ăn vào ban đêm, mà đi ban đêm thì không tiện nên mẹ tôi bảo người mang gói ra đò trước, và anh tôi đúng giờ ấy ra bến sông, giả đò xuất hành, rồi lại trở về nhà ngủ một đêm, hôm sau mới xuất hành thật. Hôm ấy mẹ tôi dậy sớm hơn ai hết. Tôi cũng dậy theo mẹ tôi. Mẹ tôi rón rén lại gần chỗ anh tôi ngủ, đóng kín cánh cửa, kẻo sợ chốc nữa ánh mặt trời rọi vào… Nhưng trong lòng mẹ tôi bồn chồn muốn cho thì giờ đi mau, và trông cho sự xuất hành chóng tới, sự ly biệt chóng qua.

Đến khi những bạn học trong làng tôi rủ anh tôi cùng đi, mẹ tôi mới quả quyết thức anh tôi dậy.

Lâm ly là cái giờ từ biệt. Có một câu mà mẹ tôi dặn đi dặn lại bao lần: "Chỗ thành thị đông đúc, con nên coi chừng xe cộ". Mặc dầu lúc ấy đã có thầy tôi dẫn anh tôi đi, mẹ tôi vẫn chưa hẳn yên tâm. Anh tôi thì không giấu được sự cảm động, nước mắt chảy dòng dòng trên má. Mẹ tôi vẫn cười nói như thường luôn luôn giục thầy tôi và anh tôi đi đi, bảo là những người bạn anh tôi đợi, thực ra thì thời giờ hãy còn sớm, mẹ tôi hối đi để cho anh tôi khỏi phải bịn rịn. Lúc anh tôi lại chào mẹ tôi mà đi, thì mẹ tôi lật trái vạt áo lau mắt cho anh tôi và an ủi "Thôi con vui vẻ mà đi, vui vẻ mà học. Qua tháng sau mẹ đi Lý Hoà rồi tiện đường mẹ sẽ đi thẳng vô tỉnh thăm con, không chừng có dì con đi nữa". Đoạn một lần cuối mẹ tôi quay lại hối thầy tôi đi, và giục anh tôi cũng theo chân thầy tôi đi. Tôi thấy phút cuối cùng anh tôi đi, mẹ tôi vẫn nói nói cười cười, không tỏ một dấu gì buồn rầu bận rộn. Mãi đến lúc anh tôi qua khỏi cửa tam quan không nhìn lại nữa, thì mẹ tôi phách những cành lá râm bụt mà nhìn theo. Anh tôi đi qua mỏm đường nhà tôi, thì mẹ tôi cũng lại chạy ra vườn sau, nhìn qua những tàu lá chuối. Tôi thấy bà luôn luôn lấy vạt áo ra lau nước mắt, chợt đến lúc trông thấy tôi, thì mẹ tôi đã lại làm bộ vui vẻ mà hỏi tôi: "Anh Nậy con đi con không buồn à?".

Tôi không biết đáp sao, rơm rớm nước mắt, rồi toan oà khóc lên, nhưng mẹ tôi đã đon đả "Con thấy được đi học sung sướng chưa! Con cố học mẹ sẽ cho con đi tỉnh học như anh con. Mà thằng Con mô?” (1) Tôi đáp một cách củn thụt lủn: "Anh Song đi ra sau rào, tiễn chân anh Nậy. Anh Song mang cả diều, nhợ ra nào nữa để rồi anh thả ở đồng Phố. Đồng Phố thọng gió. Diều lên sướng". Cái tư tưởng ấy làm cho mẹ tôi mỉm cười. Nhưng tôi đã thấy bà đi vào nhà bà nằm xuôi trên bộ ngựa gỗ và thở dài… Lần thứ nhất trong đời tôi thấy bà bỏ cả công việc nhà. Mọi lần cứ giờ này thì bà đã với một ang nước, một cái khăn, một con dao, bà từ cột nhà này qua cột nhà khác.

Từ hôm ấy cũng là lần thứ nhất trong đời tôi tôi mới biết thế nào là cái buồn ly biệt. Nó làm cho người ta đứt đôi tấm lòng. Cuộc đời như tan rã, cái nội cảnh trong tâm hồn đột nhiên thành một cảnh hoang vu không người ở… Không bao giờ tôi thấy nhà tôi, đời tôi vắng vẻ như trong những giờ phút ấy. Không bao giờ tôi cần có một tiếng kinh động, một tiếng kêu rú lên bằng trong những giờ phút ấy. Giá tôi bây giờ có một cái cù rục, hay một cái còi sắt thì tôi sẽ vào cả những cung ẩm nhất nhà tôi, và thổi lên để làm náo động sự quạnh hiu, đuổi xua sự vắng lặng, thì may ra mới đưa lại sự yên ấm cho lòng tôi. Mẹ tôi vẫn nằm ở trên ngựa, vẫn thở dài, và gọi tôi lại và kéo tôi vào lòng. Tôi giận anh Song tôi trong lúc này đương lựa theo chiều gió mà cất diều lên. Và có lẽ con diều của anh tôi đã lên đội mây, đè cả diều thằng Phỉ, thằng Tiềm. Tôi giận sao mọi lần khác thì anh đã gọi tôi đi theo để cầm giây cho anh rồi mà lần này thì anh cất đi một mình, cái tư tưởng ấy vẫn không làm sôi được lòng tôi. Tôi bèn lén lén bỏ mẹ tôi mà đi. Mẹ tôi chợt thấy gọi tôi lại nhưng tôi vẫn cắm đầu chạy, văng vẳng như tiếng mẹ tôi còn gào bên tai. Nhưng tôi vẫn chạy một mạch. Tôi không qua cửa đình. Tôi lội qua hói sác một mình. Tôi không nhớ rằng ở hói có nhiều chỗ sục mà trẻ chăn trâu đào ra để bẫy những người đi chợ phiên. Tôi cũng không nhớ đến chuyện ma thu bao ngày mà người làng thường kể với nhau. Vì tôi đã đến đồng Phố rồi. Và không thấy anh Song tôi đâu, lại nhìn lên trời cũng không thấy có bóng một con diều nào. Tôi giận quá và tự nghĩ: "Hay là anh còn ở bến, đợi nồm lên anh mới thả". Nghĩ vậy rồi tôi chạy thẳng ra bến, nhưng tôi vẫn không thấy anh đâu. Tôi hỏi một đứa trẻ chăn trâu: Mi thấy cậu Song đi mô không?

Nó đáp: "Thằng Tiềm hẹn cậu đi ăn bàng dưới Đuồi rồi!" Tôi biết không thể nào tìm anh Song tôi được nữa, tôi sực nhớ đến những chuyện ma thu mà khiếp.

Và ở Đuồi, nhà tôi tuy có ruộng ở đấy tôi vẫn chưa bao giờ tới đấy. Từ nhỏ tôi vẫn là đứa con cưng của mẹ tôi nên thực ra chưa được bỏ nhà chạy rong các đồng ruộng như các anh tôi. Những đồng ruộng bây giờ đối với tôi còn rộng mênh mông. Mà làng tôi với những cảnh trí của nó đối với tôi còn là một vũ trụ đầy huyền bí. Càng ngày càng lớn lên thì những đồng ruộng càng nhỏ hẹp lại mà những cảnh trí làng tôi cũng như xu hốt những sự bí huyền. Thực ra đôi khi tôi cũng trốn nhà, đi theo anh Song tôi nhưng cũng không mấy khi quá cái hói sác hay con đường đình. Lần này cái buồn ly biệt đã đuổi xua tôi khỏi nhà và một mình dám ra đến rào. Tôi ngoảnh trông ra sông, một vài chiếc đò còn thấp thoáng ở khoảng xa. Cho đến khi những chiếc đò ấy còn là những chấm đen, tôi mới quay lại hỏi thằng bé chăn trâu:

− Họ đi mấy chiếc mi?

− Hai chiếc.

Tiếng đáp của thằng bé rơi vào lòng tôi như một điệu thê lương. Vì thực ra, lúc bấy giờ tôi tìm những cớ để mà buồn. Những hòn lèn Thanh Hưng sồ sộ mà tôi thấy trước mặt tôi, và tiếng sóng ầm ầm ở dưới biển đưa lại làm cho tôi không dám có một ý nghĩ gì… Thật không bao giờ tôi thấy trời đất to lớn tàn bạo như lúc nhỏ. Tôi quay lưng thơ thẩn trên đường về… Nỗi buồn như sau những giây phút xao lãng, lại trở về với lòng tôi, cái buồn lại gấp bội khi đối với đứa bé những con đường trên thế gian đều dài lên gấp bội đường lên tỉnh với tôi thủa ấy. Cũng gần như là con đường lên trời đối với tôi bây giờ. Sự mầu nhiệm, sự bí mật vẫn giống nhau và cũng giống nhau lòng khiếp sợ. Tôi tưởng như anh tôi đã rời tôi để băng đèo vượt suối, những con "chuồn voi" đậu ở trên những bụi dứa làm cho tôi quên phứt cả nỗi buồn. Anh Song tôi thì chỉ thích nhất có chuồn bầu, thằng Uýnh thì thích chuồn kim, tôi thích có chuồn voi đầu nó to, mình nó xanh bậm, cánh nó đậm, trông người nó có vẻ chắc, khoẻ, nó có thể ngầu được những đọt tre non. Đưa nó ra chọi với những con chuồn bầu, nó chẳng chịu thua. Chuồn bầu chỉ được cái bay cao, ung ung như một vì thiên tử. Những con chuồn voi thật là một hổ tướng, lẫm liệt, oai nghi…

À con chuồn voi to quá, nhưng mà thích quá, tôi vừa len lén lại gần, toan đưa tay ra thì nó đã bay qua cành khác. Tôi lại đuổi theo, thì nó lại qua cành khác nữa, tôi đánh lừa thu tay trong áo, nhưng nó khôn hơn tôi. Tôi chưa đến thì nó đã bay rồi… Và lần này nó đã bay xa, bay cao, ý hẳn nó cũng không muốn đùa với tôi cái trò bần tiện mà nguy hiểm ấy. Con chuồn voi bay rồi, lại để trống trong lòng tôi. Tôi lại lẩn thẩn trên con đường về, nỗi buồn như man mác khắp cả đồng ruộng. Nhưng khi đi qua con mãnh hổ ở đình, con mãnh hổ của lão thợ "nghê" tôi lại đứng lại nhìn ngắm một mình.

Đến nay, đi trên con đường đời đã gần hai mươi năm, mà thú thực tôi chưa phục cái gì, người nào bằng con hổ này sau những ông thầy cả, là "những ông thầy phù thuỷ được tôn làm thầy cả, ngồi chỗm chệ ở giữa mỗi khi đăng đàn, hai bên là dãy những thầy chúng".

Càng ngắm, tôi lại càng thấy con thú nó càng hành động và tôi đã phải bấm gan nắm chặt đôi tay mới dám đứng lại một mình. Tôi chợt nhớ lại một kỷ niệm sâu xa ở trong đời thơ ấu của tôi, đã để lại trong tâm hồn tôi những ấn tượng mãnh liệt.

Bấy giờ làng tôi làm đình mới. Thầy tôi hình như được cử làm đổng lý. Những cái đình làng thủa bấy giờ thi nhau về những cột to. Vì thế làng to cần phải có cột to để tỏ rằng mình đại xã. Mà cột thật to, một cột Mả, phải một người lớn với một đứa bé con nít lên năm mới ôm phỉ, những xuyên, cù, đều có chạm đầu rồng. Cái hôm cất đình, tôi được theo thầy tôi ra xem. Thật là một cảnh tượng vĩ đại oai nghi. Tôi không nhớ là người ta dùng giây gì để cất lên, nhưng dân hai giáp, múm hai đầu giây, rồi sau khi đã sổ một hồi rồi thanh la và khỉ loa, hồi trống đại thì người ta hò hò mấy tiếng rồi dần dần rút giây. Tôi nhớ có bốn người đổng lý ngồi lên trên đường xuyên, có một người núm cái khăn đỏ.

Vai và cột cũng dần dần lên. Người ngồi vẫn có vẻ điềm tĩnh. Thật là hồi hộp cho người đứng xem, rồi người ta lại xổ một hồi thanh la, vài thứ nhất đã đứng thẳng… Đoạn, cứ như thế người ta cất vài thứ hai. Khi bốn "cột mẹ" đã đứng sững, giao tựa nhau bởi những đường xuyên, người chấp lãnh khỉ ba hồi trống; người đổng lý nương theo đường xuyên, buộc một cái khăn đỏ ở "đồng đông". Bấy giờ người ta mới vào làm lễ cáo thần. Dân cư ăn uống no say, nghỉ mấy hôm mới lại khởi công. Tôi nhớ lúc bấy giờ không mấy ngày là tôi không có ở đình. Nhưng những công việc của các ông thợ mộc, không có cái gì làm cho tôi phục lắm. Duy có những ông thợ nề đã chiếm được lòng kính mến của chúng tôi, không những sắp trẻ chúng tôi mà những trai tráng trong làng cũng tấm tắc khen ngợi và kính trọng các ông vô cùng. Vì là các ông là những người tạo tác ra những con kỳ lân, con cọp, con ngựa, con voi. Mà đối với dân quê thì những con vật kỳ quái này có một sức cám dỗ mãnh liệt vô cùng.

Một cớ nữa làm cho dân làng để ý đến các ông là vì các ông là những người xa làng đón về, các ông đã đưa lại trong làng tôi những nền nếp, những phong thói khác hẳn với phong thói làng tôi. Nhưng chính bọn họ cũng là hai tốp khác nhau, hai tốp ở hai làng khác nhau, và mỗi tốp có một anh "thợ cả". Tốp thứ nhất gọi là tốp thợ Phường, vì người thợ cả tên là Phường. Tốp thứ hai gọi là tốp thợ Nề cũng là mang tên người thợ cả. Sở dĩ có cái ý muốn mời hai tốp như vậy là các ông Tổng lý muốn cho trong công việc có sự đua tranh và nhờ sự đua tranh của hai tốp đó, đình được thêm lộng lẫy, và công việc xây đình cũng rất tiện cho sự chia đôi, tốp thứ nhất lợp mái trước, tốp thứ hai lợp mái sau. Tốp thợ Phường nhận bên tả, tốp thợ Nề nhận bên hữu, và mỗi bên cũng có một con rồng, một con phượng, hai con ngựa, hai con voi, hai con hổ, một con kì lân nhỏ một cột trụ, v.v… Cái mặt trang thì hai bên xây chung con kỳ lân ở bình phong. Đại để công việc hai bên chỉ có thế. Nhưng làng có treo một giải thưởng ngót 30 quan để tặng cho bên nào làm mau và khéo léo hơn. Vì thế tất cả dân trong làng từ già đến trẻ, từ quan đến dân đều đặc biệt lưu ý đến các ông thợ nề mà các ông thợ nề cũng nổ hết sức trổ tài để khoa trưng với dân xã. Khi viết mấy hàng này, trước mặt tôi như thấy đứng dậy, hai vẻ mặt, hai dáng người của hai ông thợ cả. Ông thợ Phường đã có tuổi, vẻ mặt hiền lành, đi đứng khoan dung, ăn nói ôn tồn, còn bác thợ Nề thì nét mặt gân guốc, đi đứng hấp tấp, ăn nói lấc cấc… Mà rồi những điều này sẽ có một ảnh hưởng rõ ràng ở trong những "tác phẩm" của họ.

Thợ Phường mỗi ngày chỉ ăn rau cá, cho nên những con voi cho đến những con kì lân con hổ của bác ta có một vẻ hiền lành tội nghiệp lạ lùng… Còn bác thợ Nề thì bình nhật hay hát ghẹo chọc gái, lại bắt chó trong làng làm thịt đánh chén luôn, cho nên những con hổ của bác ta có vẻ dữ dằn đã đành mà những con vật hiền lành như con rồng, con voi, con ngựa cũng có một vẻ hiên ngang bướng bỉnh. Điều này không phải chỉ một mình tôi nhận thấy, mà tất cả những người dân trong làng đều nghĩ như thế. Họ đã trầm trồ dị nghị nhiều lắm về những hành động hàng ngày và tốp thợ nề. Tuy có nhiều kẻ hiếu kỳ thì lấy đó làm một thú. Nhưng phần nhiều các bô lão thì hết sức bình phẩm những cử chỉ của thợ Nề, mà điều này sẽ có một ảnh hưởng quan hệ ở trong sự chấm khảo… Vì phần nhiều các bô lão là người ở trong hội đồng chấm khảo. Phường thợ Nề, thì trái lại rất được những sắp trẻ con và những bọn trai tráng khen phục lắm.

Nhưng người làng cũng đã đoán trước được bên nào sẽ giật được giải thưởng, dầu sao cả làng trong mấy tháng trời, đã sống trong một bầu không khí cảm động hồi hộp… Mỗi phường đều có những kẻ tán trợ và mến phục. Sau những ngày đồng áng mệt nhọc, người trai làng trước khi về nhà, cũng tạt qua đình để xem một cái ngà voi đương vẽ dở, hay một cánh phượng đương vắt dở. Rồi tối về, người ta hội lại dưới bóng trăng để bàn tán về cái tài nghệ của các bác thợ. Người ta tự do nói tràn những cảm tưởng của mình, vì bọn họ không phải là những kẻ định đoạt giải thưởng; định đoạt đã có các quan viên trong làng. Còn họ, họ chỉ có quyền bình phẩm đôi câu ở bên ngoài cửa đình như thế mà thôi. Nhưng thực ra, những đứa trẻ như tôi mới mất ăn mất ngủ vì những con vật kỳ quái của các bác thợ kia. Không mấy đêm là tôi không nằm mê thấy kỳ lân hay cọp đuổi. Mà có lẽ là con cọp của bác thợ Nề. Đời tôi sau này đã bao lần thấy cọp, những con cọp thật, nhưng chưa có con cọp nào hung dữ như con cọp ấy của tuổi thơ ấu… Mỗi khi ở Hà Nội về, đi qua đình tôi thường đứng lại ngắm nghía con cọp ấy của tuổi trẻ, của bác thợ Nề. Nhưng con cọp ấy đã mờ hẳn, dưới lớp rêu xanh, đã trở nên hiền lành dưới thời gian, nhưng mà nó vẫn còn linh động, vẫn hung dữ ở trong tưởng tượng của tôi.

Nhưng đến nay khi tôi viết mấy dòng này thì nó cũng đã bị đập tan, để lấy sành, vì đình nẻ mối ăn, làng làm lại đình mới… Người ta dự toán một món tiền ba nghìn đồng, và người ta làm một cái đình theo kiểu mới. Một cái nhà có gác, những voi cọp cũng sẽ bị đuổi về rừng, rồng phượng về trời. Tôi biết làng tôi đau đớn và tức tối vô cùng. Nhưng trí tôi đã nhận điều ấy như là một việc dĩ nhiên ở giữa một thời đại kiến trúc theo nguyên tắc mới.

 

***

 

Nhưng mà anh tôi đi học tỉnh được một năm thì mẹ tôi chết. Năm ấy tôi lên bảy tuổi… Sau tôi còn có hai đứa em gái. Và khi có chửa một đứa thứ ba thì mẹ tôi thụ bệnh, tôi không nhớ rõ là bệnh gì. Nhưng mẹ tôi đau vật mình mẩy như con cá trên thớt. Đau ba hôm thì bà tắt nghỉ, đến phút cuối cùng bà vẫn kêu la thảm thiết. Em Say tôi và tôi không dám đến gần. Một bận tôi bước vào mẹ tôi nín kêu, ngoắt tôi lại, tôi thấy nước mắt mẹ tôi tuôn như suối, tôi không dám lại, chạy ra ngoài mà khóc. Và từ đó một người chị khác mẹ luôn luôn giữ tôi ở chơi ngoài. Mãi đến phút cuối cùng vào mẹ tôi nhìn tôi với cặp mắt bất lực. Mẹ tôi không nói gì được nữa, không đủ sức mà giơ tay vẫy tôi lại, chỉ nhìn tôi, nhìn tôi một cách thê thảm… Mấy phút sau tôi thấy thầy tôi núm lấy đầu tóc mẹ tôi mà lay mấy cái và kêu tên mẹ tôi… Trời đất! Bấy giờ tôi mới hay là mẹ tôi đã chết. Tôi thấy thầy tôi, dì tôi, các anh, các chị tôi khóc, tôi cũng kêu gào… và người ta kéo tôi ra ngoài, bấy giờ vào khoảng mười giờ đêm. Một ngày mưa to gió lớn. Một ngày về đầu mùa đông. Tôi nằm trên võng với chị tôi, tôi kêu khóc một hồi, rồi ngủ đi lúc nào không hay, đến vào khoảng nửa đêm có tiếng động, tôi thức giấc dậy. Anh cả tôi vừa về đến nơi. Đây là người con mẹ đích, và là anh trưởng của tôi, anh bình sinh đối với mẹ tôi có cảm tình, nên nghe tin mẹ tôi đau nặng thì đương buôn ở trên nguồn, anh lặn về ngay. Trời tối anh phải lội qua một cái suối, nước ngập tận cổ. Anh tôi về, dì tôi mới thuật lại cho anh trưởng tôi nghe những phút cuối cùng của mẹ tôi. Mẹ tôi chỉ có một lần hỏi thăm anh Lai tôi đã về chưa, và bảo dì tôi dẫn thằng "Cọt" vào cho bà. Bà không trối được một câu nào về việc nhà. Bà chỉ ngâm với dì tôi một câu ca dao:

Ra đi thì thực đã liều

Mưa mai chẳng quản nắng chiều cũng cam.

Than ôi! Chỉ có thế… Người đàn bà cần cù lam lũ, suốt một đời chỉ dốc một đạo thờ chồng nuôi con, người đàn bà đã dậy tôi sự yêu thương, người đàn bà đã chết trên một lời nói lạnh lùng. Cuối bài văn tế của thầy tôi khóc mẹ tôi có câu:

Liu liu ngọn gió, thổi sầu lên, trời bạc có hay nông nỗi ấy,

Lác đác mưa sa, đưa thảm xuống, suối vàng có thấu ít nhiều chi?

