LỜI GIỚI THIỆU SƯU TẬP TẠP CHÍ “TRI TÂN”

(Sưu tập tư liệu trên đĩa CD do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp thực hiện, 2009)

 

 

 

Trong số những cơ quan báo chí có vai trò quan trọng đối với sinh hoạt văn hoá và học thuật Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX, bên cạnh những tờ như Đông Dương tạp chí (1913-19), Nam phong (1917-34), Thanh nghị (1941-45), người ta không thể không kể tới tạp chí Tri tân (1941-46).

 

Tri tân xuất bản số đầu tiên vào ngày 3/6/1941 và ngay từ đầu đã tự xác định là tạp chí văn hoá ra hằng tuần (revue culturelle hebdomadaire); với 24 trang khổ 20x25 cm mỗi số, sau 5 năm liên tục, Tri tân đã ra được 214 số với trên 5.000 trang (gồm 212 số “Tri tân” /loại cũ/ từ số 1 đến số 212, ngày 22/11/1945, và 2 số “Tri tân loại mới”, đánh số lại từ số 1, ngày 6/6/1946, đến số 2, ngày 16/6/1946, trên thực tế là số cuối cùng).

 

Toà soạn lúc đầu đặt tại số nhà 349 Phố Huế, Hà Nội, từ 8/8/1941 chuyển tới số nhà 195 phố Hàng Bông, từ Tri tân số 100, ngày 24/6/1943 chuyển tới số nhà 95-97 phố Chanceaulme (nay là Tô Hiến Thành).

 

Chủ nhiệm (directeur) Tri tân là Nguyễn Tường Phượng; quản lý (administrateur gérant) là Dương Tụ Quán; từ đầu tháng 7/1943, Nguyễn Tường Phượng đảm nhiệm cả hai vai trò nói trên (directeur gérant).

 

Cái tên Tri tân đặt cho tạp chí này là rút từ mệnh đề của thánh hiền Nho giáo “ôn cố tri tân” ( 溫 故 知 新 : ôn cũ biết mới). [1]  

 

Lời phi lộ đăng ở đầu số 1 nói rõ tôn chỉ của tạp chí này:

 

“Ôn cũ! Biết mới!” Nhằm cái đích ấy, TRI TÂN đi riêng con đường văn hoá. Với cặp kính khảo cứu, TRI TÂN lần dở từng trang lịch sử; bằng con mắt nhận chân và lạc quan, TRI TÂN ngó rộng chân trời tri thức. Ghé vai gánh gạch xe vôi, TRI TÂN đứng vào hàng ngũ công binh, xây dựng lâu đài văn hoá Nam Việt.”

 

Tuy cái tên “tri tân” hướng về sự “biết mới” nhưng hoạt động khảo cứu trên tờ tuần san này lại nghiêng nhiều hơn về sự “ôn cố” tức là ôn lại cái cũ. Xu hướng tìm về di sản dân tộc bộc lộ từ đầu và được duy trì suốt thời gian hoạt động của tạp chí này.

 

Ở thời hoạt động của Tri tân, báo chí chữ Việt nói chung chưa được chuyên môn hoá sâu ở mức như sau này. Bản thân định hướng khảo sát văn hoá ở Tri tân đã bao hàm một sự tự giới hạn về thể tài báo chí theo hướng chuyên môn hoá ở mức hẹp hơn, xác định hơn so với mặt bằng chung của báo chí đương thời. Tuy thế, Tri tân vẫn chưa ra khỏi khuôn khổ chung của loại tuần báo tổng hợp đương thời, mặc dù phương diện văn hoá ở đây luôn luôn được nhấn mạnh.

 

Trong thể tài tuần san, Tri tân hầu như dành toàn bộ tờ tạp chí cho các nội dung văn hoá với hai loại chính: 1/ đăng tải bài vở nghiên cứu, biên khảo, giới thiệu về các vấn đề văn hoá, và 2/ đăng tải các sáng tác văn thơ.

