MỘT NHÂN VẬT THỜI CHIẾN QUỐC: KINH KHA
Ít lâu nay, nhiều văn gia, kịch sĩ nước ta quay lại cổ học Á Đông, thường mượn những nhân vật trong lịch sử để làm tiểu thuyết và kịch bản. Trong số nhân vật đó, người ta thấy kể nhiều đến Kinh Kha. Tại sao? Có lẽ không ai biết. Xét về dũng sĩ, trí sĩ và kiếm khách cùng thời với Kinh Kha thì nhiều: Chuyên Chư, vì cái ơn Công tử Quang, đi sang tận Thái Hồ học nghề nướng cá về để lấy cớ mà vào hành thíchVương Liễu; Yêu Ly, vì tình Hạp Lư một tay cầm giáo đâm suốt vào bụng Khánh Kỵ; Dự Nhượng ba lần tự đầy đoạ thân mình để sau xin đánh vào cái áo của Triệu Tương Tử trả thù cho chủ cũ là Trí Bá; Nhiếp Chính đâm chết Hiệp Luỹ rồi tự băm mặt mình ra để báo thù cho Nghiêm Toại. Kể về trí, Kinh Kha không bằng Chuyên Chư. Chư, tuy cảm cái ơn của Công tử Quang nhưng vẫn chưa dám đi giết Vương Liễu ngay, bởi vì còn mẹ; đến khi mẹ chết cũng không đi giết Vương Liêu ngay, bởi vì chưa học được nghề nấu cá. “Muốn làm việc gì cũng tất phải nghĩ cho kỹ mới vạn toàn được”. Kể về mưu, Kinh Kha không bằng Yêu Ly bởi vì Yêu Ly chỉ dùng mấy lời nói mà giết được dũng sĩ Tiêu Khâu Tố, sau lại vào được phủ Khánh Kỵ mà đâm Khánh Kỵ. “Giết được người ta, cốt ở trí khôn, không ở sức khoẻ. Tôi được đến gần Khánh Kỵ thì lấy mưu giết hắn như cắt tiết con gà mà thôi”. Kể về dũng, nhất định Kinh Kha không thể hơn Nhiếp Chính. Nhiếp Chính một mình sấn thẳng vào dinh Hiệp Luỹ, gián sĩ đều bị gạt bắn cả đi. Chính vào thẳng đến công đường, rút con dao nhọn để đâm Hiệp Luỹ. Hiệp Luỹ sợ chạy. Chạy chưa khỏi chỗ ngồi thì bị lưỡi dao đâm trúng vào bụng mà chết. Trong phủ náo động cả lên, đều kêu có giặc rồi đóng cửa phủ lại để bắt Nhiếp Chính. Nhiếp Chính đánh chết mấy người nữa rồi liệu biết mình không thể ra thoát được, − khác hẳn Kinh Kha, − lại sợ người ta biết mình là ai, mới vội vàng đâm nát mặt ra và khoét bỏ hai con mắt, sau lại đâm cổ mà chết. Xem thế, về trí, về mưu cũng như về dũng, Kinh Kha không phải là một người xuất sắc nhất đời. Vậy mà người đời sau nhắc đến Kinh Kha nhiều. Vì đâu? Vậy nhân có nhiều người, mấy ngày rày, nhắc đến Kinh Kha luôn luôn, ta thử xem Kha là dũng sĩ như thế nào, có xứng đáng với cái tên dũng sĩ không và cái gì đã làm cho Kinh Kha được người ta nói đến hơn Yêu Ly, Chuyên Chư, Dự Nhượng và Nhiếp Chính. Sự thật, Kinh Kha không phải là người nước Yên. Kha là dòng dõi quan đại phu nước Tề tên là Khánh Phong. Khánh Phong chạy sang nước Ngô, ở đất Chu Phương. Sở đánh giết Khánh Phong. Họ hàng lại chạy sang Vệ, đem kiếm thuật bảo vệ Nguyên quân. Nguyên quân không dùng, Kha bỏ sang Yên, đổi họ Kinh. Trước sau, sách không hề chép rằng Kinh Kha có ý muốn trả thù cho tổ phụ. Chỉ hay nói rằng tính Kha ham rượu; yêu mến một người Yên là Cao Tiệm Ly. Rượu say, Tiệm Ly khéo đánh cái trúc, Kinh Kha theo dịp hát theo, hát xong chảy nước mắt khóc rồi lại than thở, cho là thiên hạ không ai biết mình. Thế thôi. Cái lòng yêu nước và chí phục thù nước cũ của Kha chưa chắc đã bằng Ngũ Viên vậy. Nếu không có Điền Quang giới thiệu với thái tử Đan, người ta tự hỏi Kinh Kha sẽ làm những gì hay là cứ uống rượu và khóc vì không ai biết mình. Kinh Kha không biết tạo thời thế và có một quan niệm rất sai lầm về đời. Việc Kinh Kha nghe lời Điền Quang đi về giúp Yên không có gì là lạ. Chưa chắc Kha giúp Yên vì yêu nước Yên đâu, nhưng vì Điền Quang; bởi Điền Quang có nói rằng: Vì Kinh Kha nghèo, tôi vẫn phải cho ăn uống, chắc phải nghe lời tôi mà đến ngay. Nếu Kinh Kha chỉ vì thế mà theo Điền Quang về với thái tử Đan thật, tưởng cũng không phải là một điều vinh dự lắm. Nhớ lại Chuyên Chư, cái vũ dũng còn cao biết bao nhiêu! Công tử Quang cũng chu cấp cho Chuyên