 Câu thơ linh động đã linh động được cả cái buồn của đứa con mất mẹ, một cái buồn vất vơ theo ngọn gió thổi khắp nhân gian, lay động cả một vùng trời đất. Cái buồn như với giọt mưa thấm từng giọt, từng giọt, xuống cái lối âm u của những kẻ chỉ còn là những vong hồn.

 

***

 

Khi anh Lai tôi (do người bà con bên ngoại vào tỉnh đón về) vừa bước vào nhà thì người ta vừa đậy xong nắp quan… và đương đóng những cái ruộng hòm. Anh tôi không thể làm gì được chỉ ôm lấy áo quan mà kêu gào, anh tôi vừa khóc vừa nói: "Anh Thừa (người đón anh tôi về) dối con nói mẹ đau nặng, nhưng con thấy nóng ruột quá, qua cầu Lý Hoà con đã muốn nhẩy ùm xuống sông, mẹ ơi!"

Tiếng gào thét ấy làm cho ai cũng phải xé bào đứt ruột. Lúc bấy giờ tôi mới thấy tất cả cái đau xót, cái bạo tàn, cái ghê sợ của cái chết… Tôi biết rằng mẹ tôi không thể chết nhưng còn rất lâu, lâu lắm, mẹ tôi mới trở về với tôi. Từ nay cho đến lâu nữa, chúng tôi sẽ sống những ngày không mẹ, không sự luyến ái, những ngày rất lạnh, cả một mùa đông và còn nhiều mùa đông nữa, chúng tôi sẽ không còn được nằm sưởi chung một lò than hồng đỏ rực với mẹ tôi. Những tiếng vồ đập mạnh vào nắp hoàn làm cho tôi càng thấy cái chết là bạo tàn hung dữ hơn gì hết. Nhưng tội nghiệp cho thằng bé nó vẫn nghĩ rằng: Trước sau mẹ nó cũng trở về, vì chết với nó chỉ là sự tạm bợ mà sự sống mới là đời đời, mãi mãi.

 

***

 

Mẹ tôi chết gia đình tôi lại trở lại chật vật như xưa. Hơn 15 năm trời, mẹ tôi về với thầy tôi, có thể tự hào là lại cho nhà tôi đôi chút yên vui. Nhờ sự bảo tồn của mẹ tôi mà thầy tôi đã cho các con ăn học được. Mà sự học của các con đối với thầy tôi là một điều tối quan hệ. Thầy tôi thường nói với các bạn của ông: "Tôi có bao nhiêu tiền cũng dốc đổ cho con học hết, cái học của con cũng như vốn liếng mình bỏ ra, mất đi đâu? Một ngày khác ta sẽ thu lại hết, cả vốn lẫn lời". Vì thế mà thầy tôi đã phải bán đợ đi nhiều thửa ruộng để cho con ăn học. Mẹ tôi mất đi, cái gánh nặng ấy, lại chỉ một mình thầy tôi gánh lấy. Thầy tôi lại trở về với cái kiếp như ông thường nói: "cái kiếp gà trống nuôi con" thật là bi đát, thật là tội nghiệp, khi thấy ông nhà nho thi sĩ ấy, ngày ngày chạy tiền chợ, tháng tháng lo tiền cơm cho các con ăn học ở xa. Mà nào phải một hai đứa cho xong. Có khi thầy tôi phải chạy cho bốn đứa con ăn học một lúc vì các anh tôi là con nhiều mẹ, nên sàn sàn một lứa với nhau, có khi ba bốn người học chung một lớp, cũng may các con của thày tôi đứa nào cũng có ít nhiều tư chất về đường tinh thần, về đường học tập. Thầy tôi cũng không phải lo lắm, cũng là một điều gần như thành lệ ở trường tỉnh, năm nào có người học trò họ Lưu thì y như là người ấy giữ được cái chỗ ngồi danh dự các anh tôi, không nhất thì nhì, chứ không đến nỗi chịu thua sút các chúng bạn. Người chép truyện này xưa kia khi còn học lớp nhì, lớp nhất trường tỉnh, cũng giữ được cái địa vị xứng đáng với dòng họ: không mấy tháng là không đầu lớp và bất kỳ học với thầy nào, cũng làm cho thầy giáo mến yêu. Cái sự thành công ấy một phần nhỏ là nhờ ở sự phú bẩm nhờ ở "sáo nhà". Nhưng cái phần lớn vẫn là nhờ ở cảnh ngộ. Cái cảnh nhà quê nghèo túng của chúng tôi đã buộc chúng tôi phải chăm học. Thầy tôi không hề khuyên nhắc chúng tôi một lời nào cái cảnh ngộ khó khăn, cái sự thực quá gay go buộc mình, bức mình phải xử liệu lấy. Cái nghèo khổ thật quả là một vị giáo sư đối với người lớn cũng như đối với đứa trẻ con, quả có một hiệu lực ghê gớm. Tôi tự kinh nghiệm ở trong đời học sinh của tôi, tôi sẽ thấy cái lẽ ấy thật là đúng. Những lúc nghèo khổ chính là lúc tôi học được, mà lúc đồng tiền thư thả một chút là tôi đã lơi lả sự học rồi. Tôi nghĩ rằng trong sự giáo dục bọn trẻ con, nhất là trẻ con nhà giàu sang quý, phái nên tập cho chúng cái cuộc đời khó khăn kham khổ của con người nhà đất ruộng, con nhà nghèo khó. Cuộc đời có bao giờ lại mất đẹp đi, khi người ta phải nằm trên một cái chõng tre không một cốc nước vối? Cái cảnh nghèo nàn tự trời đưa lại đã hẳn là một cái vinh quang mà cái cảnh nghèo nàn tự mình vui lòng rước lấy cũng là một cái thú rất lớn lao về tinh thần. Sau cái chết của mẹ tôi, thì tôi như rơi từ một cuộc đời êm ái, dễ dàng xuống một cuộc đời nặng nề, khó khăn… Xưa kia đứa bé ấy chỉ biết có sự nuông chiều, sự thân ái của cha mẹ. Nếu có những nỗi buồn, thì cũng là cái buồn về tinh thần mà thôi. Những cái buồn của cảnh giàu sang no đủ. Nhưng bây giờ thì nó đã biết thế nào là sự thiếu thốn, sự cay cực, nó đã bắt đầu thấy trong miếng ăn hàng ngày có cái vị đắng cay của lao khổ. Cuộc đời đối với đứa trẻ lên bảy lên tám cũng không bớt khắt khe. Xưa kia tôi có một cái áo lụa, một cái áo lụa xanh, một đôi giày dừa, tôi có cả một tấm yêu thương của bà mẹ để che chở cho tôi như tấm khiên của chiến sĩ. Nhưng bây giờ số mệnh vất tôi ra giữa cuộc đời không một khí giới cầm tay, nếu như tôi chẳng có cái sức mạnh của máu huyết, cái sức mạnh truyền lại cho tôi bởi dòng họ, thì có lẽ đã bị thải từ thủa ấu thơ. Vẫn biết cái sự nghèo khó như cơn gió bão làm bật thân cây, nó đã đưa lại cho tôi một lòng tự tin chắc mạnh nhưng giá tự tôi chẳng có một năng lực đầy đủ để chống giữ lại, thì đời tôi đã bị bẻ gẫy đôi như thân cây lau sậy. Tôi đã qua một lần, rồi tôi đã qua bao lần nữa. Bây giờ thì những sự đau khổ dồn dập, liên tiếp đã làm cho tôi như tấm thân trăm mài nghìn rũa, tôi tin ở tôi nhiều, mà tôi sợ rất ít, những sức mạnh tàn phá xung quanh tôi. Có lẽ trong cái đời văn sĩ Việt Nam này, tôi đã nếm đủ những sự đau khổ không tên không dạng, nhưng đã đàn áp được những đau khổ ấy là nhờ cái sự kinh nghiệm rất cũ kia, cái kinh nghiệm từ thủa ấu thơ, cái kinh nghiệm đầu tiên của con người, trước những đau thương ở trên thế gian.

Ngày nay chàng trai 30 tuổi trong sự tranh đấu với cuộc sống, lẽ nào lại chẳng thu được những trận thắng, như cái cậu bé lên mười… Nhưng các cuộc chiến thắng vinh quang hơn hết, cuộc chiến thắng lớn lao hơn hết của đời tôi vẫn là cuộc chiến thắng đầu tiên của một cậu bé vừa rời khỏi tuổi ấu thơ, cậu bé chưa quá 11 tuổi. Nhưng cậu bé ấy đã là bạn rất thân của những sự nghèo khổ.

Cậu bé ấy thông minh chẳng là bao, nhưng cậu bé ấy quyết thắng mình, và quyết thắng cảnh ngộ.

Cậu bé có khi phải ăn mặc như con nhà tá điền, áo quần mặc toàn nhuộm màu nâu, cái mầu của đất đai, cơm ăn thì cũng toàn cơm gạo đỏ trộn khoai. Nhưng mà cậu bé ấy đã quyết thắng, và muốn ngừa trước sự gian lao, một hôm cậu bé bàn với cháu cậu là một cậu bé cũng ngang tuổi với cậu: "Chúng mình thế là luôn hai tháng nghỉ hè, sẽ ăn toàn ngô khoai trộn muối mè, sống chết với cái món ăn không thay đổi ấy". Hai đứa chúng tôi cũng cương quyết như nhau, cũng hăm hở như nhau. Tôi viết một tờ hợp đồng, cả hai chúng tôi đều đứng tên, và nhờ chị tôi đứng làm chứng hộ. Người ta cười sự ngông cuồng của chúng tôi, và tin rằng chúng tôi có giỏi lắm thì cũng chỉ chống cự đến ngày thứ mười. Một điều chẳng ai ngờ mà chúng tôi cũng không ngờ là: Đến ngày thứ 60, chúng tôi vẫn ăn bữa cơm sau chót với một vẻ sung sướng, vui thích lạ thường. Chúng tôi đã thắng được chúng tôi, và cũng là thắng trận vẻ vang nhất của đời tôi. Đã chịu khổ được thì thôi tôi còn chịu lui trước sự khổ nào? Từ nay trên con đường từ làng đến tỉnh, chúng tôi đã đạp thắng được những sự gian nguy. Vì bấy giờ chúng tôi đã lên học tỉnh, mà nhà chúng tôi cũng đương ở một cảnh quá nghèo ngặt, cái sự học của các con đã buộc thầy tôi lần hồi bán hết những gia tài cỏn con của chúng tôi. Ngoài bọn chúng tôi đương học ngoài tỉnh, còn có đến hai người anh tôi được học Quốc học ở Huế, mà sự học ở Huế phải tốn gấp bội. Thầy tôi chu cấp cho hai anh tôi ở Huế cũng đã là một nhọc nhằn lắm rồi, còn đủ sức đâu mà lo liệu cho chúng tôi ở tỉnh.

Chúng tôi phải tự lo liệu lấy để sẻ bớt gánh nặng trên vai cái ông nhà nho nghèo ấy.

Nguyên lúc bấy giờ ở trường tỉnh, hình như tất cả trường tỉnh có một cái bourse.[a] Tôi bèn xin phép thầy tôi đâm đơn dự thi. Tôi bấy giờ đương học lớp nhì, mà nguy quá, trong bọn thì bourse ấy lại còn lại có học trò lớp nhất nữa, và tôi nhớ người dự thi cũng chẳng dưới năm mươi người. Tôi phải giật cho được  cái bourse, vì lẽ rằng, hỏng, thì tôi và đứa cháu tôi khó lòng mà theo học cả hai đứa được. Hôm thi cũng có vẻ nghiêm trọng lắm. Tòa phán ông quan kho bạc qua làm chánh khảo, và bài thi chỉ có món ám tả, môn luận chữ Pháp và món tính. Khẩu vấn chỉ có bài tập đọc chữ Pháp. Tôi không nhớ sức học lúc bấy giờ của tôi được bao nhiêu, nhưng quyết không phải cái sức học tôi hoàn toàn đã làm cho tôi đậu, tôi tin rằng vì lòng quyết thắng quá mạnh ở trong tâm trí mà tôi đã thắng được ở trong cuộc thi. Mỗi tháng có bốn đồng bạc. Nhưng lần đầu tiên tôi được ông Đốc trường gọi lên để ký giấy lãnh món tiền bourse ấy, tôi cảm động quá đến nỗi quản bút tôi run cầm cập. Người thư ký giao cho tôi 12$00 (vì lãnh ba tháng một lần). Tôi sung sướng sửng sốt nhìn người thư ký với đôi mắt chân thành cảm tạ. Tôi tưởng như chính người thư ký kia đã thí cho tôi cái du ấy mà tôi cũng quên phứt đi rằng: cái công ấy là chính cái công của tôi, đó là chiến quả một cuộc tranh đấu gay go. Tôi biết sức học tôi chưa dễ cho tôi đoạt được cái phần thưởng tối vinh dự ấy. Nhưng chính nhờ cái hoàn cảnh éo le của tôi đã giúp tôi lợi dụng hết tất cả những năng lực của tôi. Tôi tranh đấu mệt nhọc nhưng tôi đã thắng một cách dễ dàng. Nhờ cái bourse nhỏ ấy, tôi đã nuôi thêm được đứa cháu tôi cùng học với tôi. Mỗi tháng tôi giữ lại năm hào để tiêu vào áo quần giấy bút, còn 3$50 tôi giả tiền cơm cho cháu tôi. Thân tôi cũng chẳng như bận lòng tôi vì bấy giờ tôi đã xin dậy sắp trẻ trong một nhà ở thành phố, vì thế tôi được có chỗ ăn khỏi phải trả tiền. Nhưng những sự chật vật ấy đã thấm vào đâu với những ngày phải cuốc bộ đến hơn năm chục cây số. Những cuộc hành trình mệt nhọc vô cùng đó với một đứa bé vừa khỏi mười tuổi, bây giờ để lại trong tâm trí tôi những kỷ niệm thú vị. Tôi nhớ có lần thầy tôi, trước khi lên tỉnh chỉ phát cho tôi một hào bạc. Một hào bạc với một con đường hơn 50 cây số. Cũng may tôi đã có mang sẵn cơm nắm với muối mè. Mà một hào bạc ấy chỉ dùng, theo ý thầy tôi, dùng vào việc xe cộ.

Điều ấy sẽ làm cho các cậu bé bây giờ cười mỉm. Nhưng quả là hào bạc của tôi có một giá trị lớn lao… Với hào bạc ấy, tôi có thể trả được đoạn đường dài ít ra vài chục cây số. Sự nghèo ngặt đã buộc bọn học trò nghèo như chúng tôi phải ứng biến ra trăm cách.

Nguyên nhân bấy giờ ở trong tỉnh tôi đã xuất hiện những thứ xe gỗ lần đầu tiên để thay cho những chiếc cáng trạm và đò trạm. Nói xe gỗ, thực ra bánh xe cũng có một vành sắt bên ngoài. Xe mục mịch trông đằng sau như con vịt mà lại có một tiếng kêu rề rề lách cách. Xe đóng ra để chở một người hay hai là cùng, nhưng vì sự cần dùng ở trên quãng đường buộc nó phải gánh lấy cái công việc của xe ngựa hay xe ô-tô buýt, nghĩa là trên cái chiếc xe nhỏ ấy người ta cũng chia ra tầng hạng khác nhau. Nếu là không có hàng hoá gì thì thường thường xe chia làm ba hạng khách, hạng thường trả rẻ tiền ngồi ở trên chỗ mui xe xếp xuống, rồi đến khách hạng giữa ngồi ở chỗ người ta thường ngồi, khách này phải trả gấp đôi, khách hạng ba ngồi ở chỗ người ta đặt chân, khách này trả rẻ tiền hơn hết. Nhưng tôi nhớ có một cái xe do người lực sĩ tên là Ba Muông kéo thì bao giờ cũng ít ra là năm người, có khi hai người ở tầng thượng, hai người ở tầng trung, hai người ở tầng hạ và đôi khi có kèm thêm một người thứ bẩy nữa ngồi ở trên gối những người khách ở hạng trung.

Tôi chưa được cái vinh dự ngồi xe bảy nhưng xe năm là cái thú rất thường của chúng tôi. Bao giờ tôi cũng ngồi ở tầng thượng. Những lúc xe xuống dốc thật là một cái thú hồi hộp hiếm có. Đoạn đường từ làng tôi đến tỉnh, phải qua nhiều đèo cao, nhiều dốc thẳm, và có nhiều chặng chỉ xà theo mé biển, ở những chặng ấy mà được ngồi xe Ba Muông thì bây giờ tôi cho là một cái thích khoái to nhất của đời thơ ấu. Tuy rằng từ trên đường cái là nơi lưng chừng núi xuống mặt bể có khi sâu đến vài chục thước tây, nhưng những lúc ấy mà được ngồi thượng tầng xe Ba Muông, thì khi xe xuống đèo, mình thấy hồi hộp từng giây từng phút, luôn luôn sà sà bên vực sâu bên cái chết, mà kì thú! Bao giờ lòng trí đơn sơ của chúng tôi cũng vững tin ở sự vững chắc của đôi dò Ba Muông, như tướng sĩ tin ở những thành trì kiên cố. Trên cái quãng đường từ làng đến núi, một phần là đèo là núi. Nếu trong lưng tôi có một hào bạc, và tôi có muốn chễm chệ phóc lên xe chính là vào những chặng đường đèo ấy. Trên một trạm đường 15 cây số, với cái chỗ ngồi ở tầng thượng, người cu li khó tính lắm cũng chỉ đòi một hào là cùng.

Thường thường thì chúng tôi đổi phiên cho nhau như lính thay phiên gác vậy, tôi ngồi ở chặng đèo thì cháu tôi ngồi ở chặng Lý Hoà chợ đón. Và người bạn của tôi ngồi ở chặng chót từ chợ dinh vào đến tỉnh. Những đứa trẻ nào nhiều tiền thì ngồi luôn ở trên xe một hơi từ nhà đến tỉnh, còn những học trò nghèo như chúng tôi thì chỉ đi xe chặng (như tiếng chúng tôi thường gọi lúc bấy giờ). Những đứa đi xe chặng thì thường thường phải giữ khăn gói trên xe rồi tay không vịn vào xe, như thế mình đã đuổi kịp xe và đôi khi lên dốc, mình cũng phụ một tay giúp người cu li đỡ vài vòng bánh, chạy kịp xe thì đêm hôm qua quãng đường rừng núi, không sợ cọp beo mà lại có khi được góp chuyện với các bạn trên xe nữa. Gặp được người cu li vui tính thì thật cái quãng đường trên 50 cây số chúng tôi đã qua đi như qua một giấc mộng thần tiên, hắn hoặc cất giọng hò để chúng tôi cùng "hồ khoan" theo, hoặc tỉ tê kể cho chúng tôi nghe những chuyện tiếu lâm hay những chuyện đời xưa. Tôi nghĩ chính trong những giờ ngày ấy, chúng tôi đã được sống trong cái mùi hương thơm phức, trong cái vị thực thà của đất nước. Tuy cái xe gỗ ấy có khác với cái chiếc cáng hay con ngựa đời xưa, nhưng tôi có thể tự hào là đã sống lại được ở trong cái bầu không khí cũ kỹ và cảm động của thời xưa. Cái thời mà người ta cơm đùm cơm nắm ngày đi đêm nghỉ kéo nhau tới "Tràng An" để tranh đấu nhau ở trường văn trận bút… Cả một lớp người lam lũ mà thích thú biết bao! Ai ai cũng có ít nhiều to rộng, luôn ngay ở ngay trong lòng dạ, trong chí nguyện.

 

***

Nhưng cái sự cay cực của chúng tôi thực đã đến điều!!! Lãnh lấy hai hào bạc (mỗi đứa một hào) do thầy tôi phát, tôi và thằng cháu tôi chỉ buồn buồn trong một giây phút mà thôi, rồi như nâng đỡ bởi một cái sức mạnh nào ở bên trong, chúng tôi lại vui vẻ như thường. Lần ấy trước khi "xuất hành" tôi cầm một nén hương lén ra mộ mẹ tôi thắp và khấn một hồi. Tội nghiệp thằng bé, nó chẳng có ý cầu nguyện với mẹ nó một điều gì đâu, chỉ vì nó quá thương nhớ mẹ mà nó phải nhóm lên một hơi nóng ở trong lòng dạ. Trong óc nó, cái chết không chia rẽ người thế gian như người ta tưởng. Người chết vẫn gần gũi, vẫn quanh quẩn bên trong xóm mạc, ở trong nhà cửa. Người chết chẳng có thể ở xa được, vì người chết vẫn còn thương còn nhớ, nghĩa là còn sống. Nó không thể tin rằng mẹ nó chết được, và có thể chết, có thể nguội ở trong lòng, cái tình khăng khít, âu yếm đối với con. Cái tình ấy không thể chết được, nó vẫn tin là vẫn gần gũi nó, biến hình đi để tự do nhìn những cử chỉ của người quen thuộc, được nghe những giọng nói của người thân yêu. Đã đành là mẹ nó không chết. Nhưng tại sao, cái lòng thương mẹ mà nó lại ra bộ vụng trộm, chùng lén, chỉ sợ người nhà gặp biết được? Chỉ tại cái e lệ là cái áo che những đức tốt, tính thật thà, chất phác. Một ngày kia, những đứa trẻ, những cô gái, những con người đã cởi bỏ cái áo e thẹn, thì cõi nhân gian này còn gì, nếu không phải là chật ních những bọn đầu ngựa mặt trâu?

Bây giờ tôi nghĩ lại, thì có lẽ cái việc tôi ra cáo trước mộ mẹ tôi cũng là có ý xin mẹ tôi chứng giám cho cái thân cô khổ của đứa con yêu chiều của bà. Trên một con đường trên 50 cây số, cái chút vinh dự thừa, dự một phần chót chỗ ngồi trên cái xe khổ kia, tôi cũng không có nữa. Vì tôi đã quyết với đứa cháu tôi là không đi xe nữa, quyết cuốc bộ một thôi cho đến tỉnh. Hai hào bạc sẽ dùng mua xà phòng giặt quần áo cho trắng.