 

Phần đăng tải về khảo cứu văn hoá là phần hàm chứa nhiều giá trị hơn cả. Tri tân có bài vở về hầu hết các lĩnh vực sử học, dân tộc học, triết học, ngôn ngữ học, nghiên cứu và phê bình văn học, v.v… Bên cạnh các nội dung thuộc các khoa học xã hội và nhân văn nói trên, tạp chí còn đăng một số bài về khoa học tự nhiên, công nghệ.

 

Chính ở mảng khảo cứu văn hoá, Tri tân đã trở thành nơi quy tụ nhiều học giả tài năng và tâm huyết với di sản văn hoá Việt Nam.

 

Tiêu biểu về mặt này là Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố (1889-1947), khi đó làm việc tại Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp (đặt tại Hà Nội) đồng thời là nhà hoạt động xã hội trong các cương vị Hội trưởng hội Trí tri, Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ, đã có mặt thường xuyên trên hầu hết các số Tri tân với rất nhiều loại bài viết, nghiên cứu về lịch sử trung đại Việt Nam (mà tiêu biểu là những chuyên khảo Đại Nam dật sử, Những ông nghè triều Lê, được Tri tân đăng dài kỳ, và nhiều bài khảo cứu khác), về văn học trung đại Việt Nam (đặc biệt là chuyên khảo Tài liệu để đính chính những bài văn cổ), và về nhiều vấn đề văn hoá khác.

 

Bên cạnh Nguyễn Văn Tố là một loạt nhà nghiên cứu thuộc thế hệ thứ hai (tính từ đầu thế kỷ XX), xuất thân tân học (từ nền học Pháp-Việt), quan tâm đến lịch sử văn hoá quá khứ của nước nhà. Họ gặp nhau trên các trang Tri tân, tạo thành hạt nhân và cơ sở cho xu hướng tìm về truyền thống với tinh thần phục hưng văn hoá dân tộc trong sự giao tiếp với văn hoá và học thuật thế giới, − một xu hướng đang mạnh dần lên trong đời sống văn hoá ở Việt Nam những năm 1940. Đó là những cây bút như Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-77), Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng (1899-1974), Chu Thiên Hoàng Minh Giám (1913-91), Trúc Khê Ngô Văn Triện (1901-47), Nhật Nham Trịnh Như Tấu (1915-47?), Hoàng Thiếu Sơn (1920-2005), Lê Thọ Xuân (1904-78), Đào Duy Anh (1904-88), Trần Huy Bá (1901-87), Đào Trọng Đủ (1897-1995), v.v… Với các loại bài vở nghiên cứu, biên khảo của các cây bút này, Tri tân đã phác họa lại những trang sử giành độc lập và xây dựng quốc gia tự chủ của người Việt từ thời cổ và trung đại đến cận đại, kiểm định những đóng góp của các nhân vật lịch sử. Tri tân có đóng góp đáng kể trong việc kiểm kê các nguồn thư tịch Hán Nôm liên quan đến sử học, văn học. Các vấn đề về soạn thảo văn học sử Việt Nam được đưa ra bàn luận nghiêm túc trên tạp chí này. Các khía cạnh tư liệu liên quan đến các tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại đã được đề cập một cách cẩn trọng, khách quan. Tri tân, với việc đăng tải mảng khảo cứu văn hoá, chẳng những đã là nơi trưởng thành của một loạt nhà nghiên cứu, mà còn là nơi bồi dưỡng những học giả lớp sau trong số những độc giả của mình.

