CỨ CHO HỌ UỐNG!

 

Câu chuyện các ngài sắp đọc đây là chuyện một tấm lòng. Tấm lòng tốt bị vùi dập phũ phàng; tấm lòng tốt bị người ta chà xát dày xéo; tấm lòng tốt được báo đền bằng sự bạc ác, bất nhân.

Chuyện vật trả ân, nhân trả oán.

Ngày xưa có một vị sư ngồi dựa một cụm bồ đề, xảy có một bác thợ săn đuổi thú chạy qua. Bác ngã xuống một cái hang và một con quạ một con rắn hoảng sợ cũng lăn theo bác. Cả ba ngó lên trời mà khóc và kêu. Khó cầm được lòng thương, vị sư bèn kiếm một sợi dây thòng xuống đáy hang để cho cả ba cùng bám lấy trèo lên mặt đất. Cả ba đều quỳ lạy.

Bác thợ săn nói rằng: Lúc nào ngài đi qua xin ghé vào tôi, tôi được thết đãi theo phận thấp hèn thì vạn hạnh. Con quạ nói: Tôi tên là Bô. Gặp việc không may, ngài cứ kêu một tiếng là tôi đến liền. Và con rắn nói: Tôi cũng thế, ngài cứ kêu “Trăng”. Nói xong cả ba đều lạy tạ, mỗi giống đi mỗi ngả.

Và rừng cây đã đổi lá sáu lần.

Sắc đẹp, tiếng tốt, mùi thơm, mỹ vị, áo quần chải chuốt và dục vọng, nhà sư của ta còn cho là sáu lưỡi gươm chém nát thân, cần phải quên đi, thì còn nhớ đâu đến một buổi chiều nào ở bên gốc bồ đề cứu sống ba mạng nọ. Nhưng một sự tình cờ xảy đến: bữa hoàng hôn kia, đi tầm đạo quá chân, ngài bị lạc trong rừng tối và phải vào nhà bác thợ săn xin ngủ trọ. Sợ phiền hà và cũng lo phải thết cơm đãi nước, bác thợ săn đóng cửa cài then. Cả đêm nhà tu hành phải ngủ ở ngoài trời và sáng sớm tinh sương lại đứng dậy đi nốt con đường vô tận của mình thì bất thình lình gặp quạ. Thấy nói bác thợ săn ăn ở tồi tàn như thế, quạ không ngớt miệng chê bai và nói: Phần tôi, tôi không có nhà để ngài ở, không có cơm để ngài dùng, nhưng xin rán đợi, lát nữa tôi quay lại. Nói đoạn quạ lỏn vào cung vua, lấy một hạt kim cương đeo nơi cổ hoàng hậu, lúc đó đương thiêm thiếp giấc nồng. Quạ đem về biếu nhà sư và nhà sư lại đem tặng cho bác thợ săn làm kỷ niệm. Không may, hoàng hậu lúc tỉnh dậy biết rằng mất kim cương lại tâu vua; vua bèn truyền rao trong dân chúng ai bắt được thì thưởng cho một ngàn cân vàng, một ngàn con ngựa, một ngàn con bò; ai bắt được mà không đem nộp thì bị tru di cả họ. Không để lỡ dịp may ít có, bác thợ săn bèn trói vị sư lại nạp vua và tức khắc kẻ tu hành bị đem xử trượng rất nặng nề. Ngài chắp tay vào ngực tụng kinh và tình cờ đã nói đến chữ “Trăng” tức là tên con rắn. Sau khi hỏi hết đầu đuôi câu chuyện, rắn quyết chí báo thù. Nó nói: Nhà vua đây chỉ có một thái tử đông cung, để tôi vào tôi cắn cho hắn chết, rồi ngài lấy thuốc của tôi mà trị cho sống lại thì thể nào cũng được tha. Đêm đó thái tử bị rắn cắn chết, nhờ viên thuốc của rắn cho, vị sư chữa cho thái tử hồi sinh thực. Vua bèn vái nhà sư và xin chia nửa giang sơn, nhưng nhà tu hành nhất định khước từ. Tức thì vua hiểu hết và phán rằng: Bạch đại đức, nếu ngài không nhận phần nửa giang sơn của trẫm thì đâu có thể nào ngài lại ăn cắp hạt ngọc kim cương? Lúc đó vị sư mới đem hết cả câu chuyện ra kể lại, vua thương chảy nước mắt, và lập tức truyền gọi bác thợ săn vào hầu: Ngươi đã làm một việc ích quốc, hãy về đem hết bà con lớn nhỏ trong chín đời lại đây để trẫm thưởng cho. Bác thợ săn đem hết cả họ hàng nội ngoại lại trước đền; vua phán: Sự hung ác và lòng bạc bẽo là hai cái tội lớn hơn hết. Rồi truyền lính giết chết, họ hàng nhà bác thợ săn không còn lại một người nào sống sót.