Nhưng cái ý nguyện cỏn con ấy cũng chẳng thành được. Đi khỏi đèo, mệt và đói quá, chúng tôi đã ních mỗi thằng một bụng xôi chè, khiến cái ngân sách ấy đã hao hơn phần nữa. Tuy chúng tôi nhịn đi xe, nhưng trời nóng quá chúng tôi mệt lả luôn luôn phải ghé vào quán hay núp dưới bóng cây. Lại có lúc đường đá nóng quá bỏng cả chân, chúng tôi phải kiếm những tàu lá chuối kết làm dép. Bây giờ tôi còn thấy rõ trong trí tưởng hai cái bóng của hai đứa trẻ, dưới mặt trời tháng bảy, tay cầm một cái dù kết với lá cây, và chân đi đôi dép chuối, cái bóng tròn như hai cái thùng con, vì bấy giờ trời đương đúng ngọ. Hai đứa bé vẫn đi, cảm động và phấn khởi.

Chúng tôi sung sướng nhìn nhau cười. Tôi nhớ đến bà chủ nhà của chúng tôi, nơi tôi đương dạy mấy đứa trẻ. Kể hiền lành thì bà cũng hiền lành, nhưng vị tất bà đã tốt bằng cái mụ đàn bà quý hoá ở trong sách. Những cuộc hành trình của chúng tôi đến đây là hết, sự nghèo khổ có cho chúng tôi được rảnh mà nghĩ đến sự phiêu lưu. Chúng tôi chỉ có một sự học, học thế nào cho giỏi để bù lại cái nghèo. Cố nhiên là công ấy, chí ấy sẽ thu được kết quả mong đợi.

Không mấy tháng là tôi không đầu lớp. Và cuối năm lớp nhất, tôi được đầu kỳ hạch tấn ích. Tôi lại đậu đầu kỳ thi biểu học nữa. Ông chánh chủ khảo là người Pháp rất hài lòng về người ứng thí của ông, cho nên ông lại thưởng riêng cho tôi một kỷ niệm nữa. Đã được thưởng về đầu lớp lại thưởng về đỗ đầu, tôi mang cả một chồng sách về khoe với thầy tôi.

Tôi định chẳng nói một câu gì để tỏ lòng căm tức với thầy tôi nhưng tôi ngạc nhiên hết sức, khi thấy thầy tôi chẳng ngạc nhiên chút nào về tài học của tôi.

Thầy tôi coi cái kết quả của tôi là một việc rất dĩ nhiên. Tôi biết ở thầy tôi có một lòng tin vĩ đại ở mình, ở "sáo nhà", ở "dòng dõi". Không phải là thầy tôi bảo rằng chúng tôi có máu tốt nghĩa là chúng tôi là một giống thông minh. Không, tôi hiểu thầy tôi lắm, thầy tôi chỉ dạy con có một chữ. Cái chữ thầy tôi thường nói là chữ "nhẫn".

"Nhẫn" theo thầy tôi nghĩ là qua. Chịu đựng được sẽ là qua được.

Đứng lâu hơn bên địch, ta sẽ thắng quân địch.

Đứng lâu hơn sự nghèo khổ, ta sẽ thắng sự nghèo khổ.

Đứng lâu hơn hoàn cảnh, ta sẽ thắng hoàn cảnh.

Đứng lâu hơn cảnh ngộ, ta sẽ thắng cảnh ngộ.

Đứng lâu hơn người, mình sẽ thắng người.

Chữ "nhẫn" theo sự hiểu biết của thầy tôi là nghĩa như thế. Sự hiểu biết rành rọt ấy chỉ giúp cho tôi thu được một cái thành tích rực rỡ đầu tiên ấy mà thôi. Sau này, trong nhiều lần tôi đã chịu lỡ dở, nghĩa là chịu thua cảnh ngộ, chí nguyện đã phải quy hàng cảnh ngộ.

Nguyên nhân vì đâu? Nhưng cuộc đời tôi cũng như tâm hồn tôi là một cái gì rất phiền toái. Tôi không thể nào phân tách rõ ràng để tiện một hồi kết luận. Thực ra nhiều lúc tôi thấy đời tôi là một dãy những sự dở dang ấy, đôi khi tôi thấy có một cái gì liên tiếp rất duy nhất, cái gì in như một sợi dây luồn qua những vòng khuyên vậy. Nếu một vòng khuyên là một sự dở dang thì đời tôi toàn những sự dở dang như thế.

Đã lâu đời tôi biết tôi không có một cái kiên nhẫn nho nhỏ để học thuộc một bài văn, hay tôi không đủ kiên nhẫn để tập luyện một nghệ thuật tôi thích, nhưng hồn tôi quả là một khối duy nhất, "bảo dưỡng" ở trong một tấm tình to lớn không biết mệt mỏi. Tôi đã phụ bao nhiêu ý nguyện nhưng tôi vẫn một niềm chung thuỷ với những tấm tình, chẳng hạn như khi tôi giữa bao cơn sóng gió, tôi vẫn đưa dẫn về đến bến, cái tấm tình trìu mến đối với một người bạn, với một người anh, một tấm tình phải kể từ chục năm. Như thế tôi chỉ thực hiện được cái điều thầy tôi dạy có một nửa, mà một nửa cũng vẫn là một sự dở dang. Tôi thành công ở chỗ này thì tôi đã thất bại ở chỗ kia. Nhưng ở chương này tôi chưa muốn nói đến sự thành công và thất bại của đời tôi.

Không phải là tôi sợ nói tới tôi, mà bản ý tôi còn muốn thuật xong cái tấn kịch lâm ly đã diễn ra ở trong gia đình tôi như chương trên các bạn đọc đã thấy, mẹ tôi là cái trở lực lớn lao trong cái ý chí của thầy tôi: muốn rằng con dầu khác dòng trước hết phải là con cha, nghĩa là con một dòng.

Nói có vong hồn mẹ tôi chứng giám, với cái chết của mẹ tôi, thầy tôi hoàn toàn đã đưa sự nhất thống lại cho gia đình tôi. Xưa kia tôi chỉ là đứa con nuông chiều của mẹ tôi, cũng thể như con vật nuôi trong cái chuồng yêu đương. Tôi biết về đường tình cảm, về đường tinh thần, mẹ tôi đã dạy tôi nhiều điều. Nhưng dầu sao thì tôi vẫn là đứa trẻ nhỏ của tấm tình mẫu tử. Ở trong tôi tuy có phát huy trên hết các đức tính hiền hoà, mà cái thế giới của tôi vẫn là một thế giới hẹp hòi. Sự giáo dục của tôi quả chưa được đầy đủ. Cái chết của mẹ tôi đã mở rộng biên giới trước mặt tôi, về đường tinh thần cũng như về đường hình thức. Bây giờ chính là lúc tôi được tự do làm quen với các người anh khác mẹ với tôi, và một thứ tình mới cũng bắt đầu nảy nở ở tôi. Bây giờ cũng chính là lúc tôi làm quen với đất ruộng, với núi rừng, với sông lạch. Một cuộc đời thảnh thơi rộng mở ra trước mặt tôi. Tôi còn tìm ở đây một bà mẹ thứ hai để hoàn thành cái giáo dục của tôi vậy.

 

***

 

Từ nhỏ tôi được hưởng thụ bốn cái giáo dục, giáo dục của thầy tôi, giáo dục của nhà trường hay của sách vở, giáo dục của mẹ tôi và giáo dục của một bà mẹ khác là đất ruộng. Hai nền giáo dục trên dạy tôi phán đoán suy nghĩ, hai nền giáo dục dưới dậy tôi yêu đương và trìu mến các sự vật… Nền giáo dục trên mở trí não tôi, nền giáo dục dưới mở lòng tôi, gợi cho tôi một thế giới tình cảm.

Đời tôi đã bao lần thay đổi tư tưởng ý nghĩ. Nhưng cái duy nhất ở trong lòng người, cái duy nhất về tình cảm tôi vẫn giữ cho đến bây giờ. Tôi vẫn thấy thuỷ chung với những tấm tình đã đến trong lòng tôi. Cái sự dồi dào và bền bỉ của tấm tình ấy là công ơn giáo hoá của hai bà mẹ… Bà mẹ nọ tôi đã nói tới nhiều rồi, ở đây tôi chỉ muốn nói tới cái bà mẹ kia là đất ruộng.

Tôi đã nói ở chương trên, sở dĩ tôi làm quen với đất ruộng được, là nhờ người anh tôi giới thiệu. Người anh tôi thủa bấy giờ thật là một người con hoàn toàn của đất ruộng.

Mẹ tôi còn thì bà vẫn giữ tôi lại trong cái cảnh êm ấm ích kỷ, không mấy lúc tôi đi ra khỏi cái con đường cản là con đường phân chia xóm nhà với đồng ruộng. Ngày thứ nhất bà không ở bên cạnh tôi nữa thì tôi đã thành gần như là một đứa con hoang…

Khi mẹ tôi còn thì những đứa trẻ khác ngay cả những anh khác mẹ tôi, vẫn đến với tôi một cách dè dặt. Đôi khi tôi có thấy chúng đưa tay ngoắc từ đường xa thì tôi dầu có chạy theo cái tiếng gọi "màu nhiệm" ấy tôi cũng vẫn ngoảnh lại xem chừng mẹ tôi… Thủa bấy giờ, tôi là thằng bé sáu tuổi vẫn có cái gì giống như con dê của ông Séguin, tôi giống nó ở sự thèm khát nguy hiểm, thèm khát tự do. Biết bao buổi chiều thủa ấy đã đen sẫm lại trong tâm hồn tôi… Tôi tưởng có thể một ngày kia, tôi sẽ bỏ mẹ tôi mà đi xa… đi rất xa theo những đứa trẻ nào giống vung vào giếng Mây, vào Sêu Lù… vào Trại. Những cái trên đối với tôi cũng khêu gợi như những cõi mầu nhiệm… nhưng bất thình lình mẹ tôi đã bỏ tôi mà đi, thì tôi thấy rơi vào một cuộc đời không biên giới… Thầy tôi chỉ ngăn giữ tôi trong cái thế giới tinh thần mà thôi, về thế giới vật thể thì thầy tôi để mặc chúng tôi, tất cả những đứa trẻ sàn sàn một lứa ở trong gia đình tôi, bây giờ đều quy tụ lại bên một cuộc đời mới… Những đứa trẻ không mẹ ấy, lần thứ nhất ngã vào lòng nhau, những mối thâm tình dần dần thắt chặt lấy chúng; thật là bi thương khi thấy một sắp trẻ bỗng nhiên mà trở nên bồ côi, bỗng nhiên trở nên lẻ loi, thấy mình yếu ớt, rồi theo một tiếng gọi thiêng liêng cùng sáp nhập với nhau trong một đội ngũ, trong một hàng trận.

Những đứa trẻ từ nay không mẹ đó họp nhau lại để mà nương tựa lẫn nhau để mà tìm cách đối phó với sự cô đơn, với sự nghèo khổ. Vì sau cái chết của những bà mẹ, cái lòng yêu thương của một người cha không thể bao dung hết, che chở hết cả cái sắp trẻ lao nhao lúc nhúc ấy. Thầy tôi như là cái mặt trời tận trên cao, đã dọi tới một vùng ánh sáng bao quát, nhưng vẫn không có hiệu lực trong cuộc đời gần gũi, cuộc đời hàng ngày của chúng tôi.

Thật là một sự kỳ diệu, như những đứa bé lên năm lên bảy ấy, không hẹn nhau mà nhích lại với nhau, cầm lấy tay dắt nhau, ôm bọc lấy nhau trước cơn sóng gió của cuộc đời. Từ thủa ban sơ ấy, những đứa trẻ khác mẹ ấy đã ngã vào lòng nhau. Đã trìu mến nhau còn hơn những đứa trẻ cùng một mẹ một cha. Thật là khó hiểu, nhưng đó quả là sự thực khi chúng yêu nhau, bênh vực nhau, mà cái lòng yêu đương ấy, và lòng bao bọc nhau ấy, tuy sau này một ngày một bền hơn, nhưng nó đã bắt đầu từ thủa ấu thơ ấy. Có sự bảo đảm của thủa ấu thơ nên sau này cái lòng thương mến nhau của chúng tôi mới vững chắc. Vì đâu có sự mầu nhiệm ấy. Nếu có một điều có thể cắt nghĩa được là sở dĩ có sự tương ái tương thân bền chắc ấy là tại tất cả chúng tôi đều quy hướng về bên dòng cha mà không nghĩ đến dòng mẹ, không phải chúng tôi là những đứa con phụ phàng với mẹ, nhưng chúng tôi biết rằng mẹ chúng tôi là những người tự ghé vai một chút trong chốc lát gửi vào, đóng góp vào trong cái "vô cùng vô tận" của tôi một ít của mình, phận sự xong, những người đàn bà ấy lại rút ra, tự mình rút ra khỏi cái dòng họ của chúng tôi. Giọt máu của những người đàn bà ấy mang tới, sẽ chìm lẫn đi trong cái biển dòng họ như bột muối ở trong biển cả. Nếu chúng tôi đặt dòng họ lên hết mọi cảm tính ích kỷ, đặt cái vĩnh viễn lên trên cái tạm thời, đó không phải sự phụ bạc của lòng người mà là cái hành động dĩ nhiên của con người biết tư tưởng; những ý nghĩ ấy mãi sau này mới đến với chúng tôi mà thật ra thủa bấy giờ thì chúng tôi trìu mến nhau, thương yêu nhau, là vì chỉ biết nghe theo tiếng gọi của màu nhiệm của huyết thống. Nếu dòng họ của chúng tôi không mạnh, thì đâu đã chiến thắng một cách rực rỡ ở trong đời chúng tôi. Nếu người cha, kẻ đại biểu của dòng họ, không đủ oai quyền để đàn áp chúng tôi thì làm sao mà giúp được sự thắng trận của dòng họ, nhưng nay tất cả những người con đều lấy máu cha làm trọng thì "dòng họ" đã đoạt được sự thắng trận cuối cùng.

Và cũng như đã nói ở đoạn trên, dòng họ đã được đất ruộng giữ gìn cho một cách đắc lực. Điều ấy đã chứng thực cho buổi thơ ấu này. Sau cái chết của các mẹ tôi, bây giờ chúng tôi mới bắt đầu một cuộc đời công cộng, một cuộc đời to lớn vì sống theo dòng máu cha. Sống theo dòng họ, dựa vào đất đai, lần này là lần thứ nhất tôi mới bỏ cái thế giới tình cảm ích kỷ mà sống với đất đai, sống chung với các anh tôi, giữa cái vụng về và man mác của đất ruộng. Tôi biết thêm các anh khác mẹ với tôi tức là lòng tôi mở rộng cho huyết thống, cho dòng họ. Tôi làm quen với đất ruộng tức là lòng tôi mở rộng cho những tâm tình mầu nhiệm sâu xa. Suốt đời giữ được cái rộng lớn của tâm hồn, chả phải tuy nhiên là thủa ban đầu ấy ư? Vẫn biết thủa thơ ấu chúng tôi chưa biết suy luận như những người lớn, những đứa bé kia chỉ biết sống, biết tư tưởng theo những "bản tính" thiên nhiên, sắp trẻ chúng tôi chỉ biết có cuộc sống của bản năng và không bao giờ nghĩ đến sự kiểm soát của bản năng. Theo tiếng gọi nhiệm màu của cơ thể, của "bên trong" chúng tôi đã nằm vào lòng của đất ruộng cái tấm lòng của một bà mẹ. Không phải điều này người Tây đã dạy chúng tôi. Mà giữa đất ruộng và chúng tôi, từ thủa ấu thơ đã có một mối tình ấy, cái mối tình không tên gọi. Đến hôm nay giữa cái tuổi ba mươi tôi mới gọi được những điều ấy bằng những danh từ dòng họ hay đất ruộng, nhưng thủa bấy giờ chúng tôi chỉ âm thầm chịu những năng lượng hữu ích của dòng họ, của đất ruộng. Hơn ba mươi năm trời mới gọi ra được một cái tên. Nhưng những sự thực ấy đã đến giữa chúng tôi từ thủa ban đầu kia không phải ba mươi năm mà phải gọi là ba ngàn năm vì không phải một mình chúng tôi, cả dân tộc Việt Nam từ ba ngàn năm nay sống giữa hai sự thực căn bản ấy, chịu sự giáo hoá của dòng họ và đất ruộng, thế mà cha ông ta vẫn không hề mệnh cho sự giáo hoá tốt đẹp ấy một cái tên, vì đất ruộng vẫn chất phác ít ỏi chỉ cảm mà không nói. Mà văn minh chính là cuộc đời văn hoá và giả dối, gây dựng bởi những lời nói và những tiếng gọi.

Tôi không nhớ rõ vào tháng nào của mùa hè, nhưng là một buổi sáng tươi đẹp, một buổi sáng lộng lẫy, một buổi sáng mông mênh những ngọn gió Nam từ phương trời này thổi qua phương trời nọ, có cái vẻ ngang tàng rộng rãi… Ngọn gió Nam ở miền tôi tưởng chừng như một hiệp sĩ từ nơi xa lạ, không có dáng mệt nhọc, bâng khuâng… Nó không rên xiết trong một khe cửa giữa một đường phên, nó lên ào ào, trong một lúc tưởng như náo động cả không gian.

Tôi bảo anh Song tôi:

 − Gió Nam sao anh không đưa diều ra thả?

 Song lắc đầu vì Song rất ít nói, Song là người cùng mẹ với tôi. Nhưng tôi rất sợ Song vì Song rất "cú tráu", cú tráu là một danh từ ở vùng tôi để chỉ những người quạu cọ, dữ tợn như con cú con vọ. Chúng tôi thường gọi Song là ông đội điếc và sắp trẻ trong lối xóm đều sợ Song lắm, vì với Song không có sự bông lơn sự đùa cợt… Song bao giờ cũng chơi đùa một cách nghiêm nghị, một cách đứng đắn. Song thường làm cho thằng bé này sưng mặt, cho thằng bé kia viu đầu, có khi chảy máu nữa. Nhưng Song vẫn bảo một cách đứng đắn rằng là Song đùa.

Tôi còn nhớ rõ một lần Song đánh cờ với Gieo, − thằng cháu của tôi, cố nhiên là Song thua. Song thua, Song bí, vì không bí thì làm sao sinh chuyện được. Song đã sinh chuyện với Gieo và lấy quân cờ liệng vào đầu Gieo. Cố nhiên là máu ở đầu chảy ra lênh láng vì quân cờ của chúng tôi lúc bấy giờ đâu phải là bằng sừng hay bằng nhựa mà là bằng gạch, chúng tôi kiếm những viên ngói vỡ, mài giũa cho tròn và lấy than viết chữ lên trên. Còn bàn thì chúng tôi kẻ trên cái sân vôi. Gieo bị nạn chỉ ôm đầu khóc, và cũng chỉ khóc mà thôi, vì bất lực trước sự cú tráu của Song. Song cũng không chừa tôi, nếu có dịp tốt, Song không quên véo tôi một cái vào má hay nhổ ngược một đám tóc gáy của tôi. Tôi có khóc rú lên, mẹ tôi chạy tới thì Song bảo là Song đùa. Ấy, Song vẫn có cái lối chơi chết người ấy. Đã lắm lúc mẹ tôi trừng phạt Song một cách rất nghiêm mà Song vẫn không chừa. Và tôi vẫn không hết sợ Song. Ở vùng tôi có giống diều hâu rất hung, đã làm tai vạ cho những đứa bé. Mỗi khi những đứa bé mang thịt đi biếu, những con diều hâu thấy, từ trên cao nó đâm nhào đầu xuống kẹp lấy miếng thịt biếu ở khay rồi lại bay vút lên, những đứa bé chỉ kêu trời. Những con diều hâu rất tai hại cho những con gà con. Mỗi khi diều hâu thấy một đàn gà con là nhanh như cắt, thế nào diều cũng “gắp” được một con. Nhưng thường thường thì con gà mẹ khi nhìn thấy cái bóng con diều hâu từ xa in xuống đất, thì con gà gô mẹ đã kêu lên một tiếng oang oác to, đàn gà con vội chạy lại rúc vào dưới đôi cánh gà mẹ xoè ra để che cho con.

Song đối với sắp trẻ và đối với tôi cũng gần như con diều hâu. Mỗi khi sắp bị nạn thì tôi chạy lại với mẹ tôi, nắm lấy chéo áo mẹ tôi. Song ở đằng xa nhìn tôi một cách bất lực, một cách thèm thuồng, vì tôi cũng thể như một cái mồi béo đối với Song. Rồi tôi tưởng rằng sau cái chết của mẹ tôi thì tôi sẽ là con gà con, không có đôi cánh mẹ che chở kia…

Nhưng sau cái chết của mẹ tôi thì tai nạn kia không hề xảy đến cho tôi, vì chính Song cũng thấy mình lẻ loi không che chở trước sự đàn áp của cuộc đời. Con người thân yêu bỏ đi, những đứa bé cảm thấy cần phải dịch gần lại với nhau, dẫn dắt nhau bao bọc nhau. Sau cái chết của mẹ tôi, thật là bắt đầu một cuộc đời toàn những tươi đẹp bất ngờ, vì không gì tươi đẹp và cảm động bằng cái cảnh những đứa trẻ thấy lẻ loi lạnh lùng cùng xúm tựa vào nhau. Không ai dạy chúng tôi điều ấy, đó chỉ là một sự hấp dẫn đã nảy ra tự trong máu huyết.

Song đã bớt "cú tráu" đi nhiều sau cái chết của mẹ tôi. Những giữa sắp trẻ chúng tôi Song vẫn giữ cái địa vị ưu đãi. Chúng tôi vẫn kính nể Song. Song chinh phục được chúng tôi vì sự tàn bạo thì ít mà về tài xảo của anh thì nhiều, vì Song từ lúc nhỏ đã là một đứa khéo tay khéo chân. Song làm gì cũng được, dưới những ngón tay linh động của Song, những sự vật đã biến chuyển như tà thuật. Những hòn đất sét đã sống một cuộc đời huyền ảo dưới ngón tay của Song đã từ bản chất thô bạo, nó đã biến thành cái xe, con trâu, con bò, con ngựa và có thể nói là tất cả những gì là kỳ lạ mà Song nhìn thấy ở chợ phiên và ở trong đời Song.