 

Bên cạnh mảng khảo cứu văn hoá quá khứ, trên Tri tân cũng có một số trang đáng kể dành cho phê bình văn học, − tức là điểm bình, nhận xét, thảo luận về các sáng tác văn học, các cuốn sách biên khảo mới xuất hiện. Về mặt này, Tri tân đã là nơi trưởng thành của một số tác gia phê bình như Lê Thanh (1913-44), Kiều Thanh Quế (1914-47?), là nơi xuất hiện những bài viết sớm của những tên tuổi mà sau đó sẽ rất nổi tiếng như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, v.v…

 

Trên Tri tân đã có những bài phê bình nhiều tác phẩm mới ra đời, từ thơ ca (như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Hương cố nhân của Nguyễn Bính, Thi văn tập của Phan Mạnh Danh); kịch bản và sân khấu kịch (như Đồng bệnh của Khái Hưng, Vân Muội của Vũ Hoàng Chương, Kinh KhaÔng ký Cóp của Vy Huyền Đắc, Quán biên thuỳ của Thao Thao, Thế Chiến Quốc của Trần Tử Anh, Bóng giai nhân của Nguyễn Bính và Yến Lan, Ghen của Đoàn Phú Tứ), truyện và ký (như Thiếu quê hương, Vang bóng một thời, Tuỳ bút của Nguyễn Tuân, Nắng thu của Nhất Linh, Mực mài nước mắt của Lan Khai, Kinh cầu tự của Huy Cận, Quê người của Tô Hoài, Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, Chồng con của Trần Tiêu, Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp, Nhà nho của Chu Thiên, Sợ sống của Lê Văn Trương, Bảy Hựu của Nguyên Hồng,…) đến nghiên cứu biên khảo (như Việt Nam văn học : I. Văn học đời Lý  của Ngô Tất Tố, Thi nhân Việt Nam 1932-1941 của Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi sĩ Trung Nam, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học sử yếu  của Dương Quảng Hàm, Hàn Mạc Tử  của Trần Thanh Mại, Triết học Nietzsche của Nguyễn Đình Thi, Việt Nam thi ca luận của Lương Đức Thiệp, v.v…).

 

Trên Tri tân cũng có không ít những thảo luận về thơ, ví dụ về luật thơ, về các thể thơ, nhất là những vấn đề được đặt ra từ những cách tân của phong trào thơ mới; trên Tri tân thường có những tranh luận về nhiều nội dung văn học sử Việt Nam, phác thảo diện mạo nhiều mảng văn học, trong đó, nói riêng, mảng văn học của các tác gia nữ người Việt đã là nội dung 2 số chuyên đề của Tri tân; trên tạp chí cũng có những thảo luận về ranh giới giữa vay mượn, phóng tác và “đạo văn” (nhân so sánh bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư với một bài thơ Nhật Bản, so sánh kịch Ghen của Đoàn Phú Tứ với Jalousie của S. Guitry, v.v…), những ý kiến phê phán không khoan nhượng trước những sai phạm về dịch thuật, về những khuynh hướng được xem là có hại cho công chúng. 

 

Phần đăng sáng tác thơ văn thường không chiếm nhiều trang tạp chí Tri tân. Nét đặc sắc của mảng này ở đây có lẽ là nằm trong sự tương ứng với mảng khảo cứu “ôn cũ”: được chọn đăng Tri tân chủ yếu là các sáng tác về đề tài lịch sử. Trọn vẹn các cuốn tiểu thuyết lịch sử của Chu Thiên (Bà quận Mỹ, Thoát cung vua Mạc, Trúc mai xum họp), các tiểu thuyết và kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng (Đêm hội Long Trì, An Tư, Vũ Như Tô), một loạt kịch thơ hoặc bài thơ dài hoặc ngắn về đề tài lịch sử như Trần Can, Lý Chiêu Hoàng, Phạm Thái của Phan Khắc Khoan, Hát Giang trường lệ, Sóng Bạch Đằng, Tạo hoá và Nhân loại của Minh Tuyền, Ngọc Hân của Tân Phương, Lê Lai đổi áo của Lưu Quang Thuận, v.v… đã được Tri tân đăng tải. Trên tạp chí này cũng thường đăng những thiên du ký, nhất là những du khảo điền dã, kể về những cuộc viếng thăm các di tích lịch sử (Tức Mạc, Kiếp Bạc, chùa Bà Đanh, miếu Hát, Hoa Lư, tháp Bình Sơn, chùa Bối Khê ở miền Bắc, di tích Indrapura Đồng Dương, đền thờ Thiên Ya Na ở miền Trung, gò Ốc Eo, mộ Cử Trị ở miền Nam). Có thể nói Tri tân đã kích thích và giành “đất” cho sự phát triển mảng sáng tác về đề tài lịch sử ở văn học Việt Nam những năm 1940, một khuynh hướng không đặc trưng ở sự nhạy bén đáp ứng văn hoá đô thị hiện đại hoá đương thời, nhưng đặc trưng ở tinh thần “tìm nguồn”, “về nguồn” trong đề tài văn học.