*

“Sự hung ác và lòng bạc bẽo là hai cái tội to lớn hơn hết”. Câu sách đó của nhà Phật, dân nước ta vẫn nhớ; bất cứ đối với ai, chúng ta như vị sư kia, cũng đối đãi bằng cả một tấm lòng chân thật; và mặc dầu ở vào trường hợp nào chúng ta cũng đã cư xử không có thể nào tốt hơn.

Vậy mà câu chuyện vật trả ơn, nhân trả oán, một lần nữa lại xảy ra với chúng ta, câu chuyện não lòng, nhưng lần này thì “nhân” không là một người nữa, mà là mười người, trăm người, cả một bọn hèn đốn đã nỡ cất miệng lên chửi trời, đã lấy những tư cách thất phu ra chế nhạo lòng đại lượng và rũ gấu váy để trả ơn những kẻ đã thương họ, không đâm chết họ trong khi họ ngã. Muốn cho rành mạch, ta nên kể lại từ lúc bắt đầu thì hơn.

Trung tuần tháng ba dương lịch năm 1945, Pháp kiều ở miền Bắc Việt Nam sực tỉnh một giấc mơ dữ dội. Đùng, vỡ sâm-banh! Đùng, tan bí-tết! Đùng, đi đời cả pho-mát và bơ! Cái ngai thực dân cốt sắt mạ vàng tải từ kinh đô Pháp-lan-tây sang giải đất này, tưởng là vững chắc không bao giờ đổ được, vậy mà chỉ có một đêm, quân Nhật Bản bắn tan, bán làm sắt vụn cũng không có hàng lông vịt đồng nát nào muốn rước. Thế là hết thời của viên cai trị mũi lõ ký một chữ làm cho hàng ngàn người chết trong mười sáu tiếng đồng hồ; hết thời của viên quan võ mắt xanh ngồi lên đùi gái ở trên ô-tô để chỉ huy quân lính; hết thời của tên sát nhân người miền Nam nước Pháp đặt đèn dầu lạc lên bụng đĩ để hút thuốc phiện với một bọn đầm trắng lôm lốp như những con lợn cạo. Hết, hết thời của bọn mật thám Pháp bắn chết hàng chục nhà cách mệnh mà không động một cái gân mặt nào; hết thời của những mụ đầm nếu không đi ngoại tình thì lại đú đởn ngoài phố, chửi cả giống da vàng là bẩn; hết thời của những tây con lấc lấc chửi cả nước người ta, ậm à ậm ệ đi hút thuốc phiện quịt tiền rồi nằm lơ mơ chửi cả tổ tiên của chúng là người người Gô-loa nữa.

Không, cái thời của họ hết thật rồi. Văn minh quá sức đến như thế, một trăm năm nữa cũng chưa thể cất đầu lên được, vậy thì cứ cho tự do ở ngoài này làm cái trò gì? Một số người Pháp, vì thế, đã được trịnh trọng đem bê vào cất trong những buồng giam. Trong khi đó, một số khác đông hơn, xét ra giam cầm cũng chỉ được cái nghề ăn hại cơm hại gạo thôi, nên vẫn còn được buông thả ở bên ngoài, đi lại ăn uống và… huếch cái mũi lõ lên chờ đợi bọn đờ-gôn, đờ-gôn-lit, đờ-gôn-liên, đờ-gôn-la đem một cái tàu lông vịt đổ bộ độ một trăm quân lính, mang súng lông ngỗng, đeo kiếm gỗ Hàng Trống, đến giải cứu và lấy lại chủ quyền cho họ!

