HOÀNG LỘC, MỘT NHÀ THƠ MỚI
Trong tầm tri thức đại chúng hiện tại, tác giả Hoàng Lộc (1920-49) chỉ được biết đến như một nhà thơ nhà báo liệt sĩ thời kháng Pháp, tác giả của thiên phóng sự Chặt gọng kìm đường số 4 (1948) và bài thơ Viếng bạn. Từ dữ liệu ít ỏi này, có nhà nghiên cứu đã mặc nhiên liệt Hoàng Lộc vào hàng những “tác giả một bài” trong một nền thơ có hàng vạn người làm thơ.
Sự thật thì không ít nhà nghiên cứu đã biết mang máng rằng hai tên tác phẩm kể trên chỉ là những văn phẩm gần như sau chót của một đời văn ngắn ngủi ấy, rằng trước đó Hoàng Lộc đã có tác phẩm được công bố rồi. Nhưng tìm kiếm kỹ lưỡng thì bao giờ cũng không là việc dễ.
Một số sách báo hoặc hồi ức về phong trào thơ mới thảng hoặc có nhắc đến Hoàng Lộc trong một vài liên hệ với những nhóm thơ ở Hà Nội đầu những năm 1940, như nhóm của Đinh Hùng, nhóm của Thâm Tâm, và bên cạnh tập thơ Giác linh hương của Đông Hoài người ta thường nhắc tới tập thơ Từ tịch dương đến bình minh của Hoàng Lộc.
Từ nhiều năm nay tôi rất chú ý tìm manh mối tập thơ này. Nhưng đã không hề thấy nó trong lưu trữ của Thư viện Quốc gia.
Một lần đến chơi với nhà báo Ngô Vĩnh Bình ở tạp chí Văn nghệ quân đội, tôi được anh cho xem bản chụp photocopy một tập thơ của Hoàng Lộc nhan đề Lời thông điệp do nhà Tin Hoa in năm 1946 ở Hà Nội. Từ bản chụp lại bản chụp của anh Bình, tôi lưu ý tìm kiếm thêm thông tin và sau cùng thì được xúc tiếp với một bản in của chính tập thơ này, hiện lưu tại Thư viện Quân đội.
Đó là một cuốn sách giấy dó khổ 16x24 cm, được thực hiện theo cách in những cuốn sách quý ở Hà Nội hồi trước chiến tranh, điều này có thể cảm nhận được ít nhiều qua nội dung trang đánh dấu sách (page de signet):
Đối với việc hiểu biết sự nghiệp sáng tác của tác giả Hoàng Lộc thì nơi có nhiều thông tin nhất là trang “Cùng một tác giả” (tr. 6).
Theo nội dung trang đó thì cho đến lúc in ra tập Lời thông điệp này, Hoàng Lộc có 2 tập thơ đã in: Từ tịch dương đến bình minh và Lời thông điệp. Ngoài ra, tác giả còn thông báo sẽ in tập Viễn phố.
Như vậy, cho đến hiện giờ, để mô tả Hoàng Lộc, trong một mục từ của từ điển tác gia chẳng hạn, ta có đủ cơ sở để ghi tên 3 cuốn sách của ông: Từ tịch dương đến bình minh (chưa rõ năm in), Lời thông điệp (1946), Chặt gọng kìm đường số 4 (1948).
Tập Từ tịch dương đến bình minh tuy chưa tìm thấy văn bản, nhưng tên sách không chỉ tìm thấy trong một số hồi ức của người khác (như mức mà ta biết được trước đây), mà là được ghi rõ trong cuốn Lời thông điệp bởi chính tác giả.
Một số lời đề tặng ở một số bài thơ cho thấy một số mối quan hệ của tác giả, chẳng hạn, bài Trẻ lòng (bài thứ 4 trong Khúc giáng hương) đề “Tặng anh chị Lê Ngọc Quân”; bài Người bước rung vang mấy xóm rừng (bài thứ 5 Khúc giáng hương) đề “Tặng Đông Hoài”; bài Nhạc kín đáo bảo với nàng hội hoạ (bài thứ 1 Khúc Vong tình) đề “Tặng Văn Cao”.