 

Đặt trong đời sống văn hoá đương thời, Tri tân đã tồn tại được trên thị trường báo chí từ 1941 đến 1946 tức là đã có được một lớp độc giả nhất định,[2] đã quy tụ được một loạt tác giả ở khắp ba miền đất nước.

 

Tuy vậy, ngay đương thời, trước một lớp thanh niên tân học thường hướng về sinh hoạt đô thị hiện đại, hướng về văn hoá văn chương Pháp, tạp chí Tri tân không khỏi bị một số người công kích là thủ cựu, gàn dở. Nhiều nhà văn nhà thơ trẻ đương thời giữ khoảng cách “kính nhi viễn chi” với tạp chí này, thậm chí không ít người thường chế diễu Tri tân là tờ báo “của các vị tờ A tờ B”, [3] − đây là theo hồi ức của Tô Hoài, khi ấy là một nhà văn trẻ. Những người cộng sản hoạt động trong bí mật, vào năm 1943 đã quyết định mở rộng phạm vi tranh đấu của mình sang lĩnh vực văn hoá bằng “Đề cương về văn hoá Việt Nam”. Một trong những thủ lĩnh của đảng, ông Trường Chinh, khi giải thích ba khẩu hiệu “dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá” như phương châm vận động văn hoá mới do đảng đề xuất, tuy xác nhận nhóm Tri tân “thiên trọng về khẩu hiệu dân tộc hoá”, tức là có chỗ gần gũi với ba nguyên tắc mà Đảng CS Đông Dương vừa đề ra, nhưng lại phê phán Tri tân là “phong kiến”, “nệ cổ”.[4]  Những đại diện của nhóm Văn hoá Cứu quốc (thuộc Mặt trận Việt Minh) là Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi, khi vận dụng đề cương nói trên của Đảng CS để phân tích thực trạng văn hoá Việt Nam đương thời, đã xem nhóm Tri tân là tiêu biểu cho xu hướng “tái sinh văn hoá phong kiến” với tính chất “bảo thủ, thụt lùi” trong văn hoá Việt Nam những năm 1940, thậm chí mỉa mai rằng Tri tân “có công đầu” trong việc quảng cáo cho khẩu hiệu “Việt Nam hoá” trong văn hoá, “đi tìm những gì là ‘Việt Nam’ là ‘Á Đông’ trong tư tưởng, trong văn chương, trong nghệ thuật, để rồi nhắm mắt phụng thờ, dù những giá trị gọi là Việt Nam ấy cản trở cuộc tiến hoá của dân tộc”, tựu trung là rơi vào âm mưu của phát-xít Nhật với thuyết đại Đông Á của chúng.” [5]  “Những tác phẩm và những bài nghiên cứu các chiến công oanh liệt của những anh hùng cứu quốc thời xưa không phải để kích thích và nung nấu tinh thần quật khởi mà, trái lại, để hòng chia rẽ hai dân tộc Hoa-Việt khỏi thành một khối duy nhất chống phát-xít. Đại biểu cho phong trào này là nhóm Tri tân”. [6]

 

