LỜI GIỚI THIỆU

 

Cuốn Nhật ký in trong cuốn sách này là của Trần Văn Thuỳ, bạn học với tôi thời cùng học ở ngôi trường mang tên “Biên Hoà” ở thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, đầu những năm 1960.

 

Các bạn học cùng trường thưở ấy hẳn không thể quên anh bạn thấp bé nhẹ cân có tên là Thuỳ, ở lớp 8E, 9D, 10D, luôn luôn có mặt trong các kỳ thi học sinh giỏi, nhất là môn toán. Nhưng, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, Trần Văn Thuỳ lại không được vào học đại học; lý do chính, chung quy là cái “chủ nghĩa lý lịch” trong chính sách nhân sự suốt một thời kỳ dài.

 

 Khoảng hơn một năm sau, khi tôi đã theo trường đại học đi sơ tán lên vùng rừng núi ở Đại Từ, Thái Nguyên, tôi nhận được tin Thuỳ đã gia nhập hàng ngũ Thanh niên Xung phong, đi vào tuyến lửa, vào Nghệ Tĩnh, Quảng Bình và sâu hơn nữa. Chúng tôi vẫn liên lạc thư từ với nhau, Thuỳ kể đôi nét cuộc sống của mình bên cạnh đồng đội mới, − những người chuyên  đảm bảo thông suốt cho con đường ra tiền tuyến, và, chừng như để giải toả chút ít cho cái “mộng đại học” còn chưa thành, Thuỳ bảo tôi viết thư kể cho Thuỳ chuyện ở giảng đường đại học, chuyện đời sống văn học đương thời, v.v…

 

Rốt cuộc thì ước vọng vào đại học của Thuỳ cũng được thực hiện, chỉ muộn hơn bạn bè cùng lứa chừng 4 -5 năm. Trần Văn Thuỳ lại trở về là một sinh viên giỏi của trường Đại học giao thông ở Hà Nội. Đầu năm 1975 anh đậu bằng kỹ sư, về làm việc tại công trường xây dựng cầu Thăng Long. Đức tính ham học hỏi cùng với sự tận tụy trong công việc đã giúp anh sớm trở thành một cán bộ kỹ thuật có uy tín trong ngành thiết kế và xây dựng cầu đường. Anh từng là Phó Giám đốc xí nghiệp thiết kế thuộc Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông vận tải Thăng Long, Kỹ sư trưởng tại công trường thi công cầu Trung Hà. Khi đang bắt tay triển khai công trường xây dựng cầu Yên Lệnh thì anh lâm bệnh, ít lâu sau thì mất (18/7/2002).  

 

***

 

            Cuốn nhật ký ghi từ ngày tham gia Thanh niên xung phong, sống và làm việc trong Trường Sơn này, một trong những người đầu tiên của giới văn học được tác giả của nó đưa cho đọc và trò chuyện về nó, chính là nhà văn Phạm Sông Hồng.

Khi đó Phạm Sông Hồng từ công trường xây dựng thuỷ điện Hoà Bình chuyển về Hà Nội, vừa theo học trường Viết văn Nguyễn Du, Hồng lại vừa làm biên tập tại Nhà xuất bản Hội Nhà Văn (nơi tôi − Lại Nguyên Ân − làm việc từ tháng 9/1977 đến tháng 12/2007, tức đến khi nghỉ hưu). Khoảng giữa những năm 1980, có một lần Hồng được dịp làm quen với  vợ chồng kỹ sư Trần Văn Thùy. Tại căn nhà ở tạm trong khu lán trại của công trường cầu Thăng Long, anh Thuỳ đã đưa cho Hồng xem một số đoạn nhật ký, kể cho Hồng nghe một số tâm sự của anh thời kỳ đang ở giữa núi rừng Trường Sơn, nhiều gian khổ nhưng cũng nhiều mộng ước. Sau đó, dù có vài người khác đề nghị cho khai thác cuốn nhật ký này, anh Thuỳ cho biết vẫn quyết định sẽ giao cuốn nhật ký này cho Phạm Sông Hồng, để Hồng tổ chức công bố.  Và cuốn nhật ký, sau khi tác giả của nó qua đời, đã được giao cho nhà văn Phạm Sông Hồng. 