Không những đất thó, mà thanh tre, viên gạch, sợi mây, dưới tay Song cũng có một cuộc đời biến ảo, thật là kỳ diệu khi cùng với những thanh tre ấy, hoặc tôi, hoặc thằng Gieo, hoặc anh Lạc tôi, cũng vót cũng cứa nhưng con diều của chúng tôi không bao giờ "lên" được và chỉ có "sai quay" mà thôi. Nhưng những thanh tre đã được Song truyền cho phép lạ, và khi nó đã hoàn toàn thành con diều thì nó "lên" ngất tầng mây, không phải là Song hiểu luật cân đối hơn chúng tôi mà con diều của Song đã "lên" được chỉ tại Song, theo sự tin tưởng của chúng tôi lúc bấy giờ, Song có "tay diều".

 

***

 

Tôi hỏi lại Song:

− Gió thế ni sao không thả?

Song vẫn lắc đầu, và chỉ lắc đầu. Tính Song không bao giờ cắt nghĩa. Cũng như có bao giờ Song có véo đứa này, đánh đứa nọ mà cắt nghĩa vì lẽ gì... Nhưng cái cớ tại sao Song không đi thả diều tôi hiểu: Cái cớ là tại tôi rủ Song trước mà Song không muốn cho ai rủ Song bao giờ.

Rồi trong lúc chúng tôi không dè, Song xách diều ra đi. Mà nào biết Song đi đâu. Tôi chỉ còn một cách là tìm Song ở trên trời, nhưng mà ngẩng lên trời tôi vẫn không tìm thấy Song đâu cả, tìm thấy diều Song đâu cả. Tôi đương đứng thơ thẩn ở ngõ, thì anh Tuynh, một người anh khác mẹ của tôi, bây giờ chỉ là một gã nông phu hoàn toàn. Tuynh bảo tôi:

− Cọt có đi ăn năn thì đi với tao.

− Ăn năn?

Nào tôi biết ăn năn là ăn làm sao? Tôi nghĩ đến câu thiên hạ thường kể "ăn năn là sự đã rồi" hoặc giả "ăn năn" trong câu tục ngữ ấy cũng là cái nghĩa ấy chăng.

Nhưng thủa bấy giờ, những đứa trẻ không hay hỏi về những điều chúng không biết. Vì hỏi người ta cũng không muốn đáp. Anh tôi vác mấy cái nỏ đi trước, tôi cứ việc theo sau, theo để biết cái mầu nhiệm về sự "ăn năn". Tôi theo anh tôi qua đồng Phố rồi qua đồng Đuồi là nơi nhà tôi có ít ruộng. Đến nơi, anh tôi cặm cụi đào đất, mở đường, đóng đó. Một lúc lâu mới sực nhớ đến tôi anh tôi biểu tôi, còn thằng này nữa, Cọt muốn "ăn năn" à? Tôi gật đầu, tức thì anh tôi ngoặc mấy đứa chăn trâu lại và bảo với chúng: Và bay đi "ăn năn" cho hắn đi "ăn năn" với; rồi những thằng bé quay lại phía tôi "đi thì đi". Thế là tôi theo chân thằng Đạm con giáo Lâm, thằng Phi con trùm Kệ. Chúng tôi bỏ những đồng lúa muộn màng còn vàng những hạt lúa chín. Chúng tôi tìm đến những ruộng sâu mà người ta vừa cày tráo qua một lượt thứ nhất, những gốc rạ còn nghiêng ngửa giữa bùn. Tôi thấy thằng Đạm bước xuống một cái ruộng như thế, lấy chân lật đi lật lại mấy cái và bảo xuống rầy nhiều năn hơn ruộng "Trùm quân". Tức thì Đạm cởi vất cái khố bên đường ruộng và đưa hàm bảo tôi: muốn ăn thì xuống; tôi cũng cởi hết áo quần vắt lên đường ruộng, rồi theo Đạm và Phi xuống ruộng. Tôi thấy chúng nó làm gì thì tôi làm theo. Chúng tôi nằm xuống rồi hai tay dỡ lật gốc rạ và mò ở dưới đất, dưới chân rạ chúng tôi thấy có những củ đen đen nhỏ bằng hạt bắp. Chúng tôi cào cái lớp da đen rồi bỏ vào miệng. Người vùng tôi gọi "ăn năn" là thế đó. Năn có một vị bùi bùi như đậu lạc, và ăn lâu cũng say như đậu lạc.

Những buổi "ăn năn" của đời tôi thật là vô cùng thú vị. Từ sáng đến chiều tôi quanh quẩn mãi bên gốc rạ. Nhưng cũng nhờ thế mà tôi biết được cái mặt trời ở xứ tôi. Những lúc tôi nằm sóng sượt bên những gốc rạ, thì mặt trời thầm lặng chuyển mình trên đầu tôi, rọi xuống tấm hình sơn đen của tôi một thứ ánh sáng có cái gì như quyến luyến, như nâng niu vỗ về chúng tôi, nó cũng thân mật như ngọn lửa trong một ngày đông vậy.

Trong lúc mặt chuyển mình từ Đông sang Đoài thì cái mình của tôi cũng chuyển lăn mình từ đầu ruộng này qua cuối ruộng kia, khi ngọn gió chiều đã thổi lạnh vào cái bụng rỗng của tôi thì bấy giờ như mới sực tỉnh một giấc mộng, vội vàng đứng dậy ra về. Và chúng tôi hôm ấy đã “đánh một bụng năn” như tiếng người làng tôi thường nói. Rồi tôi về tôi bỏ cả cơm. Nếu trong sự ăn năn quả có một điều gì đáng ăn năn thì chính là điều ấy vậy. Nhưng cuộc sống của ngôn ngữ có nhiều điều mầu nhiệm ta không hiểu tới, biết đâu hai chữ "ăn năn" mà ta thường dùng để chỉ sự "sám hối" thì lại chẳng bắt nguồn ở hai chữ "ăn năn" thô bạo kia?

***

Cái nắng mùa hè thực ra không đưa lại cho chúng tôi cái thú vị của những ngày nắng ráo giữa một mùa mưa lạnh. Tôi không thể nào nói được cái hân hoan của lòng trí, khi thấy những đám mây đen đặc vụt biến đâu mất, để lộ ra một vùng trời xanh ngắt, rặng núi ngàn kia là rặng núi chắn đôi xứ Lào và xứ tôi, như nhích lại gần thêm. Ngày thường thì rặng núi ấy chỉ là một đường viền xanh nhạt ở chân trời. Những hôm tốt trời thì những nét cong của các đỉnh núi cũng nhận thấy một cách rõ ràng. Những hòn núi láng nhất là hòn Chốt Cờ cách xa làng tôi độ ba cây số, những hôm tốt trời như đứng ngay trước mặt tôi, người và núi bỗng nhiên có một mối tình, cái mối tình đối với núi quả là một sự thực ở trong đời tôi. Một mối tình như những mối tình quan hệ khác ở trong đời tôi vậy. Có lẽ đó chỉ là mảnh tình rơi rác lại từ mấy thế kỷ Hán học. Tôi không hiểu vì lẽ gì, cái sự học Tây làm cho sông núi xa nhạt với lòng người, và lòng người hững hờ với sông núi. Một hòn núi đối với bọn người đời nay thì chỉ là một hiện tượng về địa lý. Trong một ruột gan phổi nó, người ta đã giải phẫu ra một cách rõ ràng, nó không giữ một chút gì để gợi được lòng cảm phục của người ta nữa. Nhưng thủa xưa, một hòn núi là một linh hồn và có quan hệ lớn đến đời của một đám người. Một hòn núi không phải là một sự ngẫu nhiên, nó đến với một sứ mạng, nó đã từng có một cuộc đời giữa loài người. Nó là kẻ làm chứng qua các thời đại, chính ở trong văn chương chữ nghĩa cái địa vị của nó mới to lớn. Làng tôi có hai hòn núi lớn là hòn Chốp Cờ và hòn Thầy Bói. Hòn Chốp là đã dự vào một cách thân mật trong cuộc sống hàng ngày của dân xã. Nó đã cung cho dân xã củi đóm để thổi, những cây nhỏ để làm hàng rào, làm đòn xóc, đòn gánh, hay những cái nạng cái dùi, và đó cũng là nơi tụ họp sớm chiều của bọn chăn trâu, nơi chúng hạ những tổ sáo nghệ, những tổ ong ruồi, hay ong cu vẽ, nơi chúng tìm được những chòm mù tru hay những trái đỏ, chúng tôi gọi "đỏ" vì húa là tên của ông "khái" chúng không dám kêu ra. Một hòn núi có quan hệ đến bọn chăn trâu là hòn núi nhà, là hòn núi thân yêu của dân xã. Vì trong dân xã lúc lớn lên ai chẳng là một đứa chăn trâu. Đến như tôi là con của một ông huyện, tôi đã có một đôi giầy dừa, một cái áo địa, một cái quần lụa, thế mà tôi đã theo các đứa nhỏ trong lối xóm đập trâu vào rừng, và có khi tôi đã ở trong ấy từ tảng sớm đến chiều tối. Nhưng hòn Chốp Cờ chỉ có dự phần trong cuộc đời hàng ngày, cuộc đời nôm na của dân xã mà không có một địa vị gì quan hệ trong cuộc đời tinh thần, cuộc đời văn chương của dân xã. Hòn Chốp Cờ chỉ là hòn núi của anh neo chú ngổng. Mà hòn Thầy Bói mới là hòn núi của thầy khoá anh nho, vì quả nó có sự quan hệ đối với vận mạng của các anh, với tiền đồ văn học trong hương thôn. Hòn Thầy Bói cách làng  tôi chỉ độ ba cây số, gọi là thầy bói vì ở đấy một ông thầy bói một hôm đi bói rong ở các làng, về đến đấy thì trời tối, ông không tìm được lối ra, ông bèn ngồi xuống một tảng đá, lấy mõ rùa ra gõ và gieo quẻ. Nhưng gieo mãi cũng không bói ra được lối đi, đành ở lại đấy, chưa quá một đêm mà cọp đã vồ mất của thầy cả hồn lẫn vía. Thầy chết đi để lại một cái tên, cái tên ấy đã ghi lại trong quyển sử văn chương khoa hoạn ở vùng tôi. Vì vùng tôi bên này và bên kia sông Gianh, con sông lịch sử ấy có hai làng văn học, mà hai làng cũng dành nhau cái ảnh hưởng của hòn núi ấy. Hòn núi ấy cao nhất ở vùng tôi, thuộc về sơn phần làng tôi là làng Cao Lao ở triền hữu sông Gianh nhưng làng La Hà là làng ở triền tả sông Gianh thì lại cho rằng hòn núi ấy là của họ vì nó "chiếu" ngay về làng họ. Theo họ, thì ở làng ấy trông lên núi có bề gần hơn ở làng tôi trông lên núi ấy. Đây chỉ là nói chuyện trông mà thôi chứ sự thực thì làng tôi cách núi có ba cây số mà làng họ cách núi ít ra cũng bảy tám cây số. Tôi cũng nhận cái điều nói đó có phần đúng, vì đó có thể là một huyền tượng về nhãn giới. Khổ một nỗi là bấy giờ chẳng ai biết gì về khoa học này. Người ta chỉ xét theo cái lý phong thuỷ và theo thuyết phong thuỷ, núi ấy đã chiếm về làng họ và từ bao đời, làng họ đã sản xuất biết bao tay văn chương lỗi lạc, biết bao kẻ khoa mục, mà toàn là đại khoa mục, có người đã đậu đến nhị giáp tiến sĩ, và tiếng hay chữ đã động đến kinh đô. Dân làng tôi rất căm hờn về sự tranh dành ấy của làng La Hà. Vì làng tôi cũng là làng khoa hoạn nữa, mà sự hiển đạt ấy là nhờ núi sông của mình. Tôi nhớ hình như ở đình miếu làng tôi có bốn chữ "Nhân kiệt địa linh" hẳn là chỉ vào hòn núi ấy. Mà ai trông lên hòn núi ấy cũng phải nhận cái vẻ hào hùng uy nghi của hòn núi, cái dáng ngạo nghễ của hòn núi quả có ảnh hưởng đến tâm hồn của con người. Điều này đã bao phen làm cho tôi cúi mặt không dám nghĩ tới, vì đó lại thêm một cái lý để cho hòn núi kia lại thuộc về làng La Hà. Tôi phải thành thực mà thú rằng: Dân làng tôi thực là một thứ dân hiền lành, rất thuần mà cái ngạo nghễ, cái bướng bỉnh, cái hiên ngang lại là cái tính cách của dân bên kia triền sông Gianh, chỉ cách có một con sông mà hai tâm tính. Nhưng có điều này rắc rối là làng tôi có tiếng thuần mà chỉ thuần với những người thuần mà thôi, những lúc cần phải ẩu đả thì dân làng tôi cũng biết sắn tay áo, đứng lên cùng một lúc với kẻ địch. Lại biết bao những tục làng còn sót lại đó để chứng rằng: Dân làng tôi là một thứ dân thượng võ, như tục đánh "vật" và cướp "cù", chữ thuần theo tôi hiểu có nghĩa rằng: đã có một thời kia chẳng thuần. Nhưng tôi hãy nói qua cái thứ dân ở bên kia sông. Họ là dân cù lao vì làng họ ở ngay trên một cái cồn nổi giữa sông Gianh. Nhưng chính nhờ cái địa thế là một hòn đảo, dân làng kia mới có cái gan, cái hùng mạnh của mình. Chính nhờ ở đảo chứ không phải nhờ núi. Lịch sử thế giới đã chứng nghiệm rằng: Dân đảo là một dân gan mạnh, táo bạo. La Hà là một hòn đảo và dân làng ấy quả có những cái đức tính của một dân đảo. Thật ở trong vùng tôi, không đâu có thứ dân gan góc và kỳ quái ấy. Một cái đặc sắc trên mọi cái đặc sắc là cái đầu trọc, trọc từ già đến trẻ, từ dân đến quan, từ thằng mõ đến ông lý.

Ở làng tôi có một tiếng dùng để chỉ thứ người hung tợn, gan mà lại ác: "quân La Hà". Họ tới đâu là mang lại sự khủng khiếp tới đó; ở một buổi chiều có "nốc" chúng nó ghé tới hoặc để mua ngọn khoai hoặc để mua sắn lát thì y như tối ấy trong làng trong xóm có sự khác thường xẩy đến, nhà nọ bị mất của, cho nên mỗi khi quân La Hà đến thì tối đến người ta phải đóng cửa, cài ngõ sớm và đề phòng đủ mọi cách. Tôi còn thấy như trước mặt những cái ông tướng ấy, những cái đầu trọc lốc ấy, những cái vóc dáng vạm vỡ chắc chắn ấy, nghênh ngang trên chợ chiều, người nào người nấy vừa ở trong tiệm thịt chó hoặc thịt nướng bước ra, mắt đỏ như huyết, miệng sặc mùi rượu và mùi nén. Họ đi nghênh ngang như thế và chân tự do đạp lên trên những hàng bánh tráng, bánh ngô. Nhưng không một hàng bà hàng già mồm nào dám mở miệng, vì ai cũng biết chúng là dân La Hà đương kiếm chuyện để gây, để đạp tung những lều quán, phá toang những rào dậu. Họ chỉ kiếm cớ để đập, để phá, để chửi, để hét, để thi tài, để cho thiên hạ biết rằng họ là một thứ dân “có nghề có ngón", nhưng dân La Hà đã tìm thấy ở giống dân thuần hậu, hiền lành là dân làng tôi, những người địch, những người địch xứng đáng. Không biết có phải hòn núi Thầy Bói là nguyên nhân ngấm ngầm đã làm cho hai làng thù nhau. Nhưng cái thù ấy quả là một mối thù ghê gớm, giữa hai làng chỉ lằm lằm mà không nói. Hai bên không hề bỏ qua một dịp để "đáp lễ" với nhau. Bấy giờ tôi mới 12 tuổi. Một hôm tôi đi chợ phiên Ba Đồn mà hình như là một phiên Tết. Trên một khoảng gần nửa cây số vuông đầy những người và vật, cũng như lệ thường phiên ấy có các ông Nam Kim ở Nghệ vào bán hàng. Dân Nam Kim tức là dân La Hà của xứ Nghệ. Anh hùng gặp anh hùng, ai đã chịu nhượng ai, vì ai lại chịu khó cho ai làm mưa làm gió, làm trời làm đất ở trên khu chợ phiên.

Chuyện xẩy ra lúc chợ đã vãn, cái lúc mà người ta đã nghỉ sự buôn bán, cái lúc tiền đầy túi, người ta ghé vào các tiệm thịt lợn, thịt cầy, tiệm cơm, tiệm bún, nốc những "bát" rượu để tự thưởng cho cái công vất vả của mình. Nhưng đó là cái lúc khi rượu "nhập" những tiếng nói cạnh nói khoé tha hồ "xuất" rồi đến những tiếng thách đố, tiếng chửi mắng, rồi những cái chén bay vùn vụt, những cuộc "oanh tạc" bằng mẻ sành, và dùi và gậy, và đòn xóc và đòn càn, vụt vào nhau, hoại vào nhau, cuộc ẩu đả và tiếng kêu làm vang cả chợ, một tin hãi hùng truyền từ đầu chợ đến cuối chợ. Quân La Hà đánh quân Nam Kim, hai bên không kém nhau về sự gan, liều. Nhưng La Hà gần nhà được hơn cái đông quân. Không ai bảo ai những kẻ thù xưa nay của La Hà đều đứng cả về một phía. Họ đến để cứu dân Nam Kim. Họ là dân óc sáo đủ khắp các làng, những kẻ xưa nay vẫn ghét dân La Hà. Trong số ấy có một phần lớn là cái giống dân thuần hậu, hiền lành ở bên triền nam sông Gianh. Những kẻ trai tráng, khoẻ bạo "biết võ vẽ đôi ngón" đều đến tiếp chiến cho Nam Kim, cũng là một cái dịp cho họ trả cái thù của họ. Máu hai bên đã chảy, nhưng không biết cái hòn núi đương đứng sừng sững kia có phải là nguyên nhân gây nên sự ẩu đả dữ dội hôm nay giữa hai dân làng?

Máu đã chảy! Một cảnh tượng thê thảm! Người ta xua đuổi nhau, đạp ngã những bà già con nít, tiếng kêu rên dậy vang cả chợ, những người làng tôi sang chợ nghe tin ấy, kinh hãi hết sức, ai nấy cũng chỉ sợ quân La Hà trả thù. Hôm ấy người ta phải gọi nhau, chờ nhau để về cùng một lúc, không một ai dám đi lẻ loi. Tôi còn nhớ rõ cái hồi hộp của tôi, khi tôi theo mấy anh tôi nhập bọn với các người làng khác để xuống bến đò làng, vì từ phiên Ba Đồn xuống bến đò làng đến hơn năm cây số, phải đi qua những rừng sác. Trời chập choạng tối, cả đoàn hàng trăm người, đàn bà có, con nít có, ông già bà cả có, thin thít núm chéo áo nhau mà đi, dưới sự "chỉ huy" của những anh trai làng, những chiến sĩ vừa rồi đã dự vào sự hỗn chiến ở chợ phiên. Trời đen tối như mực lại mưa nặng hột. Gió lạnh lại bắt đầu lên. Cả đoàn người ấy hồi hộp đi, tưởng chừng như trong những bụi sác có quân La Hà đương mai phục. Về đến bến đò làng, chúng tôi cũng vẫn chưa hết kinh hãi, La Hà là một dân nước, chúng nó bơi lội như tôm như cá, trong lúc bất thần chúng nó có thể đâm lia vào bến những chiếc "nốc" dài và đầu nhọn của chúng. Đến nay đã hơn hai mươi năm mà tôi tưởng như còn linh động trong trí cái buổi hãi hùng ấy của một cuộc huyết chiến.

Mưa đã ngớt.

Nhưng gió bấy giờ vẫn lại lên mạnh. Trăng, một thứ trăng giá lạnh, lấp ló trong lớp sương dầy đặc giãi ra một thứ ánh sáng của chốn âm phần. Chúng tôi vẫn không dám nói to, vẫn không dám nói riêng. Mà đò làng hôm ấy không hiểu vì lẽ gì chưa qua đón khách.

Một tiếng kêu đò!

Rồi lại một tiếng kêu đò khác, tiếng kêu run trong gió: tiếng kêu run lạnh! Hơn hai mươi năm qua, tôi còn nghe cái tiếng kêu ghê hồn ấy, trong đó như có cả cái hãi hùng cái giống dân đảo.

Thật đời tôi cũng chưa bao giờ thấy dầu là người "tây trắng", dầu là người "tây đen", có cái gân guốc, dữ tợn, làm cho tôi sợ hãi và kính phục bằng những dân đảo ấy, quả đã có một thời oanh liệt trong ký ức của tôi.

Mối thù giữa hai làng tuy rằng không rõ ràng, không căn cứ, nhưng nó đã gieo nặng vào tâm hồn một đám người.

Người ta chỉ sợ, và người ta cũng chỉ mong có dịp hai bên xung xát nhau.

Làng tôi là một làng nông. Làng La Hà là một làng đảo nghèo không một tấc đất, nhưng họ là một dân rất "hảo" thịt ếch. Ếch không ở sông mà chỉ ở đồng. Ếch đồng béo và bùi thịt. Dân La Hà phải tìm qua đồng làng tôi để câu ếch, tưởng như chúng có câu được ếch kẻ thù chén mới ngon.