*

Người ta kể chuyện rằng lúc quân Nhật đổ bộ ở Phi-luật-tân, ở Tân-gia-ba, ở Nam Dương quần đảo, thổ dân không chậm trễ một giờ, đã đi tìm quân thực dân Anh Mỹ và Hà Lan để giết. Có kẻ bị trôi sông, có người bị đâm chém, lại có anh bị bêu đầu.

Sau đêm 9 tháng 3 dương lịch ở nước ta, ta cũng có thể nhân lúc quân hồi vô phèng xử sự như thế và hơn thế nữa. Bởi vì cái ách thực dân mà họ đeo vào cổ dân ta có lẽ còn nặng nề, ác liệt gấp mấy mươi Anh Mỹ và Hoà Lan nữa. Nhưng chúng ta không làm thế. Không phải chúng ta không biết nóng nảy đâu, không biết thù giận đâu; mà cũng không phải chúng ta hèn nhát đâu; nhưng cái khí hậu của xứ sở này, cái luân lý cố hữu của đất nước này, cái lòng vị tha đã thành phương ngôn của dân tộc này đã luyện cho dân ta một tính thâm trầm, biết suy trước nghĩ sau, một lòng tha thứ và một bụng thương người mông mênh.

Con cháu của Nguyễn Huệ, của Trưng Trắc Trưng Nhị, của Trần Hưng Đạo, của Hoàng Diệu của Phan Đình Phùng không bao giờ lại thèm đánh những người đã ngã.

Ảnh hưởng của những kinh truyện cũ luyện chúng ta thành những tên lính có hai bàn tay sắt tự đứng ra giữ gìn nổi đất nước mình, nhưng không chỉ biết lăn vào mà chết; hơn thế lại còn tạo chúng ta nên những bực anh hùng biết lấy cái nghĩa và cái đức ra mà sống với nhân loại nữa. Ta nâng kẻ thù ở bãi chiến trường dậy và dù nó nhắm lúc vô ý mà bắn trộm ta, ta cũng vẫn cho uống nước như thường; ta là vua nước Trần sang đánh Thái, không tuyệt diệt nhân quốc, trái lại, lại kính trọng nền dấu tổ tiên người Thái, lập con cháu nước Thái lên làm vua và tự bỏ ngân quỹ ra để sửa sang tôn miếu; ta không thể làm Lã Mông nhưng chỉ có thể là Quan Vũ đánh Hoàng Trung ngã ngựa nhất định không giết, cho về thay ngựa khác rồi lại ra đánh lại. “Hưng diệt, kế tuyệt”. Cái chính sách của các bậc thánh vương Hạ, Thương, Chu lấy việc làm hưng các nước đã bị diệt và làm sống lại những dấu vết các nước đã bị tuyệt, từ xưa vẫn là phương châm sống mạnh của tổ tiên người Việt Nam. Được thừa hưởng một gia sản tinh thần như thế, người Việt Nam năm 1945 không bao giờ nghĩ chuyện trả thù người Pháp. Không, không, trái lại! Lấy một tấm lòng bác ái thành thực mà ăn ở với bất cứ ai ai, chúng ta thương những kẻ tàn ác đã giết thần xác và tinh thần dân ta, chúng ta ghi nhớ cái thù Pháp-lan-tây đô hộ nhưng chúng ta vẫn để cho họ, đến bây giờ vẫn cứ được phép ăn gạo của ta, hút thở một không khí với ta và đi trên một con đường với ta.