            Với tôi, một bạn học cũ, sau này khi gặp lại nhau, Thuỳ đưa lại cho tôi một số lá thư tôi từng gửi và Thuỳ còn giữ được; đôi lúc Thuỳ cũng nói chuyện với tôi ít nhiều về việc Thùy ghi nhật ký hồi còn ở trong Trường Sơn, nhưng chính cuốn nhật ký ấy thì chưa lần nào Thuỳ đưa tôi xem, mặc dù cái ý định chuyển cho Phạm Sông Hồng để tuỳ dịp sẽ công bố thì Thuỳ cũng đã nói từ khá sớm với tôi.

Từ lúc các cuốn nhật ký của Thuỳ được giao cho Phạm Sông Hồng, tôi và Hồng, hai người cùng làm nghề biên tập sách ở cùng một nhà xuất bản, thường bàn bạc với nhau về cách thức khai thác hoặc công bố những ghi chép này, những ghi chép mà hiển nhiên, với thời gian, ngày càng trở thành một loại chứng từ quý hiếm về những mảng đời sống đã một đi không trở lại.

Gần đây, kiếm được chút thời giờ ngắt quãng giữa các loại công việc sách  vở khác nhau, tôi đề nghị Phạm Sông Hồng chuyển cho tôi cuốn nhật ký nói trên của Trần Văn Thuỳ, − tôi sẽ giành thời gian xem kỹ hơn và lần này sẽ đề xuất một cách khai thác.

            Xem kỹ các cuốn sổ ghi chép, tôi nhận ra rằng chính tác giả Trần Văn Thuỳ đã chuẩn bị sẵn một bản Nhật ký Thanh Niên Xung Phong của mình để sau này Phạm Sông Hồng tiện dùng khi công bố.

            Toàn bộ di cảo của tác giả gồm 5 cuốn sổ, trong đó 3 cuốn là sổ tay cũ, chủ yếu dùng để ghi nhật ký hàng ngày, từ tháng 5/1964 đến tháng 8/1968, cạnh đó đôi khi cũng dùng để chép nhạc, chép các bài tóm tắt kiến thức lượng giác, hình học, v.v… Hai cuốn còn lại, thật ra là 2 tập gồm những tờ giấy rời đóng ghép lại, trên đó tác giả chép lại hầu hết các phần nhật ký đã ghi từ 3 cuốn sổ kể trên; tập thứ nhất ngoài bìa ghi rõ: “từ 7/1965 (ngày đi TNXF) đến  9/1968”; tập thứ hai ngoài bìa ghi rõ: “từ 9/1968 đến 9/1969 (ngày ra về)”. Hai tập này được thực hiện về sau, có lẽ khi tác giả đang học đại học, thậm chí đang làm việc ở công trường cầu Thăng Long, tức là vào những năm 1970-80; tác giả đã chép lại, nhiều khi phải tự dịch lại các ghi chép cũ, thường đã phai màu mực, lại cũng thường được viết, trong khá nhiều đoạn, bằng một thứ mật ngữ riêng, hình như để chỉ riêng mình hiểu, dùng lẫn lộn một cách cố ý các chữ cái Nga và chữ cái Việt (La-tinh); tất nhiên cũng có nhiều trang ghi chép cũ còn khá dễ đọc, tác giả chỉ đưa chụp photocopy từng trang rồi đóng gộp lại.

            Tôi và Phạm Sông Hồng cho rằng, nội dung mà Trần Văn Thuỳ thể hiện lại vào 2 tập  giấy đóng thành sổ kể sau đó chính là nội dung “Nhật Ký Thanh Niên Xung Phong” mà anh muốn công bố. (1)

 

***

            Hẳn sẽ có bạn hỏi: cuốn nhật ký này nên được đánh giá ra sao, nếu đặt cạnh một số cuốn sách thuộc loại tương tự, được cho ra mắt mấy năm gần đây?