***
Tập thơ thứ hai của Hoàng Lộc, Lời thông điệp được cấu tạo như một liên hoàn các khúc thức (dạng thức các đơn vị gọi là “khúc” ở đây, có lẽ là mượn tên từ hình thức cấu trúc âm nhạc), tuy chất liệu vẫn là những bài thơ độc lập nhau. Xin hãy hình dung theo một “mục lục” sau đây: Khúc dạo: 1 bài. Khúc hoài niệm: 4 bài. Khúc thông điệp: 4 bài. Khúc đi hùng tráng: 3 bài. Khúc giáng hương: 7 bài. Khúc vong tình: 5 bài. Khúc ca thần tụng: 10 bài.
Tập thơ mở ra bằng Khúc dạo, (1 bài) cho thấy một “tôi” đang “vào cõi phù du”:
Tôi nghe mà chưa hiểu Những dấu hiệu chung quanh ………………………………………… Tôi đi tìm sự vật Lẽ tương đối trong tâm
Tiếp đó, Khúc hoài niệm (4 bài) như một lời trò chuyện giữa “tôi” và một “Em” nào đó: Có phải Em là linh hồn nhân loại Trong buổi hồi xuân? Có phải Em về đây, qua thời đại Nguyên vẹn thanh tân?
…….. Theo lời mẹ, Em giao tình, đổi mới Những tâm thần u dại chốn nhân gian Những linh hồn vong bản nhục cơ hàn Cho Đất sẽ nở hồng toàn hoa ngọt
“Em” (viết hoa) ấy, trong ý tác giả, vừa rất quen:
Tôi biết em từ buổi nhớn lên, Rồi mơ đêm, thương nhớ giong đèn
Nhưng hình như lại chưa được gặp mặt, và vẫn thầm mong được gặp:
Chắp tay hỏi bóng: bao giờ gặp? Cho thoả tấm tình chưa có tên.
……… Tôi ruổi em hay bóng ruổi hình Từ buổi bình minh Biến thiên mấy độ, sầu nhân thế Vẫn hát thanh bình Ca ngợi tuyết trinh
Em xa, xa mãi Em vắng, vắng hoài Tôi đi buổi mai Gặp trời quan tái Tôi ngồi nắng quái Thương nhớ đêm dài Như lạc Thiên Thai
“Em” ấy là ai? Khó có thể đáp rõ. Đó như là cái đối tượng mà tác giả hướng tới, tìm tới, đã từng biết nhưng không dễ gặp lại, như đối tượng tình ái, lại như đối tượng và nguồn cội của thi ca, như Nàng Thơ của các thi sĩ:
Tôi biết Em, đời thêm hãnh kiêu Tôi mơ Em, thầm dám mơ nhiều Chiêm bao cuồng loạn, riêng lòng biết Và bảo thầm: Em sắp giáng thơ!
Tiếp theo, ở Khúc thông điệp (4 bài), nghe như có một chuyển biến, chuyển hoá:
Đêm qua có tin xa lại Mùa xuân về ngự kinh thành Sáng nay hoa nở khắp cành Cả thành rủ nhau đi hái
Đêm qua Mùa Xuân áo mới Gọi người dậy đón mùa sang Sớm nay phố xá hai hàng Tưng bừng mở ngày Đại Hội
Đem qua cô gái thơm tươi Áo trắng xinh thêm nụ cười Sớm nay cảnh vật sáng ngời Dịu hồng mặc toàn nắng mới
Bước chân rung vang đường sá Người đi hoa bụi bay rơi Chao ôi! Ai vẽ khắp trời Đám mây mùa xưa chấm phá
Rồi tới Khúc đi hùng tráng (3 bài) cho người ta hình dung một thay đổi ngang cỡ cuộc Sáng Thế:
Buổi Xưa bên cuộc Hỗn Mang Đất không ảnh ôm trời không toả bóng Một hôm Người đến huy hoàng Làm cuộc phân chia long trọng Buổi Xưa tăm tối điệp trùng Đất u dại trời không ánh giáng Một hôm Người đến từng bừng Mang ánh sáng lành chói rạng ……….