Mỗi buổi chiều mùa đông, đứng ở "đàng bản", tôi thấy cả một đoàn dân La Hà câu ếch về. Cái cần câu dài đến bảy tám thước tây, uốn éo như những con rắn dài, lại tiếng ếch ở trong giỏ kêu "uệc oạc" đã dội vào trong tâm hồn tôi một âm điệu ghê lạnh! Cái đoàn người ấy đi qua đình, qua chợ làng tôi với một vẻ nghênh ngang đáng ghét. Nhưng nếu có dịp là chúng không quên "trêu ghẹo" với người làng tôi. Có khi chúng cả gan chòng ghẹo những cô gái làng tôi đi cắt cỏ hay gánh nước về. Vài tiếng tri hô, người ta sổ thanh la. Trai làng đổ ra đón chắn các ngả đường. Tên nào nhanh chân tháo được thì là phúc, còn tên nào bị tóm được thì người ta treo ngược cặp cánh lại, và có khi nọc lại, kèm chân ở đình chợ, mà chúng vẫn không chừa. Chúng chỉ ngóng, nghe làng tôi có hội đám gì là tới xem để rồi phá phách. Chỉ có một câu nói "có quân La Hà sang coi" thì là y như đàn bà con gái không dám rời cha anh một bước, mà các trai làng phải đề phòng những việc bất trắc, vì ít khi có dân La Hà sang coi mà lại không xảy ra một sự gì lôi thôi.

Dân làng tôi là dân "vật", người làng đã được cha anh bao đời truyền lại cho nhiều ngón. Nhưng thường thường trong những đám hát xướng nhỏ thì người giáp trên vật với giáp dưới. Vì rằng người một giáp không bao giờ người ta lại "cặp với nhau". Chỉ có trong những hội lớn thì mới có cuộc vật giữa người "hàng xứ với người hàng xứ".

Làng tôi sáu năm có một lễ "sắm tạ" ở chùa. Trong đám sắm này, ngoài việc "chạy đàn" ra, người ta chỉ chú ý đến cuộc vật. Trước còn "giáp trên" cặp với "giáp dưới", dân làng trên với dân làng dưới, nhưng bây giờ thì làng biệt xã không phân biệt trên dưới trong ngoài. Mỗi khi có một người đánh ngã được kẻ địch, thì người địch bị đánh ngã cố nhiên mặc áo lại và lẻn ra, nhưng kẻ đã thắng vẫn ở lại. Dưới ánh đuốc, người ấy vẫn lưng trần chắp tay sau đít, dương dương đi vòng quanh theo cái vòng người ngồi hay đứng. Nếu kẻ bị hại là người ở "côi làng" (làng trên) thì thường thường một người ở "côi làng" khác lại nhảy ra ngay không cần phải ai gọi. Nhưng xem chừng như người vừa thường đi mấy vòng như thế, mà chưa thấy ai nhảy ra, nên có người đã cất giọng khiêu khích: "Thế là côi làng đã hết người rồi, các trai mắc đi làm cỗ rễ cả, không ai việc làng nữa rồi đó! Thôi anh Tiềm (tên người vừa thắng) mặc áo lại cho về mà ấp vợ". Một chuỗi cười dài hoan nghênh câu nói ấy. Nhưng nếu câu nói ấy vẫn chưa đủ trêu tức những người "côi làng" thì một người khác, thường thường là một ông Cửu ông Bát, một kẻ đàn anh đứng ra phân vua bằng một giọng đứng đắn nghiêm trang "Côi làng năm nay mất mùa! Thôi đợi sang năm được mùa sẽ hay, có thật mới "vật" được đạo chứ". Công chúng sung sướng cười ồ lên, nhưng câu nói trêu tức vậy lần này có một hiệu quả bất ngờ.

Từ trong đám đông người nhảy ra một người độ sáu mươi tuổi, vừa cởi áo, vừa nói bằng một giọng hậm hực: "Gần miệng lỗ rồi, tôi cũng xin thử với anh em một keo. Sắp xuống đất thì cũng xin tập nếm mùi đất cho quen."(1) Thiên hạ lại reo lên về câu nói thú vị. Nhưng cái ông già ấy lại cất cao giọng và như phần trần: "Trai làng tôi không thiếu gì! Nhưng mà già này ngứa ngáy xin ra cho được." Thực ra đó là một câu kháy ngầm đối với những trai làng mình. Lão giận bọn kia sao mà trút cái việc giữ tiếng cho làng lên đầu một ông già sáu mươi tuổi. Nhưng đây quả là cái tuổi già của câu phong dao: "Càng già càng dẻo càng dai", ông lão kia quả đã làm phiền lòng các anh trai dưới làng. Cái anh lực sĩ vừa thắng một dây bốn anh đô vật, ông già kia thật là một con đỉa, ông bị lên, dồi xuống, quật bên này, vật bên nọ, nhưng mà cứ "bíu" chặt. Lực sĩ đã hết sức rẫy dụa mà không bứt ra được. Nhưng mà tuổi già đã bị hạ rồi. Thật là tội nghiệp! Ông lão vừa ngã "oạch" một cái, nằm dài và thở không kịp. Lực sĩ đã bồng nổi ông già lên, trong một lúc bất ngờ hai chân lão bị lực sĩ "quét hờ" một cái, lúc bị tống xuống, hai chân lão vướng lấy nhau mà ngã. Cái ngã vẫn là cái ngã danh giá, vì người đô vật kia sau khi đã mở hết ngón, này khoá, này mở, này đưa, này gạt, này lộn, này tréo, này vạt, này lăn, này công trái, này công mặt, mà cũng đành thất thủ trước cái dai dẻo của ông già. Dầu sao ông già ngã đã làm gương cho các trai làng mình, ông già vừa đứng dậy thì một người trai tráng nhảy ra. Thật là một cái vâm, hai vai vuông, hai tay dài như hai tay vượn, chân lại là chân sếu vườn, đó là người địch thủ mới của kẻ "ngũ thắng".

Trận đấu bây giờ mới thật là nghiêm trọng. Vì mỗi làng đã có một đại biểu xứng đáng. Công chúng bên ngoài thật là hồi hộp. Người ta không reo hò nữa. Trong lúc công chúng "làng côi" đương hết sức cổ vũ cho người của mình, thì các công chúng làng dưới phải qua những giây phút lo ngại cái vóc xác vạm vỡ của người "côi làng", quả đã làm cho những người dưới làng phải kiêng nể.

Những bó đuốc được mở thêm "mộc" hay là "tui" xuống đất để cho được thêm sáng hơn trước. Người ta lại còn lấy những bó đuốc, tui vào chân người ta để mở rộng thêm cái vòng công chúng.

Cuộc chiến đấu sẽ hết sức say sưa. Sau này dễ thường tôi cũng chưa thấy mối tình gì đến kích thích được tâm hồn bằng cái sự kích thích gây nên bởi cuộc tranh đấu gay go sắp diễn lúc bấy giờ. Xưa nay sách vở và các nhà thi hào cũng chỉ nói và cũng chỉ ca tụng cái tình gia tộc, cái lòng nhớ quê, cái lòng yêu nước, cho đó là những mối tình mạnh nhất của người đời. Nhưng thực ra cũng có một mối tình cũng thiêng liêng cũng rất "thực" ở trong cái cuộc sống của con người dân quê, ấy là tình đối với làng, đối với thôn xóm.

Đời tôi sau này đã dự xem những cuộc đấu quyền giữa Bắc và Trung kỳ, giữa người nước tôi với người nước khác. Nhưng không bao giờ tâm hồn tôi thấy khích động, dồi lên dồi xuống như một quả bóng bằng cái hôm từ thủa ấu thơ ấy tôi được xem cuộc vật giữa người làng tôi và làng trên. Ấy cũng tại lúc bấy giờ tôi chỉ là một cậu bé của đồng ruộng, cái tình của tôi hẹp hòi mà chắc chắn, cũng như những người làng tôi bấy giờ rất yêu làng tôi, trời ơi! Khi tôi thấy anh đô vật kia đại biểu cho làng tôi bị lăng đi lăng lại, thì tôi thấy xanh cả mặt, điếng cả hồn. Nếu anh ngã tôi có thể ngất đi, những giây phút hồi hộp ấy kéo dài ra làm tôi không còn đứng vững được nữa. Nhưng với một miếng tréo bất ngờ và khéo léo, anh ta đã vật ngã được người địch của mình. Tôi vui sướng hể hả như được thấy "ông bà".

Trong lúc anh đô vật kia tưởng được coi như là vô địch, thì trong bóng tối có người đương cởi áo. Những tiếng xì xào khắp phía "người La Hà". Trong tiếng xì xào của mọi người có vẻ kinh hãi cũng như lần khác người ta động đến cái tên ghê sợ ấy. Trăm mắt đều chúi vào người trai tráng chắc nịch, bấy giờ thì trong bóng tối đi ra dưới ánh đuốc với một dáng điệu oai nghi lẫm liệt. Tôi tưởng một viên mãnh tướng ngày xưa lâm trận cũng chỉ lẫm liệt oai nghi đến thế là cùng! Anh ta thực ra không to và cũng không cao lắm nhưng những đường gân nổi bật lên trên thớ thịt phẳng lỳ như bảo cho mọi người biết rằng mọi sự ở trong người chàng đã căng đến cùng cực và sẵn sàng nghênh chiến.

Tôi nhìn lên mặt các người trai tráng giữ việc tổ chức, tôi thấy có một vẻ lo âu, nhưng hình như người ta đã dùng đủ mọi cách đề phòng. Vì mỗi khi có việc dính đến người La Hà thì y như là có việc không hay xảy ra.

Tôi còn thấy ở trong ký ức anh trai làng La Hà vừa múa vừa nhảy ở trước mặt mọi người. Người ta tưởng anh đương đi một đường quyền. Anh ta chắp hai tay rồi lại xỉa ra, đương quay tít cái mình thì bỗng một chân quỳ xuống đất, rồi một tay chắn ngang trước màng tang, một tay án ngữ trước háng (háng và màng tang là hai chỗ hiểm). Người ta vẫn thấy anh ta trong một hồi giữ mình. Trong cái thái độ ấy, trong lúc người địch của anh vẫn ung dung vẫn khoan thai nghênh chiến bình tĩnh và sẵn sàng.

Bỗng người ta thấy anh chàng La Hà kia như một con mãnh thú bị động, lăn mình vào kẻ địch, xách đứng một chân kẻ địch. Công chúng cười vang để tỏ ý chế nhạo. Người ta không ngờ cái anh chàng "võ sĩ" hình như "có một ngón ấy" đi cái đường quyền dẻo dang thế mà lại lăn đầu mình vào cái bộ phận dưới của kẻ địch để "xách cẳng". Người ta tưởng đợi anh một ngón gì "cao" hơn, bất ngờ hơn là sự xách cẳng. Vì xách cẳng trong môn vật là một ngón chẳng vẻ vang gì cho anh đô vật xách cẳng, đó chỉ là cái sở trường của những kẻ "to xác" mà chẳng biết ngón, cốt lấy cái sức mạnh ồ ạt để làm lụng người. Nhưng hãy coi chừng! Kẻ xách cẳng sẽ bị quật lại một cách bất ngờ nếu kẻ địch của mình là một anh đô vật thiện nghệ, xách cẳng có thể nguy cho người mà lại nguy cho mình. Quả vậy, cái anh trai La Hà kia, trong chớp mắt đã bị té nhào một cái "ạch" vì một cái chân khác của kẻ địch đã "cài" vào giữa hai chân của anh chàng, và làm cho anh rơi xuống như một cái cọc. Người "được" cũng rơi theo, nhưng đã được công nhận là thắng rồi vì đã "nằm trên".

Quả như người ta đoán trước, người dân La Hà kia ngã. Không nén sự căm hờn, anh choàng lấy cổ người nằm trên mình và cắn ở bả vai người ấy. Một người có tuổi ở làng tôi đứng ra nói "nào bên làng còn ai nữa không?"

Chưa có tiếng đáp thì ông đã nói tiếp bằng một giọng rất tươi đẹp "hàng xứ có ai khoẻ cứ vô. Nhưng vật chớ xin đừng cắn! Làng tôi có lệ vật, không có lệ cắn!"

Công chúng làng tôi hể hả reo cười, sẵn lòng tha thứ, vì đã thắng ở chiến trường.

Trong cái buổi vật hôm ấy, giữa hai làng, nếu có cái gì mất tươi đẹp, có cái gì hằn học, ấy cái hòn núi "Thầy Bói" sừng sững hàng ngày trông xuống, cái hòn núi ấy phải chịu một phần trách nhiệm. Cái địa vị mập mờ của hòn núi kia đã ảnh hưởng lớn lao đến cái cuộc sống tinh thần và tình cảm của chúng tôi nhiều lắm. Nó đã thành một "nghi án" làm bận lòng bận trí chúng tôi biết bao nhiêu.

Đã bao lần tôi tự hỏi, cái hòn núi kia sống cạnh nách làng chúng tôi, hưởng lộc quỷ thần làng tôi, ăn nhờ về sương nắng làng tôi lại đi "chiếu mệnh" vào cái làng đáng ghét kia để chung đúc anh tài cho cái làng láo xược ấy.

Hỡi ôi! Hòn núi kia ngày nào nó mới "ngó lại" mới "trở về".

 

***

 

Nhưng nói đến đồng ruộng sông núi lẽ nào lại không nói đến chim cá. Trước hết hãy nói đến chim. Tôi biết rằng trong trí tưởng tôi không có gì linh động bằng những con chim sả, những mầu sắc sặc sỡ của bộ cánh nó, phấp phới mãi trong tâm hồn tôi.

Chim sả, tôi không rõ ở xứ khác có không? Và chim ấy, ở một trời khác ở rừng khác thì nó mang tên gì?

Con chim sẻ của nơi khác có phải là con chim của tôi không. Sự kinh nghiệm đã cho tôi thấy rằng: Biết bao lần cái tên giống nhau, mà sự thực lại khác nhau?

Ở đây tôi chỉ muốn nói đến con sả của tuổi ấu thơ tôi. Đời tôi chỉ biết có một thứ chim sả ấy. Nhưng không rõ nó có phải là con chim đã sinh trưởng nơi đồng ruộng của tôi, sống nhờ sương nắng của vùng tôi, không rõ nó có giống như tôi là một đứa con chay của đất ruộng, của xứ sở. Tôi nhìn vào tôi, rồi tôi lại xét đến nó, tôi thô kệch bao nhiêu, vụng về bao nhiêu, lôi thôi lốc thốc bao nhiêu, thì nó lại gọn gàng thanh nhã, hoa hoè bấy nhiêu. Tôi là một bé nhà quê, mà nó quả là dân "Ô y hạng", nó chẳng thể sinh ở cửa nhà tôi. Nó phải ở một xóm phong lưu quyền quý. Không phải vì thấy mầu sắc sặc sỡ của bộ cánh nó mà tôi đoán cái danh phận cao quý của nó. Đất ruộng vẫn có thể rất ưa chuộng những mầu hoa hoè sặc sỡ. Nhưng không, con sả kia có cái gì rất phong lưu đài các, chẳng khác nào một vương tôn công tử, từ những lầu son gác tía lại để nương náu qua một mùa thu. Vì con chúa sả ấy, nó thường đến với chúng tôi vào những ngày đầu thu. Nó thường xuất hiện sau những trận bão, những trận lụt vào những ngày nắng rớt. Nó thường đậu ở trên những cành cây cao. Nhưng say lòng là những lúc nó phe phẩy đôi cánh để băng mình qua một cánh đồng. Không phải là nó bay, ta tưởng như là nó lách mình, rẽ ngang một cái biển ánh sáng xanh tươi. Chẳng phải đó là một hình ảnh khả ái, trong những hình ảnh khả ái nhất của vũ trụ ư? Trong những giây phút ấy, tôi thấy cái cảnh chim ngàn cá nước quả có cái gì đẹp hơn, đáng sống hơn là cuộc sống ở cõi nhân gian! Dầu ta cũng chỉ "lách" mình qua cõi nhân thế, ta cũng vẫn thấy mắc míu, vẩn đục bởi những cái gồ ghề của đời, ta không thể có cái ung dung nhẹ nhàng của con chim đạo sĩ kia vậy. Nhưng, với đứa trẻ của đồng ruộng thì bay sau những cậu "vương tôn công tử" ấy của rừng xanh là một cái thú say sưa trong những ngày nắng rớt, cậu đã theo các anh cậu trèo lên những cây bần, mắc những cái "do" rồi núp vào một chỗ xa kín chực cho các con sả đến đậu, để cho sả đậu yên rồi thì chúng tôi giật "do", đàn sả hoảng hốt bay lên, thế là vướng phải lưới của chúng tôi.

Nhưng "do" không công hiệu bằng "nhả", nhả tức là một thứ nhựa của cây "gủi". Chính thứ nhựa ấy bọn trẻ chúng tôi tự mình làm lấy.

Những ngày đi ăn "nhả" cũng kể là những ngày thú vị nhất của đời thơ ấu, trí nhớ tôi lười biếng vô cùng, đã quên đi bao nhiêu việc quan hệ, thế mà những cái kỷ niệm nho nhỏ ấy trong tuổi ấu thơ, thì đã gắn chặt vào đời tôi như bởi một thứ nhựa. Trí nhớ, tâm tư, nếu chỉ chất đầy những điều quan hệ, những điều hữu ích thì thật là một sự kham khổ cho cuộc sống. Cũng may, tâm hồn ta lắm lúc cũng thư thái được, nhẹ bổng được là nhờ những cái kỷ niệm "vô tư lợi", những kỷ niệm cỏn con, nhẹ nhàng và thanh thú. Sống lại giữa những cái kỷ niệm ấy chẳng khác nào sau những giờ mệt nhọc, được thả tung tâm hồn trên một đồng cỏ xanh rờn.

Ta hãy tưởng tượng cái cuộc sống nặng nề mà ta phải cõng ở trên lưng, nếu không có sự hồi tưởng khoan khoái ấy, đến nhắc bổng cả tâm trí ta "ăn nhả"… Những buổi sáng, nắng tươi xanh rờn và tuổi ấu thơ phấp phới như đôi cánh tiên! Rời khỏi cái nhà thấp nặng, cái tuổi thơ ấy, như thoát ra nơi cao rộng. Bầu trời xanh ngắt, đồng áng mênh mông, nước chảy một mầu bạc. Một lúc sau, những cậu bé ấy đã thoát khỏi nhà và đã đậu cao trên những cành sác. Đây là cả một rừng sác, bao phủ cả một phía làng. Rừng sác đối với chúng tôi đầy sự bí mật, đầy những sự lạ lùng, ghê sợ của hai cõi: những chuyện xảy ra ở rừng sác kể lại trong đêm hôm có thể làm rởn tóc gáy.

Nhưng tuổi thơ ấu chóng quên và hay tin, nó đã quên hết những chuyện đã xảy ra đêm qua và trong những đêm trước. Bây giờ nó chỉ biết tin, cả tin ở ánh sáng, ở mặt trời, ở ban ngày. Và thực ra, trong một lúc ồ ạt ấy bọn trẻ nít chúng tôi đã không kịp nhớ lại. Sau khi lội qua một cái hói, lội qua những cái đìa, bọn trẻ nít ấy trần truồng từ đầu đến chân, chia nhau trèo lên những cành sác, nhanh như những con vượn con; lùi sâu vào thời gian, một nhà thi sĩ đi ngang qua bọn trẻ trần truồng kia sẽ bảo là: một bầy tiên đồng; thực ra những bọn trẻ ấy, chỉ tìm những trái của một thứ cây "gửi", gửi ở trên cây sác, lượm từng trái một và bỏ vào miệng và cắn hai "nghe một cái búp"! Hơn hai mươi năm qua mà tôi vẫn còn nghe rõ tiếng những đứa trẻ gọi nhau trên các cành sác. Mà hỡi ôi là tiếng gọi! Vì miệng đứa nào đứa ấy đã đầy bụm những trái cây, cái "âm" nó phát ra một vẻ ghê rợn khác thường. Những tiếng gọi không thành, tiếng ấy từ cây này vọng qua cây khác, và cái tiếng dội lại của rừng sác, như tăng bội cái sự kỳ quái và ghê rợn, có phải chúng tôi bấy giờ đã ở trong một cái rừng Liêu Trai, đầy những con hổ tí hon cười nửa miệng.

Nhưng chúng tôi chỉ là những đứa đi ăn nhả mà thôi. Sau khi đã đầy miệng, chúng tôi trèo xuống và lại nơi cái hói, trước mặt chúng tôi, nhả những "trái gửi" trong miệng chúng tôi ra và đãi những hột gửi ở trên bàn tay. Chúng tôi đãi như người ta đãi đậu xanh vậy. Nhờ nước mặn, một lát sau mỗi đứa chúng tôi đã có ở trong tay một cục nhựa dẻo như "côn" gắn như "xia".

Thế là chúng tôi phết vào một cái que dài rồi dính những con chuồn bầu hay chuồn voi. Vì mỗi khi nhựa đã dính vào cánh chuồn, thì cố nhiên con chuồn kia đành bó thân, hai cánh gắn chặt lấy nhau không sao bay được nữa. Lại có khi chúng tôi phết vào những que nhỏ như hương rồi cắm đầy nhà bếp, một lúc mỗi que hương đã là một chùm ruồi. Nhưng đó chỉ là thú trong nhà, quanh vườn "nhả" còn hiến cho chúng tôi nhiều thứ khác nữa ở đồng áng. Ấy là những lúc chúng tôi không muốn "giật do" mà muốn dùng nhả để dính những sáo ngàn, những con chim mía, chim rặt, hay những con chim sả, những chim "manh manh" ấy, mỗi khi đậu vào nhà chúng tôi là đành xếp đôi cánh trời và từ giã nước non.