Trước hết, tôi nghĩ, sẽ là nhẫn tâm đến mức đáng trách nếu ta đặt câu hỏi về điều gọi là “giá trị hơn kém” đối với các ghi chép vốn dĩ ngay từ đầu chỉ là những tư liệu cá nhân, các tác giả không hề tạo ra nó theo cung cách làm ra tác phẩm ngôn từ nghệ thuật. Đây cũng vốn là một trong những phương thức, phương tiện sống của con người, và khi trở thành quá khứ, chúng còn lại với thời gian như những chứng từ sống, nảy sinh từ những tình thế đời sống cụ thể của một cá nhân. Về sau được giới thiệu cho những người khác, − tức là các độc giả, − chúng sẽ được những độc giả chúng ta cảm nhận khác nhau, tuỳ theo việc những trải nghiệm sống gắn với các chứng từ kia có ý nghĩa ra sao đối với mỗi người tiếp nhận. Điều đáng kể là những trải nghiệm sống được ghi lại trong những chứng từ này, chứ không phải tài năng hư cấu hay nghệ thuật dùng từ.

Viết đến đây, tôi không thể không trích dẫn một nhận xét sâu sắc tuy không dễ đồng tình của một học giả:

“Sự thật duy nhất trong lịch sử là không có sự thật lịch sử, chỉ có hàng loạt những trải nghiệm mà phần lớn bị lãng quên nhanh chóng, một số được ghi nhớ và trau chuốt bởi những người hát rong, các tiểu thuyết gia, nhà triết học, linh mục, nhà làm phim, và tất nhiên là các nhà sử học chuyên nghiệp” (2)

Ta có thể thậm chí không đồng ý với  nhận xét này, song nhân đây lại nhận ra, − mà nếu nhận ra rồi thì càng thấy rõ hơn − vai trò của những trải nghiệm mà những cá nhân nhất định đã ghi lại. Ký ức về những trải nghiệm kia, từng cái một, hẳn không thể tạo ra cái có thể gọi là sự thật lịch sử; song mỗi ký ức được ghi lại kia, từng cái một, có thể gợi dậy những trải nghiệm đã từng có, đã từng gắn với những biến cố của lịch sử.

 

Về cuốn nhật ký này của bạn tôi, điều rõ ràng, nó bao gồm những trải nghiệm của một thanh niên đã tham gia duy trì con đường Trường Sơn máu lửa thời chiến. Tác giả cuốn nhật ký này đã sống, làm việc hết sức mình. Như anh từng viết không chỉ một lần, anh không có gì để phải bị trách cứ, ngược lại, anh hoàn toàn có thể tự hào vì đã sống, lao động và chiến đấu như một chiến sĩ vì sự nghiệp chung, trong những năm tháng ấy.

Song, cuốn nhật ký này gắn với một con người cụ thể, một tâm trạng cụ thể. Và về mặt này, khi  ghi  chép thiên hẳn về  tâm trạng của mình những năm tháng ấy, − dẫu lâm thời chỉ nhằm giải toả một phần những bức bối tiềm ẩn trong mình thời gian ấy, −  tác giả nhật ký này có lẽ không ngờ được rằng trường hợp của mình không hề là trường hợp riêng tư “cá biệt”; ngược lại, từ trường hợp riêng của mình, anh lại cho thấy được  một nét khác, một nét trầm trong bản hùng ca chung,  ghi lại  được một kiểu tiểu sử, một loại con đường trưởng thành của người thanh niên ở thời đại cụ thể ấy.

Tôi muốn lưu ý bạn đọc về nét trầm ấy, trong cuốn nhật ký này của bạn tôi.