Đạp núi rừng và trạm đục hang sâu Người kiêu hãnh vạch nên đường biên giới Hồn bộ tộc tự non cao về tới Cỏ gai nào nhường dấu vết gạch xây Đất hoang sơ đảo lộn dưới lưỡi cày Từng dân tộc bắt đầu chung cuộc sống ……………
Tiếp đó, Khúc Giáng hương (7 bài), hầu như trở lại câu chuyện “tôi” hướng tới “Em” :
……. Em vẫn giồng hoa ở viên thôn? Xuân qua vườn nở hết hay còn?
……. Tôi tìm đường tắm nước sông Ngân Tìm Em chiêm ngưỡng đời mơ ước Rồi hỏi cho tường lẽ vọng xuân
Nhưng có lẽ đây không chỉ là, thậm chí không chủ yếu là chuyện yêu đương trai gái. …… Em trang điểm khoác vai đôi vòng lá Thoa nắng hồng trên mắt với trên môi Giục mau đi, Em chẳng muốn tôi ngồi Nước ngừng đợi, cây bắt đầu lấp ý Bước cùng nhẹ trong dáng trời thuỳ mị Dạo lời ca từ phương gió xôn xao Gió phương Tây: điệu hùng mạnh máu đào Trời Đông Hải: hương xanh Kinh cầu nguyện Đời hoan lạc, lòng nghe chim trò chuyện Giọng từ bi trao ý chốn thiền môn Bến Hằng Giang chìm hết chuyện vong tồn Hồn cát bụi thoát chăng vòng luân chuyển Lời tâm sự, Em ơi, lời cầu nguyện.
Tiếp theo, Khúc vong tình (5 bài) lại xuất hiện ý hướng muốn hành động vượt ra ngoài nghệ thuật: Ôi bất lực! Những tà ma nghệ thuật Ôi mong manh cả kiến trúc thần linh
Thế hệ nào đây đổi xác thay hình Bao giờ sẽ mang dáng đời viễn vọng? Người thường biết buồn mơ và xa ngóng Thi nhân ơi, còn hát đến đêm nào? Đốt ưu tư, bừng ngọn lửa khát khao Nổ tiếng thét, khóc ý đời bay mất.
Trong “khúc” này lọt vào một âm chỏi: bài thơ Khóc chị bằng thể lục bát như tách biệt với tất cả các bài trong tập, cả về thể thơ lẫn ý thơ:
…… Trời xanh xanh đến phương nao? Hồn ma thơ dại má đào còn không? Cõi âm còn để da hồng? Tóc xanh tha thướt bềnh bồng còn bay? ……..
Cuối cùng, Khúc ca thần tụng (10 bài), gồm những bài thơ ngắn, với những cảm xúc về sự gặp gỡ “tôi” và “Em”:
……. Em đến bên trời khẽ nhủ tôi Dậy nghe Tiếng Vọng gọi liên hồi Mê chi giấc ngủ vô tri nữa ………..
Em đến rồi đây, ở cuối đường Tôi nhìn kính cẩn bớt đau thương Trời như phảng phất hương thanh tịnh ……….
Tôi nhìn Em lại gặp xuân sang Cầm tay Em hẹn phương trời mới ………..
***
Ở trên, tôi gắng lướt qua giới thiệu những nét thơ trong tập Lời thông điệp của Hoàng Lộc. Rất có thể cách kể lướt ấy chưa nói được gì về chính tập thơ ấy, về thơ Hoàng Lộc. Người giới thiệu tạm mong, bằng cách đó, đưa người đọc xúc tiếp với khá nhiều đoạn thơ trong tập của tác giả.