Mặc dầu về khách quan, tạp chí Tri tân đã góp phần không nhỏ vào việc gây dựng lại tinh thần phục hưng dân tộc, chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng cho thế hệ thanh niên sẽ tham gia cách mạng và kháng chiến cứu nước, [7] nhưng sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, chính tạp chí Tri tân lại tỏ ra không thích hợp trong đời sống văn hoá những năm đầu dưới chính thể mới. Cuối tháng 11/1945, tạp chí ngừng lại sau số 212. Nửa năm sau, vào giữa tháng 6/1946, Tri tân loại mới ra mắt số 1 bằng chuyên về Nam Bộ đất Việt Nam do Long Điền biên tập; mười ngày sau ra tiếp số 2, rồi sau đó ngừng hẳn. Hầu hết những người chủ trương Tri tân hoặc từng cộng tác với tuần san này đều hăng hái tham gia các hoạt động kháng chiến kiến quốc.

 

Trong khi đó, những gì mà Tri tân với các thành viên và cộng tác viên của nó đã làm, thì hoặc là bị lãng quên, hoặc chỉ được nhắc tới trong chiều hướng phê phán.

 

Cố nhiên phải nhận rằng, trong khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam, đề tài về lịch sử hoạt động của những tờ báo, tạp chí từng có vai trò trong từng thời gian lịch sử của xã hội và văn hoá Việt Nam, cho đến tận gần đây, vẫn chưa trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của các công trình nghiên cứu sử học. Các tác giả, tác phẩm văn học thường chỉ được giới nghiên cứu văn học tiếp cận ở dạng tách rời môi trường báo chí và sách in vốn là nơi chúng xuất hiện và đến với công chúng. Trong tình trạng các thiết chế đặc trưng cho hoạt động văn học hiện đại (ít nhất đối với Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu XX) là báo chí và xuất bản còn chưa lọt vào trường nhìn của giới nghiên cứu, thì không chỉ Tri tân mà một loạt tờ báo, tạp chí, nhà xuất bản từng góp sức đáng kể vào đời sống văn hoá, văn học những thời gian khác nhau, đôi khi chỉ còn xuất hiện như những ký tự mờ nghĩa, đến nỗi cái tên cũng bị nhớ sai viết sai, trong phần ghi chú của một số bài vở nghiên cứu, thông tin.

 

Bước vào những năm 1990, do nhiều thúc đẩy khác nhau: chuyển biến của đời sống kinh tế, sự xuất hiện và phát triển của kinh tế du lịch, sự phát triển đột biến của báo chí và các phương tiện truyền thông, những thay đổi ít nhiều về quan điểm đánh giá đối với một số triều đại (ví dụ nhà Mạc, nhà Hồ, nhà Nguyễn) và một số giá trị của quá khứ dân tộc (ví dụ việc thờ phụng gắn với tín ngưỡng dân gian hoặc tôn giáo…) từ phía lãnh đạo Đảng và cơ quan quản lý của Nhà nước, sự phát triển của các cơ sở nghiên cứu, bảo tồn văn hoá và các ngành học xã hội nhân văn ở bậc đại học, v.v… − các thực thể lịch sử văn hoá của quá khứ dần dần thoát khỏi sự kỳ thị, có thể được tiếp cận tìm hiểu khai thác dễ dàng hơn. Tuy vậy, cũng từ đây, người ta mới nhận ra rõ ràng hơn về tình trạng hư nát, mất mát trầm trọng các nguồn tư liệu tại các trung tâm lưu trữ lớn hoặc nhỏ. Công việc sưu tập, bảo tồn được đặt ra với những đối tượng tư liệu cụ thể.

 

Với riêng tạp chí Tri tân, đã thấy xuất hiện một cuốn biên khảo kê biên phân tích mục lục tạp chí này và vài ba sưu tập khai thác vốn bài vở đã đăng trên Tri tân, đó là :

−  Mục lục phân tích tạp chí TRI TÂN 1941-45, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên biên soạn, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1998.

− Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử. Sử ta so với sử Tàu  /Hà Văn Tấn giới thiệu/ Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1997; 523 trang 20x14cm.