Ta sẽ thấy tác giả nhật ký này quyết định lên đường ra trận, giữa những năm 1960, không phải với tư thế hồ hởi phơi phới, bởi lựa chọn gia nhập lực lượng TNXP, đối với một “ca” học trò giỏi, đầy triển vọng trong con đường học vấn như anh, là lựa chọn cực chẳng đã, trong tình thế xã hội đương thời đang bị chế ngự bởi  những tiêu chí “thành phần giai cấp” mà anh chỉ là nạn nhân. Với tiêu chí “thành phần gia đình”, anh thậm chí không đủ điều kiện để gia nhập hàng ngũ quân đội! Cho nên, với riêng những trường hợp như anh, chấp nhận vào TNXP là chấp nhận một sự hạ thấp, một sự sỉ nhục của “xã hội” xung quanh, chấp nhận trả giá cho sự bất công mà người ta đối xử với mình; bởi, chỉ có chấp nhận như thế mới có thể đòi lại một số quyền đã mặc nhiên bị tước mất, rõ nhất là quyền vào học đại học! Mà đằng sau cái quyền vào đại học ấy là quyền làm người, − làm người bình thường giữa những người cũng được coi là bình thường khác!

Hiểu được tình thế này, ta sẽ hiểu vẻ trầm buồn của nhật ký này và tác giả của nó: ra trận trong nỗi buồn man mác; tại chiến trường thì lao động và chiến đấu cật lực, vừa giao tiếp vừa giữ khoảng cách với người xung quanh; không được các cấp chỉ huy tin cậy, không được khen thưởng gì; người mình thầm yêu thực sự thì chính mình phải tìm cách lìa xa để cô ấy được thăng tiến; cho đến vài mối cảm tình khác nữa cũng mau chóng thoảng qua; rời mặt trận trở về hậu phương không hề trong tư thế người có thành tích, song lại trong tâm trạng gần như hững hờ, lơ lửng, không buồn, không vui… Và, có lẽ, chỉ khi đã vào học đại học, bạn tôi mới tin rằng cuộc trả nợ của mình đã hoàn tất!

Cho đến cả cách ghi chép nhật ký nữa, bạn tôi cũng tìm một ứng xử thích hợp. Anh biết là người ta nghi kỵ anh, xét nét anh, cho nên nhật ký không chỉ là chỗ anh thổ lộ tâm trạng mà còn là chỗ anh đối phó với những cặp mắt soi mói. Có khi anh nống lên một vài câu cú hợp thời, như để “ru” đôi người tò mò nhưng nhẹ dạ, khuyên họ hãy thôi đi đừng nhòm ngó tâm hồn người khác. Nhưng anh biết vẫn sẽ còn  những người không thôi tò mò; vì thế vẫn phải tìm cách che giấu hữu hiệu hơn. Có khi anh ghi vài chữ đánh dấu cái mình nghĩ, nhưng chính ý nghĩ ấy thì quyết không ghi ra giấy. Và để tạo thêm sự tự do cho mình, anh nghĩ ra cách viết bằng mật ngữ riêng, để chỉ riêng mình đọc được, (3) đến nỗi sau này khi tự “giải mật”, có lúc có chỗ chính mình cũng không hiểu ra, anh phải bực mình ghi chú bên lề: “Tại sao không đọc được?”.

 Thành thử, nhân đây ta được thấy, ký ức là điều cá nhân con người vừa có nhu cầu ghi lấy, lại vừa có nhu cầu che giấu đi. Không hiểu điều này mà chỉ đại ngôn  rằng hễ đã là nhật ký tức là chỉ ghi “sự thật”, − diễn ngôn ấy cố nhiên là một thứ ấu trĩ dễ thấy, bởi không tính tới tình thế sống cụ thể của người ghi nhật ký.

Như đã biết, cuối cùng thì tác giả nhật ký này cũng sẽ được “xã hội” thừa nhận, anh được vào đại học, được học hành để trưởng thành về kiến thức, được thăng tiến trong nghề nghiệp. Nhưng tất cả chuyện đó chỉ xảy ra về sau, sau thời gian của cuốn nhật ký này.