Có lẽ với Lời thông điệp, ta chưa thể nói về một thành công đáng kể của Hoàng Lộc. Nhưng ta hoàn toàn có thể đặt Hoàng Lộc của Lời thông điệp vào một mạch thơ mới đương thời, mạch thơ mới hậu kỳ, với nhiều tác giả trẻ ở Hà Nội khi ấy; đó là những nhà thơ trẻ xuất hiện trong Dạ đài số 1 (Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Đinh Hùng, Nguyễn Văn Tậu), là Đông Hoài với Giác linh hương, là Hoàng Lộc với Từ tịch dương đến bình minh và Lời thông điệp. Cũng có thể kể thêm Văn Cao, Huyền Kiêu, Quang Dũng, v.v… Hầu hết các tác giả này công bố lần đầu các tác phẩm thơ của mình vào trước hoặc sau tháng 8/1945, tuy vậy, sáng tác của họ vẫn nằm trong phạm vi phong trào thơ mới, vốn khởi lên từ năm 1932 và đến đầu những năm 1940 thì đã trở thành diện mạo chủ đạo của thơ tiếng Việt.
Trong tập Lời thông điệp, trừ một bài Khóc chị dẫn trên viết bằng thể lục bát, tất cả các bài khác đều được viết bằng các thể thơ mới. Một số bài được viết bằng câu thơ 4 từ: Ai khóc ? Ai cười ? Hãy lặng nghe chơi Tiếng người không bóng Rung động hoa rơi (Khúc thông điệp, 4. Dư âm)
Một số bài khác, bằng câu thơ 5 từ:
Vài bóng hình thoảng qua Dăm cuộc đời xáo trộn Trăng lên rồi trăng tà Người vẫn bàn nghiệp lớn (Khúc dạo)
Một số bài bằng câu thơ 8 từ:
Ôi! Vàng Xanh còn nhớ lại buổi nào Vui sum họp đôi mặt kề chung gối Câu tâm sự khi hoàng hôn xuống nội Chuyện tâm tình trong đêm vắng mờ sương Những canh khuya tìm dấu lạc trên đường Hằng thoáng gặp những hồn đi run lạnh
Nhưng nhiều nhất vẫn là dùng câu thơ 7 từ.
Bước chân rung vang đường xá Người đi hoa bụi bay rơi Chao ôi! Ai vẽ khắp trời Đám mây mùa xưa chấm phá
Có lúc Hoàng Lộc thử nghiệm câu thơ 8 từ xen với câu thơ 6 từ, tạo hiệu quả khá rõ: Buổi Xưa thế cảnh xôn xao Sông nhầm hướng vào núi rừng hoang xú Một hôm người đến vun rào Cảnh vật bắt đầu tình tứ
Người ơi, xin rắc phấn hương Mưa châu ngọc cho đẹp lòng hoang phế Người xa, gò đống khắp đường Vùi chết linh hồn dương thế
Thoáng trong các bài của tập Lời thông điệp này, người ta có thể bắt gặp những chút xíu gì đó như là ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử, của Bích Khê, của Đinh Hùng… Nhưng, khác với các tài thơ đàn anh kể trên, xúc cảm trong thơ Hoàng Lộc thường giản dị, sáng sủa, gần như không có những phức cảm quá tế vi. Mặt khác, nếu đặt các bài của Lời thông điệp cạnh những bài đăng trên Dạ đài hay một số bài của Đông Hoài trong Giác linh hương, ta sẽ thấy Hoàng Lộc có vẻ lành hiền hơn. Các nhà thơ cùng thời ấy thường thích cất giọng hung hiểm từ cõi ma, trong lúc ấy Hoàng Lộc cùng lắm chỉ phác ra được ít nét của cõi trời, hoặc thấy mình bị rủ rê về nép vào hiên thần thoại. Các nhà thơ kia trong những độc thoại mê man, miên man đôi khi bất giác tiên cảm những biến động lớn, những tai ách lớn; Hoàng Lộc trong Lời thông điệp chừng như ngập trong cảm giác về một đổi thay lớn, về một đời mới đang đến.
Trở lên là đôi nét ghi nhận của tôi về tập thơ Lời thông điệp của Hoàng Lộc, một tác phẩm ra đời cách nay trên 60 năm, nhưng vẫn còn hầu như chưa được biết đến, ngay trong giới văn học. Mong rằng tập thơ này của nhà thơ mới Hoàng Lộc trước khi trở thành nhà báo vệ quốc quân Hoàng Lộc sẽ được giới thiệu lại với đông đảo công chúng.
1/7/2008
|