Nói đến chim không thể không nói đến cá. Mà trong những thứ cá tôi biết, tôi đã được ăn thì tôi thích nhất là cá gáy. Điều này động đến lòng tín ngưỡng của những đệ tử "quan ngài". Tôi biết vậy mà tôi vẫn thích, và tôi tin rằng cái thích của tôi, của tuổi trẻ có chỗ đáng dung thứ, không phải là đời tôi không từng biết cá ngon. Lúc nhỏ mỗi lần trời mù dầy đặc là y như những mụ "làng rảo" mang đến cho mẹ tôi những con cá nhờ hay con cá ngứa để đổi lấy lúa hay những xâu tiền kẽm, "nhờ và ngứa" là hai thứ cá ngon bậc nhất cả cửa biển tôi, lại được tay mẹ tôi kho nữa. Mẹ tôi là một tay nấu nướng khéo. Những con ngứa hay con nhờ kia thật quả có một cái vị chưa từng thấy trong cuốn sử nhà bếp. Những con cá quý, bất kỳ khi nào có là mẹ tôi cũng mua, lắm lúc mua từ tháng 10 mà để dành đến Tết. Để lâu cá càng ngon thêm, mẹ tôi không hiểu đã học đâu cái bí quyết ấy. Bà ngoại tôi nào phải là nhà sang trọng, quyền quý. Mẹ tôi không những kho cá, mà còn giỏi muối mắm nữa. Mà trong các thứ mắm mẹ tôi làm không có thứ nào tôi ưa thích bằng "mắm gáy". Nhưng trước hết tôi hãy nói đến cá gáy, một thứ cá tôi đã liệt trên cả những thứ cá ngon, như là cá nhờ và cá ngứa.

Một người sành ăn đã nói với tôi câu này: "Không bao giờ có một món ăn ngon cho tất cả mọi người". Tôi rất hiểu câu nói thâm thuý ấy. Một món ăn ngon đối với người nào phải là cái kỷ niệm riêng của người ấy. Biết bao nhiêu món ăn ngon đối với những người khác, thật là vô vị, thế mà đối với chúng ta cái vị của nó đã thấm sâu vào dạ dày vào miệng lưỡi, vì nó đã ăn vào kỷ niệm ta, vào tâm hồn ta, theo đuổi ta từ trẻ đến già… Rồi ta chỉ biết có nó, thích có nó, dù bỏ hết cả những cao lương mỹ vị mà sau này ta đã gặp. Ta không nên lấy làm lạ khi nghe nói người này thích lươn, người nọ thích ếch, người kia thích cá đối, người kia lại thích cua gạch. Những món ăn ấy đối với kẻ khác thì chỉ là những món ăn thường, nhưng đối với họ thì là ngon nhất của đời họ.

Vì cái lẽ rất giản dị, họ đã dùng ăn những món ấy trong những trường hợp đặc biệt. Thời gian ở đây đã làm cho món ăn thêm ngon lên mãi, vì người ta mỗi khi ăn lại một món ăn xưa, món ăn của tuổi trẻ, người ta như ăn với sự nhớ tiếc, ăn với bao kỷ niệm luyến ái. Người ta sung sướng vì với món ăn kia, người ta đã bắt lại được cái mùi "xưa cũ" tưởng đã vương xa bỗng nay còn trở lại với món ăn. Cá gáy đối với tôi cũng giống như là một người con gái đầu tiên của tôi đã gặp giữa ngày thanh xuân. Món ăn đã để lại bên lưỡi tôi và sau này trên tâm hồn tôi, trong đời tôi một cái vị mới mẻ, sốt sắng, nồng nàn. Mỗi ngày tôi đi xa cái tuổi ấu thơ, thì cái vị "thanh tân" và nồng nàn ấy như réo rắt trên lưỡi tôi, trong ký ức tôi: với con cá gáy, tôi đã mất đi cả một cảnh tươi sáng đã rộng mở ra trên đời tôi. Nghĩ đến những con cá gáy, lòng tôi như se lại, quặn đi vì sự tiếc nhớ. Hỡi ôi những con cá gáy.

Bấy giờ hình như mẹ tôi còn sống! Lần ấy là lần thứ nhất trong đời tôi, tôi theo thầy tôi vào lưới cá ở vực.

Một vực nước ngọt, cách xa nhà tôi độ ba cây số. Đây chỉ là một cái suối. Thầy tôi và hình như lần ấy có ông chú tôi làm quan vừa về hưu với thầy tôi vào vực đi xem lưới cá. Bọn lưới chúng tôi thuê gọi từ một làng khác đến. Lưới rất rộng và rất dài. Người ta chia làm hai cánh, một cánh kéo tao lưới bên tả, một bên kéo ở bên hữu. Vì vực chỉ rộng từ mười đến năm chục thước, nên người ta đi trên bờ vực mà kéo. Đi theo lưới chỉ có những người "nặn", nặn để bắt những con cá "mắc không mán" vào lưới nghĩa là chực thoát khỏi lưới. Sau họ là thuyền lan của chúng tôi. Thuyền các "quan" đi theo để xem xét. Sẽ ra theo cái cách lưới ấy, thì những con cá lớn ở vực đều phải ở trong vòng lưới, nhưng người khôn thì không bị ai ám ảnh, cá cũng khôn, có những con cá lớn vẫn thoát được và vẫy vùng thêm được một năm nữa. Vì chiếu lệ mỗi năm chúng tôi chỉ kéo lưới độ một lần. Cả ở vực cũng như cá nuôi ở ao, mỗi lần kéo như thế cũng chẳng khác nào thả lưới xuống ao mà bắt, muốn bắt bao nhiêu cá là tuỳ mình.

Chúng tôi mỗi lần như thế chỉ có kéo một hay hai vòng, một vòng từ đầu vực đến cuối vực và cũng phải mất một buổi. Hôm ấy chúng tôi thả từ sáng sớm đến khi kéo lưới lên đã gần đứng bóng. Thật không có cái cảnh tượng nào khoái mắt bằng cái cảnh tượng kéo lưới lên. Những con cá phần nhiều là cá chép (cá gáy) lớn bằng bằng bắp vế mắc vào lưới. Những con cá gáy, vẩy lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng, trông như những nén bạc. Thật vậy, kéo cái lưới đầy những con gáy, chúng tôi tưởng như đã kéo lên những thoi bạc. Đến khi những thoi bạc ấy bỗng nhiên trong một lúc, cùng vầy vi, đập vào khung thuyền và quật nhẩy, thì tôi thấy lòng tôi như đột khởi lên một mầu vui sướng lạc quan. Mặt trời bấy giờ với lòng người làm một: ấy là sự reo vui. Cái tuổi thơ của tôi được khoái trá reo hò lên cũng như cái đoàn người đầu tiên được trông thấy mặt trời vậy.

Một lúc sau, khi chúng tôi đã lên bộ và nghỉ mát dưới một rừng thông, thì tôi thấy trên những cái nồi bung nước đã sôi. Người ta vất vào những cái nồi bung ấy những con cá to nhất.

Một hồi lâu người ta vớt ra, trên những tấm chiếu bằng lá, các quan viên đủ các đẳng hạng trong hương thôn ngồi lại. Trên những cái mâm gỗ, người ta lần lượt vớt những con cá chép lầy mỡ, với những cái đũa tre mà người ta vừa vót. Các quan khách ngồi "thực" giữa những "bát" rượu gật gù, không có nước mắm, chỉ có cá chấm với muối biển, chỉ có thế. Nhưng đó là bữa chén ngon nhất đời tôi. Đời tôi đã bao lần điên đảo, những tư tưởng trong não tôi cũng đã bao phen thay đổi, cả những mối tình trong lòng cũng vậy. Thế mà cái vị "thanh tân" ấy vẫn còn ở lại trên đầu lưỡi. Tôi nghĩ rằng không có gì làm át được. Mà đó, sự tươi vui, sự hể hả chỉ đến một lần trong đời ta mà thôi, sau này, hiện tại và tương lai chỉ là sự kéo dài sự tiếc nhớ, sự thèm khát. Ôi! Những con cá gáy mà chúng tôi đã lên bắt tận nguồn, ăn tại tổ đâu phải là những con cá gáy của thế nhân, của thông tục. Nhưng nó chỉ đến với tôi, chỉ một lần với tuổi ấu thơ. Tuổi ấu thơ chết, nó cũng chết theo. Cái vị nó đã để lại trên đầu lưỡi tôi cũng chỉ là sự hão huyền.  Những lần chài cá như thế, cá nhiều quá, ăn không hết thì mẹ tôi lại đem muối. Những con mắm gáy um mỡ có một mùi thơm ngát cả một mùa đông. Suốt cả một mùa đông chúng tôi, tất cả các anh tôi và tôi đều ăn mắm gáy mà không biết chán. Đây không phải là lời nói ngoa, không phải là văn chương, chúng tôi suốt mùa đông ăn ròng mắm gáy mà không thấy ngấy. Anh Song tôi thích cái đầu, anh Lạc tôi thích cái sườn còn tôi, tôi chỉ thích đôi mắt. Mỗi thứ béo mỗi cách, cũng như ba chúng tôi, mỗi đứa một tính cách, một con đường…

Ngày xưa có người mở lịch sử văn nôm bằng một bài văn tế cá sấu, bài này tôi xin tế những con cá gáy thân yêu của tôi.

 

***

 

 

Đứa con của đồng ruộng đã sinh trưởng giữa chim cá, mọc tốt như cỏ hoang. Một chút ít sương nắng đã hiến cho đứa bé những ngày tươi đẹp nhất của đời nó. Đứa bé ấy đã rút khí lực của mình trong những sương nắng ở đồng ruộng ấy. Sau này tôi đã bỏ ra gần mười năm trời để phí hoang cái khí lực của mình, tôi cũng không huỷ hoại hết được những cái gì đồng ruộng đã cho tôi. Tôi biết cái thiên tiên của tôi được đầy đủ là nhờ cả ở sự di truyền.

Những gã nông phu kia đã đặt những lát cuốc đầu tiên vào khoảnh đất tôi ở. Là một đứa con chẳng có thể phụ bạc, tôi phải nhận cái công ơn trời biển ấy của những tiền nhân tôi không phụ bạc được với tổ tiên, lẽ nào tôi lại phụ bạc được với đất đai. Vì nếu dòng họ đã biếu cho tôi khí lực thì đất ruộng đã bảo trọng cái khí lực ấy cho tôi, không có mười mấy năm đất ruộng có lẽ tôi đã chẳng còn sống đến ngày nay. Thật vậy, có thể tôi đã bỏ thây trong một cái quán khách bên đường hay trên phản ngựa một ca lâu, cạnh những đàn phách nghiêng ngửa. Nhưng tôi đã qua được những thí nghiệm ấy vẻ vang như một kẻ đã thắng ở chốn chiến trường vậy.

Tôi còn nhớ một ngày nọ, tôi ở Hà Nội về Cửa Đại nghỉ mát, nói nghỉ mát thật không đúng vì tôi không phải là hạng người có thế quyền cho mình cái thú của kẻ phong lưu quý phái ấy. Tôi trở với biển lần này là chỉ cốt lấy lại một ít sức mạnh mà tôi đã tiêu đi trong những đêm trác táng ở Hà Nội. Vậy mục đích chỉ cốt cướp lại một ít khí lực cần thiết cho cuộc sinh sống, cho cuộc chiến đấu. Ngày thứ nhất ở bãi biển, tôi đã gặp một người khách trú, một tráng sĩ Hoa kiều và tôi đã có dịp thử sức với anh. Hôm ấy người ở bãi biển đều phải chú ý đến một người đàn ông cao to, một mình với một con ngựa bạch đua trên cát.

Người ta thấy anh dắt ngựa diễn qua trước quán cơm, người cũng như ngựa có một vẻ lẫm liệt. Nhưng còn lẫm liệt hơn là khi anh ta phóc lên mình ngựa, anh phóc nhẹ đến nỗi người ta không tưởng rằng một cái hình to lớn nhẩy lên ngựa mà chỉ là một cái làn áo mỏng vắt ngang qua mình con vật vậy. Sáng mai nào hình như người tráng sĩ đó cũng biểu diễn như vậy trước mặt mọi người. Cho nên cái lòng cảm phục của mọi người ở đấy đối với anh chàng tưởng như đã quyết định rồi… Người ta tưởng như lùi lại rất xa về thời gian được mục kích một tráng sĩ kiếm hiệp giữa trung tâm nước Tàu. Sáng hôm ấy tôi là một trong cái đám người đứng há hốc nhìn theo tráng sĩ để mà ca ngợi, để mà cảm phục, nhưng một ý nghĩ xui tôi đến gần anh và làm quen với anh. Tôi cho ra đôi tiếng "tàu ngông" và anh đã vồn vã đáp tôi bằng tiếng nam bập bẹ. Sự thân mật giữa chúng tôi đã tiến như một con ngựa phi vậy. Thấy cánh tay chắc như một thanh củi của anh, tôi cầm lấy mân mê thán phục. Anh cũng cầm lấy tay tôi và như có vẻ thương hại. Thật là một que tăm, đối với cánh tay sắt của anh. Anh để tay tôi lỏng lẻo giữa bàn tay anh, cái thương hại của anh làm cho tôi đau đớn và điên đảo cả ý nghĩ.

Tôi không thể chịu được sự thương hại của người khác. Như để tỏ ý phản đối, đến lượt tôi nắm lấy cánh tay anh và tôi cũng mân mê cánh tay anh. Nhưng tôi chợt nhận thấy cái vẻ buồn cười của cử chỉ của tôi. Rồi như căm hờn đối với mình, tôi nắm lấy tay anh, tôi nghiến răng, tôi bấm môi và nắm thật chặt. Như con vật bị động phải tự vệ, tự nhiên anh rãy tay tôi một cái, chỉ một cái nhẹ, tay anh đã rời khỏi tay tôi. Đỏ cả mặt tôi lại nắm lấy tay anh và lần này tôi nắm với cả hai tay "đan lồng một". Nhưng với một cái rãy chẳng phí sức bao nhiêu, anh đã dựt khỏi tay tôi và tôi ngã siêu. Bỗng như một cái máy, tôi nhảy bổ vào và ôm lấy cổ anh và "cõng trái" một cái, tức thì anh ngã chụp xuống cát như chụp ếch vậy. Một cái ngã không ngờ nhưng rất dễ hiểu, anh đã bị đánh một miếng không kịp đề phòng… Vậy thì lần khác anh sẽ đề phòng, anh đứng lên và trịnh trọng xin "vật" với tôi. Tôi nhận lời, thế là hai bên dàn thế trận. Tôi thấy anh có ý muốn đề phòng cái "cõng trái" của tôi, vì tôi thấy hai tay anh và mắt anh để quay cả về chân trái tôi. Nhưng tôi đã xốc vào ôm lấy cổ anh, và trong khi anh chỉ đề phòng chân trái tôi thì chân mặt của tôi đã "chĩa" mạnh một cái "cõng", tức thì anh ngã lăn xuống đất. Anh phủi cát đứng dậy để cho tôi "xin lỗi".

Nhưng anh vẫn không có lý nào chịu hàng phục trước một cái que thịt nhõng nhẽo như tôi được. Anh cười bảo tôi: "Vật nữa chớ?" Tôi cũng cười đáp lại: "Thì vật!" Chúng tôi lại đứng ra, lần này anh lại tỏ vẻ cẩn trọng hết sức, hình như bộ điệu trong cái bộ điệu của anh không còn gì là công nữa mà chỉ toàn là "thủ", anh đề phòng, anh "ngăm" cả hai chân tôi, anh sợ tôi “cõng trái”, anh sợ tôi “cõng mặt”, thật tôi thấy cái vẻ chăm chú lo ngại của anh mà tôi thương hại… Nhưng tôi lại càng tin ở tôi, tin ở sự thắng trận vì tôi thì luôn luôn ở thế công, hăng hái ở thế công mà anh thì đã mỏi mệt trong một thế thủ. Một cái cử động nhẹ của tay chân tôi đã làm cho anh cuống quýt.

Lừa trong một lúc bất ngờ nhất tôi lại xông vào, cánh tay trái tôi lại vít chặt lấy cổ anh rồi rất lẹ, tôi quỳ xuống, mình anh mất thăng bằng và trong lúc ấy chỉ cần một cái đỡ nhẹ là tay mặt của tôi nâng mình anh dậy và vất anh như một con sên vậy.

Tôi tưởng lần này anh phải hàng phục những vẫn một giọng thản nhiên: "Một keo nữa nhá!" Tôi cũng đáp một cách trịnh trọng: "Ừ thì một keo nữa!" Nhưng tôi nghĩ trong bụng: "Mấy keo nữa tôi lại từ!" Vì tôi bây giờ hoàn toàn tin ở tôi.

Mắt anh bây giờ hết ngó bên tả, lại ngó bên hữu, hết rình tay tả lại dò chân tôi. Nhưng sự bí mật trước mắt anh vẫn hoàn toàn, điều ấy làm cho anh bối rối. Nếu anh đề phòng những ngón tôi vừa cho ra thì lại sợ tôi cho ra một ngón mới… Và nếu anh không đề phòng những ngón cũ thì cũng lại sợ tôi cho ra ngón cũ nữa và mình sẽ ngã oan.

Thừa một lúc anh bối rối như thế, tôi sấn vào, một tay tôi vẫn choàng cổ ấy, và một tay tôi nắm lấy tay anh, có điều này rất đáng ngạc nhiên là anh mạnh như là một cái vâm mà anh để cho tay tôi nắm chặt lấy cái bàn tay sắt của anh và không hề cựa cậy, ấy cũng chỉ tại anh mất cái ý chí về thế công, anh như một cái vật thụ động chỉ chờ tôi "hành động".

Lần này tôi muốn thắng cái "keo cuối cùng", một keo oanh liệt hơn hết nên tôi đã dùng một ngón bất ngờ hơn hết. Tôi đứng xốc dậy, một chân tôi tréo mạnh vào chân anh, rồi từ từ tôi cất cái chân tréo ấy lên, cái chân anh bị bó, ấy thế là cứ để mặc chân tôi đưa đi.

Thình lình tôi rút cái chân tréo ấy ra và cài ngay chân kia của anh, anh mất thăng bằng, ngã một cái rất mạnh. Tôi cũng ngã theo, nhưng tôi không đau đớn gì vì tôi nằm trên anh. Đó là một ngón tréo, trong ba "ngón tréo" rất nguy hiểm của dân làng tôi, kẻ địch không biết mà đề phòng trước thì tất nhiên phải ngã mà ngã nặng… Chú khách vừa phủi cát dính đầy tóc đầy áo, vừa bảo tôi:

− Để lúc khác sẽ vật lại. Sáng nay "ngộ" phi ngựa nhiều quá, đã mệt sẵn.

Tôi cũng nói theo chú: "Vâng biết nị có vẻ mệt sẵn… con ngựa nị nó xốc lắm!" Tôi nói vậy nhưng tôi rất hiểu cũng như chú rất hiểu vì lẽ gì tôi vật ngã được chú…

 

***

 

Người ta thường khen làng tôi là một làng "văn vật" nhưng tôi bông đùa với những người bảo tôi như thế: "Làng tôi văn thì chả hay lắm, nhưng quả vật thì giỏi thật”.

Cho nên một đứa trẻ "con nhà văn" như tôi lúc nhỏ cũng là một đứa bé thiện… vật. Sánh với những đứa trẻ trong làng thì tôi chẳng thấm vào đâu. Nhưng những miếng vật ấy đã là những ngón hộ thân cho nó sau này. Chính nhờ nó sau này khi tôi lên "học tỉnh" tôi cũng biết làm cho đứa khác phải kiêng nể.

Cái du ấy hôm nay tôi xin trả lại đồng ruộng là nơi tôi đã rút được những cái khí lực đầu tiên của tôi, giữa những sương nắng làng tôi.

Không phải là những ngón vật mà thật ra là cái địch thần hăng hái và bình tĩnh của đất đai mà tôi đã hưởng thụ được… Tôi sung sướng mà nhận thấy rằng đời tôi đã ba lần thay đổi mà cái đứa bé đồng quê vẫn còn sống mãi ở trong tôi, cái "thành thị", cái văn minh chỉ là cái lớp son phấn bao phủ bên ngoài mà cái tâm hồn tôi vẫn là cái tâm hồn một đứa bé nhà quê. Đất đai không hay nói nhưng đất đai chẳng hề nguội lạnh, vì cái đất đai nơi chúng tôi sinh trưởng là miếng đất đai dự vào những cuộc hội hè náo nhiệt trên con đường nam tiến của dân tộc ta.

 

***

 

Nhờ sự kỷ niệm lại những kỷ niệm thiếu thời mà anh em tôi đã gần gũi nhau thêm quyến luyến nhau hơn. Mỗi khi có những việc không hay đến để làm cho chúng tôi xa rời nhau thì những chuyện xưa còn đó để nhắc lại cho chúng tôi rằng: có một thủa chúng tôi đã sống cạnh nhau, tuy rằng côi cút mà nồng mặn bao nhiêu!... Thủa ấy chúng tôi không hề có thành kiến, cũng không biết suy tính, chúng tôi chỉ sống theo bản năng: là những giọt máu do một người cha sớt ra, chúng tôi lại tìm nhau, họp nhau trong một mối tình thiêng liêng. Cái mối tình thiêng liêng ấy được giữ gìn bởi một cuộc sống công cộng cạnh nhau "vai kề vai, lòng bên lòng", những đứa con mang giọt máu cha và tuy rằng không mẹ cũng được hấp thụ một nền giáo dục hoàn toàn, chứng cớ là những đứa con đã biết yêu nhau, đã biết nương tựa nhau trong một mối tình to lớn, một mối tình đầy dẫy, và chẳng phải cái mối tình ấy đã giữ lấy cái giống tốt cho dòng họ? Những đứa trẻ đã mọc như những cây cỏ hoang, ngang ngửa, nhiều khi bướng bỉnh… Nhưng sao gọi được là cỏ hoang, khi cỏ ấy đã hiến cho ta những hột gạo trong trắng như châu như ngọc. Cái sắp trẻ thiếu mặt ấy đã hiến cho ta cái cảnh tượng một mùa gặt tốt đẹp. Cái sắp trẻ ấy đã sinh trưởng trong cái bầu không khí còn thô sơ nhưng thật ra vĩ đại, vì mặc dầu thầy tôi là một nhà nho, chúng tôi đã sinh trưởng giữa đất đai và xa sách vở. Đất đai đã tạo ra tâm hồn chúng tôi nhiều hơn là sách vở. Đối với chúng tôi đất đai có một ảnh hưởng sâu mạnh hơn là sách vở. Đó là sự thực mà chúng tôi đã phải thành thực công nhận, mặc dầu chúng tôi là con một nhà thi lễ, ra đời ở giữa những chồng kinh truyện, vì đất đai đã đến với chúng tôi từ trong máu huyết mà kinh truyện chỉ là những cái trang sức bề ngoài. Đất đai ngả lòng đón lấy chúng tôi từ thủa mới lên ba lên bốn. Từ thủa ấy chúng tôi đã biết có đất đai, và chỉ có biết có đất đai mà thôi. Cái say mê thứ nhất của tôi, của đời tôi không phải là chữ nghĩa văn thơ, mà là đất đai. Ở chương trên tôi đã có dịp nhắc đến cái thú "ăn năn" say sưa của tôi. Đó chả phải là một trong những mối say sưa đất ruộng của những tâm hồn bé dại…? Tôi còn cần nhắc lại ở chương này để tỏ rằng đất ruộng cũng chiếm một địa vị lớn lao trí nhớ tôi, và nó chiếm hết cái tập ký ức lục mà một ngày kia tôi sẽ viết. Tôi tin rằng những tập tục ở nhà quê đối với đời tôi thật là gắn bó, không phải một ngày người ta có thể quên đi một cách dễ dàng được.