Một mụ già, một ả đầm đẻ rơi, một đứa con tây bị xe cán, chúng ta chạy lại đỡ dậy và an ủi, như chưa bao giờ giữa Pháp và Nam có xảy ra chuyện gì. Hơn thế nữa. Thấy một tên Pháp cụt chân vì lửa đạn, bê cái mặt xanh rớt đi cùng đường để ăn xin, có người mình lại còn gọi lại cho tiền; một con điếm mắt xanh, trước chửi người Nam là “mọi rợ”, bây giờ đứng đầu đường xó chợ bán cái coóc-xê cuối cùng để lấy tiền ăn, người mình cũng bỏ tiền ra để giúp hơn là để vua; và thành phố hiện giờ còn bao nhiêu người Pháp ngửa tay đi ăn mày mà người mình vẫn cho cơm ăn áo mặc, như đã cho những người không may khác cùng một giống da vàng máu đỏ?

Đứng trước một tấm lòng vĩ đại như vậy, một người Pháp biết nghĩ có lẽ cảm động lắm và tưởng tượng như muôn kiếp ngàn đời cũng không thể nào ăn ở cho phu.

Thế mà… đấy, một số Pháp kiều ở đây ăn cháo ở bát và đái ngay vào bát để đền đáp tấm lòng tốt của chúng ta như thế đấy!

Họ bao nhiêu người? Tôi cũng chưa biết rõ, nhưng quả thực từ hôm đảo chính đến nay, không một ngày nào không nghe thấy lòng công phẫn kêu lên trên các mái nhà trong kinh thành.

Đây, mụ đầm Boutonnel, dữ tợn hơn con mụ chủ quán Thénardier, kẹp một người bồi nam vào bẹn chỉ vì người bồi đó đã đi dự lễ truy niệm chiến sĩ Nhật Việt ở chùa Quán Sứ. Kia, tên Léon Grix, chứa súng lậu trong nhà bị bại lộ, nghi cho mẹ thằng bé giúp việc tố cáo, đã rủ hai tên “Khuyển Ưng Khuyển Phệ tây” đến tra tấn và cắt nhau canh gác cho đứa bé không được ra đến đường. Đó, hai anh em tên Laurell không biết thế nào để tiết cái máu “Gô-loa” ra được, uống rượu ty và khoành một cái tay ra đi sinh sự với một người phu xe già rồi đánh cho kỳ ngã, ngã rồi còn đánh. Nọ, tên Pierre Le Maitre, anh hùng hơn Đông-ký-xuất đánh nhau với cối xay, nhảy lên một con ngựa… sắt, vác một cái súng… cao su đi bắn lia lịa vào những cửa hàng ở phố Cửa Nam rồi bị đánh lại kêu người Nam là mọi rợ. Lại kia, tên Piquemal bênh bạn mũi lõ tóc quăn và mụ Le Maitre, xót đứa con mất dạy, chửi rầm rĩ và xé áo của cảnh binh, rứt lon vứt mũ xuống đất và lấy chân chà nát. Lại kia nữa, tên Léon Roturier béo tròn như gã Săng-xô, nằm trên xe mà hát nhạo giống da vàng, bị cảnh cáo, lại phát khùng, gọi tất cả mọi người là chó.