 Và như vậy, thời gian của cuốn nhật ký này đối với nhân vật “tác giả” trở thành thời gian lưu đày cần thiết, thời gian “cỏ vê” trả nợ cần thiết. Thành thử, ta lại có thể đọc câu chuyện về con người mà tâm tình được giãi bày trong − hoặc bị che dấu sau − các ghi chép này như đọc một câu chuyện, một cuốn “tiểu thuyết”. Có thể gọi tên chủ đề cuốn “tiểu thuyết” ấy theo nhiều cung bậc của những biểu trưng ta muốn: như câu chuyện về con người phấn đấu để trưởng thành; như câu chuyện về kẻ chịu đày đoạ để được đổi thay số phận; như câu chuyện về nhân vật ở thời kỳ đang phải mang lốt cóc, đang phải khoác bộ lông vịt con xấu xí, v.v…   

 

***

 

            Như đã biết, bạn tôi rốt cuộc đã vượt qua được cái bất công của một thời, đã giành được sự thừa nhận và đã thăng tiến ở chính cái xã hội đã từng gây khó khăn cho anh. Tức là anh vẫn còn may mắn hơn khá nhiều người khác, vốn đã bị những bất công xã hội thời ấy đánh gục. Tôi nghĩ, anh không hận gì đối với cuộc đời này. Song, cái trải nghiệm, cái ký ức của một thời gian khổ kia, anh không muốn quên. Ngược lại, anh muốn chia sẻ với đồng loại. Đây là điều không khó hiểu, thậm chí là ý hướng cần được ủng hộ, khích lệ. Bởi không một trải nghiệm nào, nhất là những trải nghiệm mang dư vị đắng đót của cõi người, mang bộ mặt cụ thể hoàn toàn không hiền lành của mỗi thời mà chúng ta từng sống qua, lại là không nên ghi nhớ, hơn thế, chia sẻ với đồng loại.

            Chúng tôi, một số bạn học cũ của Trần Văn Thùy, muốn cho in ra để giới thiệu với bạn đọc cuốn nhật ký nhỏ này của anh, chính bởi lý lẽ vừa kể.

 

                         Hà Nội, những ngày đầu Xuân Mậu Tý 2008

                                          LẠI NGUYÊN ÂN

Chú thích

(1)  Sau khi in Nhật ký thanh niên xung phong dưới dạng sách giấy, tôi giành thời gian xem kỹ các phần nhật ký Trần Văn Thùy viết trước đó, thấy các trang viết ấy cũng có ích, nên trong bản điện tử này, tôi đưa thành một phần riêng, trước phần đã in sách giấy.

(2) David Marr: Lời nói đầu cuốn “Việt Nam 1945: Sự tìm kiếm quyền lực”, Berkeley, 1995; dẫn lại trong bài của tác giả: Một đời với Việt Nam // Xưa & Nay, s. 299+300, tháng 1/2008, tr. 43 (bản dịch).

(3) Ví dụ một đoạn:  “Đáng buồn cười, đáng khinh. Mужик là gì? Kулак là gì? A ha!!! anh ta lại gán cho ta hử? Tiếc rằng không thể nói hết những ý nghĩ ngu xuẩn ấy ra đây được.” được viết như sau: “ddangs buoonf cuuuoup ddangs khunhz. Mужик laf guf ? Kулак laf guf ? A ha !! Anhz ttaz lauj gans choz ttaz huur? Ttieecs roangf khoong ttheer nous heetts nhuungx ys nghux aays ra ddaayz dduuuocj”. Ta thấy TG dùng nhiều quy tắc telex Việt (về thanh điệu với ký tự cuối mỗi âm tiết: s = sắc, f = huyền, j = nặng, v.v…; aa = â, oo = ô, uu = ư, uo = ơ, dd = đ,  v.v… ), nhưng cũng dùng u để ghi chữ cái “i” của chữ Nga, v.v…ví dụ: gu = gì. Các từ “muzhik” (= nông dân), “kulak” (= phú nông) được viết bằng chữ Nga.