Những kỷ niệm ở đồng ruộng đã sống mãi ở trong ký ức tôi, trong tâm hồn tôi, mà nhiều khi như bao trùm, như chắn ngang cả hiện tại tôi. Cuộc đời hiện tại chỉ là một cuộc sống lại những cái đã qua. Ở đây tôi còn thấy hơn thế nữa: Người ta còn lấy lại, còn rút lại ở trong cuộc sống hôm qua cái tình yêu tha thiết cần cho cuộc sống hôm nay. Tôi thấy đã bao lần các anh em tôi, những đứa bé ấy bây giờ đã thành những người lớn, đã bao lần tôi thấy những "đứa lớn" ấy vợ con đầy đàn đầy lũ. Những "đứa lớn" cùng xúm lại để cùng nhắc lại những kỷ niệm thiếu thời. Cái hạnh phúc, sao tôi không gọi được là cái hạnh phúc chứ?.. Cái hạnh phúc là những ngày xa nhà, xa quê hương, được có dịp gần nhau trên một bàn ăn, hay trên một chiếu rượu rồi cùng nhau gật gù, ngất ngưởng nhắc lại cái giọng nói thân yêu của mình lúc nhỏ, cái giọng nói quê mùa mà trái tiết của "quê kiểng", cái giọng nói đã vì cuộc sống, chúng tôi đã phải nhãng bỏ đi… không "ôn luyện" tới, nhưng những cái danh từ và giọng điệu ngày xưa, hôm nay lại hiện lại một cách tự nhiên dưới làn môi của những đứa con hoang làng xóm; anh em tôi vì tiếng gọi của cuộc sống mỗi người phải chạy một phương, tưởng đã xa nhau, khác nhau nhiều lắm, tưởng mỗi người sẽ có một giọng nói riêng, nhưng không, những tâm hồn giản dị ấy vẫn lại gần nhau, tìm thấy nhau một cách dễ dàng và cảm động biết bao. Chúng tôi đã gặp lại nhau trên những danh từ, trong những giọng nói của thủa nhỏ. Các anh tôi mỗi người nhớ lại một câu, nhắc lại một câu, thế là trong một lúc chúng tôi đã tìm thấy một cái giọng nói đầy đủ và tự nhiên là cái giọng nói của chúng tôi ngày trước. Thật là một thú vị bất ngờ và cảm động. Có khi trên một tiếng nói hình như ngớ ngẩn đối với người khác, chúng tôi đã tìm thấy được một mối đồng cảm, một chút tâm tình. Chúng tôi ngây ngất sung sướng vì đã tìm lại được cái cuộc đời thật thà của mình và cái dĩ vãng ấy như bảo đảm cho tương lai. Chúng tôi lại thấy rằng: Chúng tôi không thể rời bỏ nhau, không còn đời nào rời bỏ nhau được nữa. Vì chúng tôi vẫn còn là những đứa trẻ ngày trước.

Những cuộc hội họp, những cuộc luận bàn về tiếng nói ấy, nếu từ đất khách đưa về trên quê hương mình thì lại càng cảm động hơn và lý thú hơn nữa.

Đã thành một cái lệ trong gia đình tôi là mỗi khi những anh em tôi gặp lại nhau là tất nhiên có những cuộc hội họp để nhắc lại những cái giọng nói của mình ngày xưa vì chúng tôi đã nói một thứ giọng khác, nên vô tình nhiều khi trong sự nhắc lại như thế, cũng có ý chế nhạo cái tiếng nói "quê kiểng" của mình, những lúc nhận ra như thế, bất giác chúng tôi thấy cảm động vô cùng… Nhưng cảm động hơn nữa là "giữa những người học tây", giữa cuộc hội họp của những người "văn minh" ấy xen lẫn vào vài người đàn bà vẫn mặc áo theo lối "quê kiểng" và vẫn nói cái giọng nói quê kiểng. Những người đàn bà không hề học chữ tây và không hề rời khỏi làng xóm. Những người đàn ấy cùng góp vào câu chuyện của chúng tôi và với cái giọng tự nhiên nhất của mình, những người ấy đã nhắc lại cho chúng tôi một vài câu chuyện về lúc nhỏ của chúng tôi. Khi những người đàn bà ấy cất giọng là mọi người đều im một cách thầm kính. Nè để tin kể chuyện thằng Cọt cho mà nghe… À còn chuyện thằng con, thằng Nậy nữa. Khi người ấy nói là ai nấy cũng tin, vì những người ấy chính là những kẻ làm chứng thủa nhỏ của chúng tôi, vì những người ấy là chị Tiểu, chị Dịu, chị Nóng, những chị ruột của chúng tôi, mà thầy tôi đã gả cho những người trong làng.

Các chị tôi đã kể lại cho tôi lắm chuyện cảm động vô cùng và bao giờ cũng thành thực như thế, có khi là những chuyện mà chúng tôi cũng không nhớ nhưng bây giờ được kể lại bởi người đàn bà kia thì chuyện lại thêm một cái thú vị mới. Chuyện kể xong chúng tôi sung sướng cười ngất, nhưng riêng tôi trong khi cười, dưới nâng niu của tôi, đầy một giọt nước mắt có lẽ vì tôi đã thấy trong cái sự thay đổi của một sự vật có một cái gì tàn nhẫn. Mà trong cuộc sống lại hôm nay, tôi vẫn không tìm lại được những cái gì tôi đã bỏ mất.

 

***

 

Cuộc đời của chúng tôi sở dĩ có chút ý nghĩa tìm lại ở trong cái thời thơ ấu rất xa ấy. Chúng tôi còn thương yêu được nhau một ngày một thêm là nhờ sự sống lại một ngày một đậm đà hơn. Sống lại cuộc đời thơ ấu. Cuộc đời của chúng tôi còn to lớn hơn cái mức bình thường ấy là nhờ những kỷ niệm thiếu thời mà chúng tôi đã dưỡng ở trong trí nhớ, ở trong tâm hồn…

Đất ruộng vì thế, mỗi ngày một thêm gắn bó với chúng tôi hơn, vì chúng tôi yêu nhau hơn chẳng phải vì một phần mà chúng tôi đã yêu nhau qua cây bàng, cây mà chúng tôi đã cùng nhau đứa đứng dưới trỏ những trái chín và đứa trèo lên von để hái. Chẳng phải một phần chúng tôi đã yêu nhau hơn vì chúng đã cùng đưa tay cạnh nhau để cùng sờ chung một lỗ đất sét, thứ đất dẻo dùng để vắt trâu bò, ngựa xe, vắt các bậc vua chúa… Mà hỡi ơi, làm sao chúng tôi kể hết được những kỷ niệm đơn sơ mà cảm động ấy! Những kỷ niệm mà chúng tôi đã gửi lại trên đồng ruộng chúng tôi, nơi "quê kiểng" chúng tôi. Một vật gì nhỏ nhặt đến đâu lại chẳng biết nói với chúng tôi một thứ giọng thân yêu? Cái thứ giọng bập bẹ nhưng cũng xuất tự lòng chân thực mà ra thì nó cũng chỉ làm cho chúng tôi ngùi ngùi nhớ tiếc! Một ngày đến, xa thêm cái tuổi ấu thơ ấy thì tôi lại càng cảm thấy rằng chúng tôi cần phải giữ chặt lấy mối nhớ tiếc, mối lưu luyến với dĩ vãng, với những cái gì đã qua… Có lẽ các anh tôi cũng nghĩ như thế, nên mỗi năm cũng cần phải trở về thăm cái "quê kiểng" của mình, ít nhất là một lần… để được gần dĩ vãng, để được dịp nhắc lại những chuyện đời xưa. Nghĩa là những kỷ niệm về thời thơ ấu; mà nhắc những chuyện "đời xưa", đó chẳng phải đối với tất cả anh em tôi là một cái thú say sưa cảm động, một cái thú mà chúng tôi đã gần như không bỏ qua được!... Không ở đâu bằng trên miếng đất quê hương mình, mình lại thấy mình được gần dĩ vãng. Vâng thật có thế, mỗi năm chúng tôi tìm cách gặp lại nhau trên quê hương của mình, cố nhiên còn nhiều cớ khác mà chúng tôi sẽ nói ở chương sau. Nhưng một phần cũng là chúng tôi muốn được dịp xem lại những hội hè của dân làng… Mà những hội hè ấy cũng là những kỷ niệm thiếu thời của chúng tôi. Chúng tôi thường về quê vào dịp Tết, vì chính vào dịp Tết, dân làng còn giữ được nhiều tục, nhiều cuộc hội hè từ thủa xưa truyền lại. Những cuộc hội hè ấy mà tôi cho là những cuộc vui sớn sở của dân chúng.

Vì những hội hè ấy, những trò chơi ấy còn đầy cái không khí hung hãn kinh hãi ở chốn chiến trường. Không mấy năm là chúng tôi không về quê để dự cái trò chơi có ý nghĩa ấy của tất cả dân làng. Đến mấy năm gần đây cái trò chơi ấy vẫn giống như ngày còn nhỏ. Cũng vẫn giữ được cái vẻ kinh khủng của một cuộc hỗn chiến ở chốn xa tràng. Năm nào cũng vào ngày mồng bốn Tết, tục chúng tôi tiễn ông bà từ chiều mồng ba cho nên ngày hôm sau mới có quyền chơi đùa hè hội.

Từ sáng sớm cả dân làng đều có vẻ nôn nao, mọi vật xung quanh như có một dáng nghiêm trọng khác thường. Nhưng một quang cảnh rất thái bình đã làm yên lòng người dân. Vì trên các đường nhỏ khắp làng, người ta vừa thấy một bầy học sinh khăn đen áo dài chỉnh tề, nách cắp sách quyển, tay cầm nghiên bút, ung dung vui vẻ tới tràng. Không phải là một ngày nhập tràng, mà theo tục làng đó chỉ là một cuộc thi, đã chiếu theo lệ làng mà mở ra từ mấy trăm năm nay và trường quan không phải là những kẻ tầm thường đâu. Chính những tay đại khoa trong làng được cử ra chấm. Năm ấy thầy tôi làm chánh chủ khảo, cuộc thi càng thêm ráo riết. Người ta thấy những ông già trên 60 tuổi cũng ra thi. Một trò vui tao nhã và cũng là một dịp đầu xuân khoe tài với thiên hạ. Thủa ấy người ta còn có cái thú văn chương. Vì cái phần thưởng to nhất cũng chỉ là một sào ruộng làng, ăn một năm, năm sau lại trả cho người khác. Nhưng cuộc hạch thật là long trọng. Tuy những người hàng xứ không được dự, mà họ vẫn tới xem rất đông. Cuộc thi hình như chỉ có một bài thơ mà thôi. Nhưng chấm có vẻ nghiêm khắc và khi xướng danh thật là long trọng. Người trúng cách thật là danh dự vô cùng, có quyền hãnh diện trước những trai làng và nhất là trước những cô gái làng. Những cô thục nữ nón thượng quai thao, khăn tam giang, áo cổ y, những cô ấy cũng đến dự cho biết mặt người tài trai.

Ngày nay người ta thi "đàn bà" mà lại thi sắc. Thủa bấy giờ, người ta thi đàn ông mà lại thi tài. Nhưng dầu sao cuộc thi ngày xưa ấy thật đã dấy lại và giữ được một tục lệ tao nhã, cao quý, xứng với cái cổ truyền văn hiến của nước ta. Cái tục ấy, cũng may đến nay chưa mất hẳn, nhưng không tìm thấy cái vẻ long trọng của thời Hán học. Bây giờ cái tục ấy còn gì? Thật là thê thảm!...

Sau này tôi lại được cái vinh dự ngồi vào cái ghế chủ khảo, mà xưa kia cách 20 năm thân phụ tôi đã ngồi vào. Nhưng mà cuộc thi mà đến nỗi một "văn sĩ quốc ngữ" như tôi làm chủ khảo, thì người ta cũng đoán được cái vẻ tàn cục của nó đến thế nào. Thật là ngượng nghịu khi tôi lại ngồi vào cái cái chỗ vinh dự ấy.

Nhưng làng tôi giao cho tôi cái nghĩa vụ gì đây? Tôi muốn ra gì thì ra, tuỳ sức học trò.

Đại khái thì một bài luận bằng chữ Pháp, một bài luận quốc văn, một bài toán, một bài ám tả.

Thế cũng là hợp thời vì thí sinh ở đây hôm nay chỉ là những cậu học trò nhỏ, kể từ lớp năm đến lớp nhất. Mà làng sẽ thưởng những gì. Tôi nhớ: người đầu được 5 xếp giấy, 10 ngòi bút, 5 miếng giấy thấm. Cuộc phát thưởng không kèn không trống. Nhưng không nên trách vì cũng chẳng biết trách ai? Đây chỉ là một việc làm chiếu lệ. Người ta vẫn phải làm vì người ta không nỡ lạnh nhạt với một tục hay, nhất là không muốn quên rằng làng mình  là một làng văn học. Người ta còn muốn vớt lại một chút oai tàn của Hán học, chỉ có thế! Nhưng khắp cả dân làng đương triền miên ở trong giấc mộng văn thơ, trong một cảnh thái bình, thì một hồi thanh la xổ, và một hồi nữa tiếp theo. Giáp trên vừa cất tiếng gọi dân mình, thì giáp dưới cũng gọi dân mình.

Sau cuộc thi văn buổi sáng bây giờ là cuộc thi võ.

Làng tôi là một làng rất trọng kỷ luật. Đã bao nhiêu đời nhà dân đều quay cả về một hướng, hướng Nam. Họ lại ở thành từng xóm. Xóm không phải là một chòm nhà xúm xít nhau, mà xóm ở làng tôi chạy dọc theo một con đường dài, nhà trong mỗi xóm là ở hai bên con đường dài như thế, chạy từ đường quan ra "đường bản" là hai con đường lớn ở trước và ở sau làng. Làng tôi cả thảy có 21 con đường, như thế mỗi đường tức là một xóm… Mười xóm họp thành một giáp… Làng tôi có hai giáp, giáp Côi trên và giáp dưới. Xóm tôi là xóm trung tâm, gọi là xóm "quan". Con đường ở xóm tôi làm giới hạn cho hai giáp. Người ở bên tả, con đường thuộc về xóm trên, người ở bên hữu, con đường thuộc về giáp dưới. Ngay trong anh em tôi tuy là người một xóm, đã xúm xít gần nhau, nhưng có người ở bên này đường và có người ở bên kia đường. Anh em chúng tôi chỉ cách nhau có mấy bước, bởi một "mâm" đường mà thôi, nhưng chúng tôi đã ở hai giáp khác nhau và chốc nữa các bạn đọc sẽ thấy rằng ấy có một mối quan hệ tồn vong đối với chúng tôi.

Tiếng thanh la vẫn đổ dập và mỗi lúc một gần. Khi mỗi năm và dịp đầu xuân tôi lại nghe cái tiếng thanh la của giáp tôi. Cái tiếng đồng ấy tung ra như cái cảnh vỡ lở của một đàn ong vĩ đại. Cái cảm giác gợi vào tâm hồn ta nhưng không chỉ là cảm giác một cảnh đại náo mà còn có gì như gào thét, như kêu gọi, như giục giã chúng ta, như đun sôi máu ta, như lay chuyển cả tâm hồn ta…

Trong lúc thanh la hai giáp vang truyền sự đại náo, trong lúc những trai tráng đương xôn xao trông đợi từng giây, từng phút cái giờ nghiêm trọng, cái giờ quyết liệt thì những ông già vẫn bình tĩnh nhắc lại những năm oanh liệt của đời mình, nhắc lại với mình cái thủa rất xa ấy mà mình còn là một kẻ trai tráng còn hăng còn bạo mỗi khi nghe tiếng gọi của thanh la, giáp mình đã đứng dậy cởi áo, và giữa cơn gió lạnh xông tới trước sự tranh đấu cũng như một mãnh tướng lâm trận. Một ông già râu tóc bạc phơ quần điều áo đỏ, sau khi đã hớp xong cốc rượu tôi tặng ông, bèn híp lí tí đôi mắt lại và nói với tôi:

− Mọi năm thủa còn trai, ngày hôm ni là ngày sướng nhất đời, được đánh trần tráu bùn từ "trốc" đến chân như rứa mới thoả… Mọi khi mà nghe tiếng bèng bèng (thanh la) giục thì gân cốt như muốn rạn đứt ra, ngứa ngáy cả mình mẩy không răng chịu nổi!

Tôi hỏi lão:

− Thế còn bây giờ?

− Bây chừ răng?

− Thế bây chừ lão nghe tiếng thanh la gọi thì da thịt lão có ngứa ngáy nữa không?

− Dạ không.

− Không sao chứ?

− Lão không nghe tiếng thanh la nữa?

− Ủa!...

− Ấy một năm nay lỗ tai lão nó điếc tối điếc câm, có nghe tiếng nhưng nghe rất xa, tiếng thanh la không có vẻ nôn nao kinh khủng như buổi trước nữa.

− Thế đời lão đã cướp cù mấy lần rồi?

− Từ khi lên lão thì thôi không cướp nữa, chứ kể từ năm 60 trở về trước, là mỗi năm mỗi cướp. Mình không cướp ngứa ngáy không chịu nổi, và mình cũng phải làm gương cho sắp trai nữa chứ?

− Theo ý lão, bọn trai bây chừ có cướp hăng bằng thủa các cụ không?

− Răng bằng được. Bây chừ bọn trai, thầy coi ăn diện được. Các "eng ấy" còn sợ lấm quần lấm áo, chứ thủa "và tui" các trai đều mặc một cái quần mầu đà, có lấm đất cũng chả sao? Thầy coi cứ mấy năm gần đây các quan chức còn lấy bùn vứt vào những nón áo găng, áo cẩm châu của các trai. "Phá" họ thế nớ, họ mới vào cướp, bây chừ có trai đứa chỉ muốn nghênh ngang đi dạo ngắm gái chứ thủa "và tui" cướp "thật lực" mỗi giáp có bao nhiêu dân đinh là dân đi hết. Hai bên thật là cân sức. Hai bên cứ trằn đi trằn lại cho đến tối xẩm không phân thắng phụ. Tôi nhớ có năm ấy, năm Dậu, hai giáp cân sức nhau quá, cướp từ trưa đến tối thanh la xổ mà hai bên vẫn không buông nhau ra, người ta vất hào cù xuống giếng mà vẫn móc lên cướp.

Nghĩ một lát ông già lại nói:

− Bây chừ, dân làng đi "buôn ngoài" nhiều, đồng tiền có dễ, nên ăn thịt ăn béo nhiều, vào cướp một lúc đã "đổ mỡ" ra. Bì sao được thủa "và tui" dân trai chỉ biết cầy ruộng từ sớm đến tối năm, chỉ ăn khoai lẩu "nút nài", không biết qua mùi thịt, nên chúng tôi có thể "trằn" dai được, trằn suốt ngày mà không thấy mệt.

Ông lão có dáng thèm tiếc cái buổi "đương trai" và chép miệng:

− Thủa "và tui" hủ lậu mà được cái chắc chắn.

Nhưng thật ra những trai làng cũng không đến nỗi suy kém đi như ông lão tưởng.

Tiếng thanh la đòi giục từ sớm, đã tụ lại ở bên "trường làng" nơi chiến địa, đã tụ lại một số rất đông những trai làng. Công chúng có cả người hàng xứ tới xem rất tấp nập.

Dưới trời nắng chang chang, những dân đinh hai giáp đã đánh trần, họ búi chặt lại các búi tóc. Họ ngồi từng cụm, và những tên kiện tướng của mỗi giáp thì có ý giấu giếm hơn, cũng như người ta ở mặt trận, hay giữ gìn giấu giếm cái đám quân sinh lực của mình. Theo chiến pháp của giáp trên thì lúc đầu họ chỉ cho ra những tên "quân" tầm thường để quấy quả bên địch. Còn những tên kiện tướng, những mãnh hổ thì đợi lúc bên địch hơi yếu, họ mới xuất trận và lúc ấy họ sẽ cho một đòn quyết liệt, như gió như bão họ sẽ mang cù về "lêu" của họ. Nhưng quân địch của họ cũng không chịu để cho họ lung lạc một cách dễ dàng như thế. Những người này lại theo một chiến pháp khác, họ muốn rằng ngay lúc đầu phải động dụng hết cả sức mạnh của mình, tất cả trai tráng khoẻ mạnh gan bạo của mình phải ra ngay lúc đầu, và đánh kẻ địch một đòn không gỡ được và cướp lấy cái thắng quyết liệt ban đầu.

Nhưng một hồi trống đi, tiếp theo hồi thanh la của giáp trên, và hồi thanh la của giáp dưới.

Ông Lý bịt khăn tai mèo, lưng giắt cờ hiệu, đứng ra giữa, để "khắc cái"… Những dân giáp dưới thì đứng phía trên đường, dân giáp trên thì đứng phía dưới. Còn hòn cù, một gốc chuối to bằng ba cái đầu người, đặt ngay ở giữa đường cái. Ông Lý vẫn đứng giữa, hai bên ông là hai ông Trùm hai giáp, hai bên đã dàn trận, mỗi bên ít ra là độ gần 300 trai tráng.