Kể hết cả kỳ công của những bực quái kiệt đó ra đây, tôi sợ sẽ làm thương tổn đến lòng tử tế của các ngài bởi vì lòng tử tế của người ta có hạn; nhưng dù không nói còn ai lại không biết câu chuyện gã Vignais ở hiệu bánh Tràng Tiền, hôm 11/6 vừa đây, hôm có cuộc hội họp thứ nhất của thanh niên miền Bắc nghe ông Bộ trưởng bộ Thanh niên diễn thuyết? Một tên bợm, xuất thân làm bếp và hiện đương xử cái nghề ăn cắp là cô đường ta lại, vẩy nước hoa đóng hộp mà gọi là mélasse au miel de Chapa; một con đĩ mắt vọ trước làm chủ tiệm Elderados chuyên chứa quân giết người và mật thám ra vào bàn soạn cùng là nghe máy truyền thanh lậu thuế, một thằng mũi lệch vẫn có tên tắt là Rudex cũng mật thám nốt, lại kiêm nghề quấy bột pha phẩm vàng vào trộn trứng vịt rồi gọi là “crème aux oeuf de faisans hawaiens”. Ba cái cặn bã của một xã hội đó, ba cái mẫu người sống theo kiểu họ nhà tôm đó, các ngài nghĩ xem, nếu tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết, thì liệu có xứng đáng làm ba đứa ăn mày hạng thứ mười một ở nước ta không? Ấy vậy mà đứng trên cái gác thứ hai ngôi nhà bán bánh, chúng đã nhằm chính lúc thanh niên ta cầm cờ vàng đi qua hát bài “Thanh niên” mà nhổ xuống ba bãi nước bọt bẩn thỉu rồi bĩu môi, rụt cổ, vỗ tay chế diễu. À không, cái lòng tha thứ của người ta chỉ có thể có chừng thôi. Làm thế này thì quá lắm; người ta có thể liệt cử chỉ cục cằn của chúng vào cùng một duộc với cử chỉ khốn nạn của ba tên Pháp nhà băng dạo nọ, − ba tên Pháp, không có cách gì để rỏ rằng mình là đống phân của đám rác thực dân, đã xé cái quảng cáo “Việt Nam độc lập” mà di xuống đất.

Không một người nào bảo người nào, tất cả những người Nam có mặt hồi 6 giờ 20 ở phố Tràng Tiền hôm đó đều kêu lên một tiếng “Chớ nên làm thế!” Nhưng cái “máu gô-loa” của họ xưa nay vẫn vậy: đã làm điều trái, mà người ta cảnh cáo cho, không những không chịu thôi, lại cứ làm điều trái cho đến cùng. Con mụ mắt vọ rũ gấu váy và hếch cái điểm bộ lên; thằng bợm Vignais cúi mặt xuống đường nhổ lia lịa như trẻ con tiểu tiện và tên mật thám Rudex vòng hai tay lại làm loa ở mồm và hô “Bande de salauds”.[1] Có lẽ họ cho thế là chính khí, là gan dạ, nhưng người Việt Nam thì nhất định cho thế là mất dạy, là ăn mày, là đểu cáng, là vô giáo dục, là… đồ thực dân, nên ngàn người như một, đã nhất định cho chúng một bài học xứng đáng với tầm sức của chúng là quả đấm và cái đá.

Các ngài có biết hai vị gà chọi anh hùng và con điếm anh thư đó đã làm thế nào không? Cái mặt xám ngoét lại, cái mũi dài hẳn ra, đôi chân gióng một như bam bam bắp chuối không đi được, chúng đã bò nhanh xuống đất, khoá cửa và, trái hẳn với cái lễ phép của phương Tây, chúng đã móc cẳng lên tai chạy trốn, không huýt sáo, không vẫy khăn mặt mà cũng không chào anh và tôi một lời. Cái tài lủi, nhất định là giống cuốc phải tôn chúng lên làm thầy đó! Những người Nam trèo ống máng lên từng gác thứ hai tìm chúng không thấy, còn biết làm thế nào? Họ đành phải đập bể một vài đồ đạc của chúng đi, viết đôi chữ lên tường cho chúng biết và sau rốt một người đã để lại ở giữa nhà chúng một kỷ niệm lạ lùng mà kỷ niệm đó nhất định là ai cũng có, chứ không phải là thứ crème aux oeuf de faisans hawaiens, độc quyền Rudex và Vignais!

*

Trên một căn gác con giữa Hà thành, kẻ cầm bút viết bài đến đoạn này, vừa vặn ba giờ sáng. Lòng bình tĩnh như không bao giờ có thể bình tĩnh hơn, tôi bỏ bút xuống và nghĩ lại lần thứ bảy mươi hai về thái độ của người mình đối với cái hạng Pháp kiều vô lễ nói trên. Vâng, vâng! Ngay lúc những chuyện đáng buồn này mới xảy ra, tôi xin thú là đã không có ý tưởng gì rõ rệt; nhưng đến đêm nay ngồi viết bài này thì thực là nhất định lắm rồi, quả quyết lắm rồi và tin chắc là phải lắm rồi.