Tạp chí “Tri tân” 1941-45: Phê bình văn học. Sưu tập tư liệu /Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1999; 619 trang 20x14cm.

Tạp chí “Tri tân” 1941-45: Truyện và ký. Sưu tập tư liệu/ Lại Nguyên Ân và Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 2000; 884 trang 20x14cm.

Tạp chí “Tri tân” 1941-46: Các bài viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam /Nguyễn Quang Ân, Phạm Đình Nhân, Phạm Hồng Toàn sưu tầm và tuyển chọn/ Hà Nội: Trung tâm thông tin tư liệu lịch sử & văn hóa VN xb., 2000; 591 trang 27x19cm.

 

Tuy vậy, các sưu tập trên đây cũng chỉ mới khai thác một phần nhỏ so với dung lượng bài vở các loại mà Tri tân đã đăng tải trong suốt hơn 5 năm hoạt động của nó. Ấy là chưa kể đến những sai lệch có thể phát sinh trong quá trình thực hiện các sưu tập.

 

Trong điều kiện kỹ thuật hiện nay, thiết nghĩ sẽ là tốt hơn nếu chúng ta có thể đưa tới cho mỗi ai cần tìm tòi một sưu tập đầy đủ tạp chí Tri tân dưới dạng ảnh chụp từng trang của tất cả các số tạp chí đã in. Đĩa CD Tri tân này do Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp thực hiện, chính là theo hướng đó.

 

Đây sẽ là cơ sở cho các nhà nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau tiếp cận kỹ lưỡng nhất ở mức có thể đối với những gì từng đăng tải trên tạp chí Tri tân.

 

Trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

                                                        Hà Nội, ngày 20/9/2008

                                                       

 

Chú thích

[1]  Sách Luận ngữ có câu: “Ôn cố nhi tri tân, khả vi sư hĩ”; nghĩa là: Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới, có thể làm thầy được vậy. Sách Trung dung có câu: “Ôn cố nhi tri tân, đôn hậu dĩ sùng lễ”; nghĩa là: Ôn lại việc đời xưa mà biết việc đời nay, đắp dày nền nhân mà sùng kính lễ.

[2]  Về số lượng in (tirage) từng số Tri tân, tôi (L.N. Â.) mới chỉ tìm được tài liệu của hai năm cuối: suốt năm 1945: mỗi số in 3.000 bản (exemplaires); 2 số năm 1946: mỗi số in 1.500 bản. Thông thường, các bản in nộp lưu chiểu (dépot légal) có đóng dấu nhà in với lời khai số lượng in bằng chữ viết tay của viên quản lý tờ báo (gérant), nhưng trong bộ sưu tập Tri tân hiện còn lưu tại Thư viện Quốc gia ở Hà Nội, thực tế chỉ có các số Tri tân từ đầu năm 1945 là bản nộp lưu chiểu, còn lại các phần khác trong bộ sưu tập ở đây đều thuộc loại sách báo bổ sung sau này, thường là mua lại từ nguồn sách báo cũ ngoài thị trường, không phải bản nộp lưu chiểu nên không có dấu hiệu ký nhận về số lượng in mỗi số báo).

[3]  Tô Hoài: Những gương mặt (tập chân dung văn học), in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1995, tr. 290.

[4]  Tr. Ch.: Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này // Tiên phong, H., số 2, ngày 1/12/1945.

[5] Nguyễn Đình Thi: Dưới ánh sáng cứu quốc, xét qua văn hoá Việt Nam trong sáu năm chiến tranh 1939-1945 // Tiên phong, H., số 1, ngày 10/11/1945, tr. 8, 9.

[6] Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi: Một nền văn hoá mới, Hà Nội: Hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam (trong Mặt trận Việt Minh) xb., 1945, tr. 12.

[7] Xem: Đinh Xuân Lâm: Lời giới thiệu, trong sách Mục lục phân tích tạp chí TRI TÂN 1941-45, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên biên soạn, Hà Nội: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xb., 1998, tr. 4.