Người ta nơm nướp chờ hồi trống lại và hai bên đã sẵn sàng.

Bỗng, một hồi trống vừa dứt và cái dùi trống vừa tung cao lên trời, thì ông Lý có hai ông Trùm giúp sức "dồi" hòn cù lên. Thế là một tiếng "hè" vang trời dậy đất! Những tiếng thanh la náo động bên tai, dục réo bên tai. Các chiến sĩ nhẩy vào như tranh nhau một trận quyết liệt tồn vong. Thật bấy giờ cái không khí say sưa và kinh khủng chẳng khác nào chốn chiến trường. Hàng trăm người kẻ lớp trước, người lớp sau, theo dịp thanh la cùng cướp, tranh nhau từng tấc đất. Vì thực ra, cũng là một cuộc chiến đấu tranh cướp trận địa.

Chỉ có một ít người gan góc là nhảy vào trằn cướp hòn cù. Còn bao nhiêu người thì đều ở vòng ngoài, xây lưng lại mà đẩy hoặc xô. Nhưng cuộc đấu dần dần thêm gay go, vì mỗi lúc trai làng lại ra thêm… Giáp dưới đã chiếm được đất, người ta vẫn ồ ạt, vẫn hăng hái thừa thế đoạt hẳn sự thắng lợi, nhưng dân làng giáp trên dần dần cố lấy lại sự thăng bằng. Giáp trên trong lúc chờ đợi cứu viện, cố trằn cù xuống một chỗ ấy cũng là lối tràng kỳ kháng chiến để làm tiêu mòn sinh lực bên địch mà bên địch thì trái lại, muốn lấy thế đông hơn, cố "sốc" cù dậy, và đẩy đi một hơi. Trời đã xế, cuộc đấu đã vào lúc gay go cực điểm. Giáp dưới đã đưa vào trận chiến tất cả những sức mạnh thừa thãi của mình. Mà giáp trên thì vẫn bình tĩnh, mỗi lúc mỗi tăng thêm người, thêm sức mạnh, họ vẫn cố trằn xuống để đợi dịp phản công. Cuộc đấu đã đến lúc gay go cực điểm. Mỗi người bấy giờ chỉ biết có giáp mình. Mặc dầu là cha con, mặc dầu là anh em ruột thịt, nếu người ta ở hai giáp khác nhau, người ta vẫn không ngại sự chiến đấu. Vì thế bấy giờ người ta thấy bà con ruột thịt cũng đương nỗ lực tranh dành nhau một tấc đất, một tấc hơi, vì không những chiếm đất, mà cuộc chiến đấu còn phải là một sự tiết kiệm sức khoẻ, tiết kiệm từng tấc hơi. Những hồi thanh la lại càng dồn dập. Trong lúc phần đông các trai tráng đương chiến đấu ở mặt trận, thì những chức sắc, những trùm trưởng của mỗi giáp phải đi từng nhà, len vào giữa công chúng để bắt thêm trai. Phép giáp rất nghiêm, bấy giờ nếu các trùm trưởng, các chức sắc có thấy một trai nào đương nghêng ngang trên đường thì họ có quyền trát bùn vào quần áo, hay là có quyền xé áo, xé quần những kẻ "đào ngũ" kia. Thật là một cuộc chiến như bao cuộc chiến khác, tuy máu ít khi chảy nhưng những cái búi tóc đã bị vất và bị dồi lên trời, và cũng bị tống dồi lên, những mảnh khăn hay mảnh áo mà người ta đã dựt được của kẻ nghịch. Chỉ sau một hồi chiến đấu, những áo quần của người ta, thân người và cả râu tóc đều bạc những bùn. Thanh la lại giục, người ta lại "hè hè!" và những cánh tay "quơ quơ" lên trời, tôi tưởng một cái hình ảnh ghê gớm nhất của một cuộc đại hỗn chiến cũng chỉ đến thế là cùng.

Trời càng xế, lại càng như đốt. Cái "khối" người ấy sùng sục như ở trong một bung nước sôi vĩ đại. Nhưng sự chiến đấu bắt đầu không ngang sức. Sức mạnh của giáp dưới đã bắt đầu nao núng, đã bắt đầu tan vỡ, trong lúc ấy giáp trên hết sức bành trướng sức mạnh của mình. Họ bấy giờ đều như đứng dậy cả một lúc, sức mạnh của họ đang lên như gió, họ sẽ thắng, và họ sẽ thắng, vì họ tin như thế. Họ đã chiếm lại những đất đã mất, họ lại xô đẩy kẻ địch như xô theo một chiều gió. Những người địch kiên cố nhất của họ, những kẻ địch cuối cùng cũng đủ ngã. Và họ đã ồ ạt bước lên. Và mang theo sự thắng trận cuối cùng. Phần thưởng chỉ có 1 quan 30 trự.

Nhưng họ đã giật được một giải quan hệ gấp nghìn, lòng vinh dự và sự vô địch…

 

Một ông già giáp dưới đã cắt nghĩa với tôi sự bại trận của giáp mình. "Mình không thể nào bì với trên ấy được!" (Chỉ giáp trên). "Dưới mình" người "đi ngoài" nhiều, có đồng tiền nên đã ra sung sướng! Còn "côi ấy" thì quanh năm không buông cái cày, chỉ lót cơm đỏ, khoai khô, họ "cù đày" họ chịu khó ăn làm, họ khoẻ. Họ khoẻ lại dai, cố nhiên họ được.

Một lát sau, người ấy lại nói tiếp:

− Năm nào "côi ấy" cũng được, sự ấy đã thành lệ và giáp trên có được thì dân làng mới được mùa.

Đã là sự dị đoan. Nhưng nguyên nhân mối dị đoan ấy cũng chỉ tại thiếu lòng tin. Lòng tin ở sự thắng trận, không phải thiếu sức khoẻ, thiếu sự dẻo dai mà chỉ tại thiếu lòng tin ở mình.

Mỗi năm mỗi thua, mà lòng tin mỗi năm phải nếm mùi bại trận.

 

***

 

Tôi nhận rằng đối với những hội hè, những phong tục ấy của làng tôi, anh em tôi đã có một tấm tình quyến luyến rất sâu nặng. Vì ở trong ấy, chúng tôi đã tìm thấy mình, tìm thấy cái hồn của tuổi trẻ. Nhưng anh em tôi mỗi năm trở về làng cũ còn vì nhiều duyên do khác nữa, chẳng kém thiêng liêng hơn. Bên cạnh tiếng gọi của gia tộc.

Trong anh em tôi có nhiều người giầu đến bạc vạn. Họ có thể sinh cơ lập nghiệp ở trong các thành phố lớn. Lại có những người vì công việc làm ăn, vì vợ con có thể sống ở những xứ sở khác được. Nhưng bây giờ thì ai nấy cũng thấy rằng: Sống xa quê hương, gây dựng những cơ nghiệp xa quê hương mình là một điều chẳng ai muốn, không ai nỡ. Vì ai ai cũng thấy được chết gặp nhau. Chết đã là một sự lạnh lùng, bây giờ người ta muốn chết bởi lạnh lùng hơn.

Người ta muốn nằm quây quần cả ở trên một miếng đất mà ông cha đã nằm, và sau này còn mấy đời con cháu nữa?...

Tôi nhận rằng những cuộc đoàn tụ của những người sống, cuộc đoàn tụ hàng năm của gia đình tôi thật là có ý nghĩa, vì rất hữu ích, nó trao đổi lòng thương, giữ gìn tình mến… Vì rằng gần nhau chúng tôi chỉ có thể yêu nhau hơn mà thôi. Như trên kia đã nói, được dịp gợi lại những chuyện xưa, chuyện về thời thơ ấu. Chúng tôi không còn thấy xa lạ nhau nữa, trong lúc cuộc sống, sự sinh nhai muốn chia sẻ chúng tôi, kêu gọi mỗi người mỗi phương và khiến cho ai nấy cũng như muốn làm mặt lạ với nhau.

Mỗi năm chúng tôi đã gặp nhau đông đủ, chúng tôi đã gợi lại cho nhau bao nhiêu việc hữu ích cho sự hoà thuận giữa anh em, bao nhiêu việc hữu ích cho tương lai của con cháu. Mỗi năm gặp nhau, anh em tôi lại bước thêm một tí trên sự yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng đó chỉ là một sự tạm bợ nhất thời, những việc không bền lâu hơn một kiếp nhân sinh không từ khi biết thương mến nhau. Chúng tôi đã từng nghĩ xa trông rộng, và chúng tôi, mỗi người trong chúng tôi mỗi lần đã bớt đi một chút của mình, để tăng thêm cho toàn thể cho gia đình, nhưng đó chỉ là một sự tiến bộ cỏn con trên con đường gia tộc, chúng tôi đã làm được nhiều việc hữu ích mà vẫn vụn vặt, chúng tôi chưa từng có một quan niệm đầy đủ, một ý nghĩa bao quát về gia tộc. Nếu chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến những người chết…

Những điều ấy, nhờ phước nhà chúng tôi đã nghĩ tới, chúng tôi đã mở cửa để vào cái thế giới của tổ tiên. Chúng tôi đã nghĩ đến người chết và nghĩ đến sự chết, và bắt đầu tin rằng những người chết còn coi sóc, cai trị cõi đời của chúng tôi, và một ngày kia chúng tôi sẽ ra hầu trước những tổ tiên để lãnh những công lao hay nghe những người trách phạt.

Cuộc gia đình đoàn tụ của chúng tôi, thật ra mới có cái ý nghĩa đầy đủ là khi nào trong cuộc đời của chúng tôi, chúng tôi đã dành một địa vị cốt yếu, vĩ đại cho những người chết.

Tôi còn nhớ độ ấy vào khoảng năm 1927 - 1928. Báo chí sách vở ở khắp nước ta đều hô hào sự cải lương hương tục… và sự thờ cúng tổ tiên, theo các đại gia ngôn luận của nước ta bấy giờ, thì sự cúng quảy cũng thuộc về một trong những lệ tục cần phải bài trừ.

Cái luận điệu của những người ấy mà chúng tôi đã lấy làm luận điệu của mình là tiết kiệm đồng tiền. Cố nhiên ở trong những việc cải lương cũng có nhiều điều hay như bớt việc đốt vàng bạc, bớt ít cỗ bàn, bánh trái và những thức ăn nguội lạnh đôi khi hại đến sự vệ sinh chung. Nhưng người ta đã đi xa hơn thế. Người ta hô hào bỏ Tết nguyên đán theo âm lịch, người ta hô hào bỏ bớt những ngày kỵ chạp. Có lẽ thủa bấy giờ người ta đã tiết kiệm được một món tiền lớn. Nhưng cái phong trào cải lương ấy đã đưa tới một ảnh hưởng bất ngờ. Tầng lớp sâu xa của lòng tin tưởng thanh niên như bị lung lay. Ở trước mắt họ, cuộc sống đối với họ chỉ là một cuộc trù tính suy cái mục tầm thường: trù tính về lợi lộc. Có ai nói với họ về những giá trị từ nghìn xưa truyền lại thì họ chỉ bĩu môi. Vì họ chỉ tin có hiện tại. Hiện tại là sự toàn năng. Dĩ vãng chỉ là cái kho rỗng. Trước bàn thờ tổ tiên, họ không còn giữ được vẻ nghiêm trang thành kính ngàn xưa. Những ngày kỵ chạp họ không tưởng, những ngày Tết nhất, họ không về. Họ cho rằng mình đã tự túc, và có thể họ sống không người chết, không "dòng họ", mỗi ngày lễ cúng họ có thể tính trước chừng nào hay chừng ấy, tiết kiệm được chừng nào hay từng ấy.

Thế là gần mười năm trường, nhân danh sự cải lương anh em chúng tôi đã quay lưng lại với ông bà, chúng tôi hô hào sự đạp đổ dĩ vãng, quét sạch những cổ truyền. Chúng tôi nghĩ rằng, với những chữ nghĩa Tây phương mang lại, chúng tôi có thể tự túc được cuộc đời tinh thần của chúng tôi. Suốt mấy năm trời chúng tôi sống không biết có ông bà, xem thường lời di huấn. Chúng tôi ngạo mạn cả với người anh trưởng nhánh của chúng tôi, một người thủ cựu đến xương tuỷ hết sức phản đối phong trào cải lương. Người ấy mà có lúc chúng tôi nộp rủa cho chết đi, nay chính chúng tôi lại tôn phục như một kẻ đại biểu xứng đáng của dòng họ.

Đã năm bảy năm nay, chúng tôi đã như chiếc lá ngăn trở về cội, với một lòng tin béo bạo và chắc chắn. Chúng tôi tin rằng: Cuộc sống của chúng tôi không thể có một ý nghĩa đầy đủ, nếu không có những người chết dự vào. Sự hiện tại không thể tự túc và tương lai cũng không thể tự chắc được nếu không đủ lòng tin ở dĩ vãng. Muốn băng mình ra chỗ tuyệt vời, muốn chiến đấu, muốn dự cuộc chiến đấu vĩ đại của tương lai, ta phải trở về dĩ vãng, tìm thấy những khí lực, những chất bổ đã nuôi sống ta mấy chục thế kỷ nay. Những chất bổ ấy phải là những chất bổ mãi mãi của ta. Không có lòng tin căn bản ấy, sự sống hiện tại và tương lai của ta không thể thành lập được. Không gì thường bằng hột gạo hàng ngày ta ăn. Nhưng đó là món không thay thế được. Nếu một ngày kia, ta thay nó bởi một món khác, ta sẽ động đến, làm nao núng đến tầng lớp sâu xa thiêng liêng nhất của cuộc đời ta.

Nếu một ngày kia ta rút lại lòng thờ phụng người chết, cất hết lòng tin tưởng ở dĩ vãng, đời sống ta không còn gì, sẽ là một sự trống rỗng làm cho ta ghê ngợm. Một ngày tâm hồn ta không biết nương tựa vào dĩ vãng, nó sẽ lung lay thác loạn. Cho nên sau khi đã cảm thấy sự hão huyền của những chủ nghĩa viển vông, sau khi đã nhận thấy sự tồn vong giữa người sống và người chết, chúng tôi lại trở về trước bàn thờ tổ tiên nhỏ lời thành kính, hối hận, chúng tôi cầu xin sự hồi hộ và sự bao dung và ông bà. Cũng như những đứa con hoang bỏ nhà, chúng tôi bây giờ chỉ nài xin sự lượng dung của ông bà. Chúng tôi, những bộ phận cỏn con, lại xin sáp nhập vào cái bánh luân chuyển vĩ đại huyền diệu của dòng họ. Chúng tôi chỉ cần cầu xin một điều là như những giọt nước biến đi trong cái biển dòng họ, chúng tôi thấy rằng: Dòng họ là tất cả mà chúng tôi chỉ nên quy thuận theo những luật phép thiêng liêng và bất di của dòng họ. Nhưng cái ngọn lửa thành kính bên trong chúng tôi vẫn còn chói lọi mãi. Vì ngọn lửa ấy tắt là cái dĩ vãng của chúng tôi tan nát… Ấy là sống, chúng tôi không nơi nương tựa, chết, chúng tôi không nơi quy túc.

Cái tôn giáo của chúng tôi ấy là sự giữ gìn cái lòng thành kính bên trong ấy. Sự thành kính đối với ông bà tổ tiên. Những tiền nhân đã truyền lại cho ta những giọt máu thiêng và một miếng đất thiêng để bảo trọng những giọt máu ấy…

Do lòng tin tưởng ấy chúng tôi sẽ nguyện sống không xa quê hương, chết cùng trên một miếng đất. Vì thế chúng tôi đã nghĩ tới một điều mà xưa nay chẳng bao giờ chúng tôi nghĩ tới, lập một phần mộ chung cho gia tộc tôi.

Làng tôi hơi xa núi nên từ trước những người dân làng chết người ta cứ chôn tản mác ở trên các đồng ruộng. Một phần ba đồng ruộng đã bị choán bởi mồ mả, một cảnh tượng nguy hiểm cho tương lai, trong ít trăm năm nữa, làng sẽ không đất mà chôn, đừng nói ruộng để mà cày. Nhân nghĩ đến cái cảnh tượng nguy nan ấy, anh em chúng tôi bèn có cái ý nghĩ mang hài cốt thầy tôi đương quàn ở vườn nhà mang lên núi… Chúng tôi tin ở thuyết phong thuỷ, tin rằng sông núi có quan hệ đến cả người sống và người chết nữa, chúng tôi bèn tìm một cảnh đẹp cho hương hồn thầy tôi an nghỉ. Quả chúng tôi đã tìm một hòn núi, một cảnh trí rất tôn nghiêm và xinh đẹp, chỗ thầy tôi an giấc ngàn năm đều dựa vào hòn núi, hai bên tả hữu lại có hòn núi như hai cái cánh trước mặt một dãy đồi trùng điệp, và xa hơn nữa những lúc tĩnh trời là một trời là một hòn cù lao. Hòn cù lao ấy thực ra cách xa phần mộ đến 15 cây số nhưng khi tối trời hiện ra trước mặt như một cái bình phong vậy… Sau khi đã dời hài cốt thầy tôi, chúng tôi lại dời hài cốt các mẹ tôi cùng lên nằm một chỗ ấy. Viên đá đầu tiên của cái lăng gia tộc đã đặt lên. Từ đấy đến nay đã bảy năm. Bấy giờ chúng tôi mới thật ra đã tìm được một nơi nương tựa, mới thật là yên ổn. Cái yên ổn của mình, trong sự yên ổn của người chết, của ông bà tổ tiên. Mỗi năm cứ lệ vào dịp đầu xuân, tất cả gia đình tôi lại lên núi tảo mộ một lần, mọi người tuỳ theo sức mình, đều phải làm việc, người thì rinh đá, người thì xới đất, người thì dọn gai. Đối với người chết, hôm nay ai nấy cũng có một phận sự cỏn con. Hôm nay tất cả anh em tôi đều về đủ. Những làn khói hương lặng toả và trầm lên ngun ngút. Phút này sự đoàn tụ của cả gia đình mới thật là hoàn toàn đầy đủ, vì bên cạnh người sống, chúng tôi còn có những cái chết, bên cạnh con cháu, có ông bà cha mẹ, bên cạnh sự tiến phát có sự phù trợ, và bên cạnh hiện tại và tương lai có dĩ vãng.

 

***

Mọi người ra về.

Tôi còn tưởng lại một phút và nghĩ đến cái chỗ nằm của mình một ngày kia rồi tôi nhìn ra nhưng đồi núi trùng điệp trước phần mộ.

Nếp lòng của tôi đương sổ tung ra bỗng như phong gói lại. Một tư tưởng đến làm ấm áp những tầng lớp sâu lạnh của tâm hồn. Tôi thấy trước mắt hiện ra một vẻ trùng điệp ấy, những tầng lớp vị lai họ sẽ nối tiếp nhau mà đến mang ở trong mình giọt máu thiêng liêng và trong lòng tấm thành kính, những thế hệ con cháu ấy trùng trùng điệp như những dãy đồi trước mắt. Sẽ chen lấn nhau mà đến rồi sẽ tuần tự xuôi tay và xếp mình ở chốn phần mộ này…

Bỗng cái cảnh tẻ lạnh của chốn âm phần tiêu tán hết và cái chết đã tự biến hoá trong cõi sống. Bấy giờ chỉ có dòng họ. Sự mênh mông của dòng họ. Rồi một ngày kia đồi núi cũng sẽ hẹp lại trước sự tràn trề của dòng họ. Vì núi rừng có hạn mà những người đến, những người sẽ đến, sẽ là một cảnh tượng vô cùng.

Hôm nay giờ phút này, tôi tin ở sự bất diệt của những giọt máu đã sinh nở ra tôi, tôi tin ở sự vô cùng của dòng họ.

·         Mùa đông năm 1942

 

● Nguồn:

Lưu Trọng Lư: Dòng họ, truyện dài xã hội, Nhà xuất bản Kiến Thiết, No 4 bis, Boulevard Borgnis Desbordes, Hanoi; Nhà xuất bản Hương Sơn, 97 phố Hàng Bông, Hà Nội, 1943; 208 tr., 13x19 cm.             

 

 

 

 


 

[a] Jean-François Marmontel (1723-99) nhà văn Pháp; Bélisaire (1767), tiểu thuyết lịch sử của Marmontel ; Les Géorgiques (tiếng Latin là Georgica) sử thi của nhà thơ La Mã cổ đại Virgilius (70-21 tr. CN) viết những năm 36-30 tr.CN.

[b] J. J. Rousseau (1712-78) nhà văn, triết gia Khai sáng Pháp; Émile ou de l'éducation (1762), Julie, ou la nouvelle Héloïse (1761), Les Confessions (1770, công bố 1782) - các tác phẩm của Rousseau.

[c] François-René de Chateaubriand (1768-1848), nhà văn, chính khách, nhà ngoại giao Pháp; Mémoires d'Outre-Tombe (1848, công bố 1850)

(1) Theo sự nghiên cứu gần đây của trường Bác Cổ thì dân tộc ta gần đây thuộc chủng Indonnésien. (nguyên chú)

(1) Ông ấy. (nguyên chú)

(2) Cảnh phong lưu ở quê. (nguyên chú)

(3) Em làm đến Án sát, con  làm Tri huyện. (nguyên chú)

[a] Mậu ngộ: sai lầm, lầm tưởng.

(1) Văn chương theo nghĩa người ta thường hiểu là thứ văn chơi. (nguyên chú)

(1) Võng bằng gai thô. (nguyên chú)

(1) Ở xứ ngoại tôi em gọi là “tam”. (nguyên chú)

(1) Hút thuốc giấy nghĩa là chỉ hút điếu giấy không có thuốc. (nguyên chú)

[a] kỷ thuật: tường thuật, kể lại tả lại.

[a] barre-fixe: sà đơn.

(1) Tên tục một người anh của tôi. (nguyên chú)

[a] bourse: học bổng

(1) Nếm mùi đất, ý nói là bị người ta đánh ngã. (nguyên chú)