Luôn một tuần, tôi đã đi tìm hỏi ý kiến của nhiều người trong tất cả các giai tầng xã hội: từ một cô buôn bán ở chợ đến một cậu học sinh, từ một thanh niên đến một bà quan phụ mẫu, từ một công chức đến một cụ già đầu bạc răng long. Tất cả đều nói một lời: “Phải lắm!”

Phải, cái đất này vẫn là đất dung người, ai đến ở cũng được, mà giống nào cũng được coi là anh em. Người Ấn Độ cứ buôn bán làm ăn; người Tàu năm 1937 bị thua Nhật, chạy qua biên giới sang đây cứ ăn gạo của chúng tôi, cứ ở nhà của chúng tôi, cứ được chúng tôi đặt lên hàng thượng tân; và chúng tôi lúc nào cũng có ở mâm một cái bát và một đôi đũa cho khách lạ, và một cái giường cho những kẻ lỡ chân. Nhưng cái đức thương người cũng phải có chừng có mực: chúng tôi tốt nhưng không hèn. Người ta không thể ở đất của chúng tôi mà lại chửi cả nước chúng tôi, không thể chịu ơn chúng tôi mà lại khinh miệt chúng tôi; chúng tôi có bàn tay mềm dẻo để đỡ người nhưng đến lúc cần phải đánh thì đánh mạnh.

Ngay lúc người Pháp còn nắm chủ quyền ở đây, chúng tôi dù chỉ tay không, cũng đã đánh như thế chứ không phải đợi đến bây giờ mới đánh. Đứng về phương diện phản đối và cách mạng, chúng tôi không đánh một người, mười người hay một trăm người Pháp, nhưng đánh tất cả giặc Pháp đế quốc, và cứ mươi mười lăm năm lại phanh ruột dội máu ra một lần.

Bây giờ, đối với họ, chúng tôi không thèm đánh nữa bởi vì họ đã bị thua Nhật rồi, nhưng chúng tôi phải đánh những tên giặc Pháp vẫn còn nuôi những tư tưởng thống trị, những tên giặc Pháp vẫn còn nghĩ rằng họ có quyền bắt dân này làm nô lệ mãi cho họ, những tên giặc Pháp không biết thân, vẫn cứ tưởng rằng tất cả đều mọi rợ, chỉ có họ là văn minh.

Đánh như thế chính thực không phải là đánh họ, nhưng đánh vỡ cái tư tưởng khốn nạn ở trong sọ họ đi; đánh vì công phẫn, đánh theo lối hội đả như ở Mỹ châu, Hy Lạp.

“Thế nhưng mà dù sao ta cũng nên biết rằng kéo hàng trăm hàng chục người đánh một tên Pháp, người ta cho là hèn”.

Ngài nào nói ra câu danh ngôn đó xin cứ yên tâm, đừng sợ. Thì chúng tôi vẫn nói rằng ta không đánh một cá nhân Pháp kia mà! Đánh như thế là hội đả, đánh vì lòng dân công phẫn chứ có phải là kéo bè kéo đảng để đánh một người khác đâu, có phải là lấy sức mạnh để đánh nhau với sức mạnh đâu; đánh như thế, thế giới gọi là lyncher [2] đó, đánh như kiểu đánh một con chó dại.

Một con chó dại, thè lè lưỡi, chạy cùng đường cắn người ta; một bọn người đi qua có thể cứ giương mắt ra nhìn à?

Đừng có nghi ngờ, đồ phản động! Ta phải kéo cả phố ra mà đánh.

       VŨ BẰNG

Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội, s. 250 (24/6/1945)

 


 

[1] “Bande de salauds” (chữ Pháp): bọn đểu giả!

[2lyncher (chữ Pháp, từ chữ Anh lynch): kiểu hành hình của kẻ phân biệt chủng tộc đối với người da đen.