Chư, Chuyên Chư từ chối, mãi mới nhận. Nhưng lúc Quang muốn nhờ việc, Chuyên Chư còn nghĩ mãi và hỏi vặn Quang để xem cong việc mình sẽ làm có phải hay không. Nếu không phải, chưa chắc đã làm. Kinh Kha không thế. Kinh Kha nhận lời giúp Yên vì ghét Tần cũng có, nhưng một phần chính muốn giúp Điền Quang vậy. Thế là trước vì chịu ơn Điền Quang, sau vì chịu ơn thái tử Đan mà Kinh Kha nhận lời hành thích vua Tần; sau mới đến việc trả thù cho nước Yên vì ghét bạo Tần. Nguyên hồi đó, thái tử Đan nước Yên làm con tin ở Tần. Thấy quân Tần đại cử đánh Triệu, biết hoạ tất lây đến nước, ngầm sai người đưa thư cho vua Yên bảo nên phòng bị việc chiến thủ. Lại bảo vua Yên nói dối có bệnh, sai người sang đón; sứ giả đến Tần, vua Tần nói: “Vua Yên không chết, thái tử chưa có thể về được. Muốn cho thái tử về, trừ phi bao giờ đầu quạ trắng, ngựa mọc sừng mới được”. Thái tử Đan ngửa mặt lên giời kêu to. Một luồng oán khí thẳng xông lên giời, đầu quạ đều trắng. Vua Tần vẫn không cho về. Thái tử Đan bèn đổi quần áo, huỷ hình dung, giả làm đầy tớ nhà người ta, đánh lừa ra khỏi Hàm Cốc quan, đang đêm trở về nước Yên. Giận vua Tần lắm, bán gia tài, họp tân khách để mưu việc báo thù. Nhờ Điền Quang giúp kế, Quang tiến cử Kinh Kha. Nói cho thực ra, Kinh Kha chỉ là một tân khách như hàng nghìn hàng vạn tân khách của Mạnh Thường Quân hay Bình Nguyên Quân. Thế thôi. Người ta chưa thấy Kinh Kha là dũng sĩ ở một cử chỉ hay giọng nói nào cả. Chỉ mãi đến khi thái tử Đan bày tỏ công việc nhờ Kha, Kha mới nói được câu hay: “Tôi hèn kém, e không làm nổi việc ấy”. Đó không phải một câu nói nhún. Chính là sự thực. Người dũng sĩ đáng lẽ “biết mình hèn kém, không làm nổi việc ấy”, nên thôi là phải. Đằng này không. Thái tử Đan dập đầu cố xin rằng: “Vì trọng tấm lòng có nghĩa của ngài, Đan này xin uỷ sinh mệnh vào ngài đó, xin chớ chối từ”. Kinh Kha lại hai ba lần từ chối rồi mới nhận lời. Như vậy Kha có một cái hơn người là tự tri, nhưng ta không thể không trách Kha là một người mềm yếu quá, đi làm việc lớn, biết là mình không làm được việc lớn mà cứ làm, chỉ vì nể một người anh em. Người dũng sĩ không bao giờ xử việc đời như thế. Muốn làm việc gì cũng tất phải nghĩ cho vạn toàn mới được. Cái chết sau này của Kha không có một ý nghĩa cao bằng cái chết của Nhiếp Chính và Yêu Ly có lẽ vì thế chăng? Ngày nay ta có thể ví cái chết đó với cái chết của của người không biết bơi, thấy bạn sắp chết đuối kêu cứu, cứ nhảy bừa xuống nước. Bảo rằng biết đâu sự may rủi không xui cho người không biết bơi cứu được bạn là nói lếu. Sự tất nhiên phải thấy là hai người sẽ ôm nhau mà chết. Nể bạn như thế là rồ dại, cứu bạn như thế là điên cuồng. Kẻ trí không bao giờ làm như thế. Cái chết đó là cái chết buồn cười mà vô ích. Kẻ cứu bạn đó lại còn đáng bị khiển trách nữa, vì không biết tự tri, lại đi huỷ thân mình đi cho đắc tội với cha mẹ đã sinh ra mình! Cái dũng đã không được, cái trí đã không có, lại mất cả cái hiếu nữa, lại mất cả cái nhân nữa (vì Kinh Kha mà Điền Quang, Ô Kỳ chết, Tần Vũ Dương mất xác nước người), thế thì còn gọi là dũng sĩ sao được nữa? Thực ra Kinh Kha không đến nỗi như người không biết bơi nhảy xuống nước cứu bạn chết đuối nói trên kia. Không, Kha cũng là một kẻ sĩ biết tiến lui phải lúc, không nhanh quá không chậm quá. Kha bảo thái tử Đan rằng: Tôi có một người bạn quen là Cáp Nhiếp chưa đến, muốn đợi bạn tôi giúp sức mới có hy vọng thành việc được. Kha nói thế, tại sao Kha lại không cố đợi? Ấy chỉ bởi vì cái hoạ Tần đến mau quá, vua Tần đã sai đại tướng Vương Tiễn đi lấn đất đã sang đến nước Yên, sắp qua sông Dịch Thuỷ. Thế là Kinh Kha phải liều đi, không đợi Cáp Nhiếp nữa, nhắm mắt mà đi, mà trong bụng thì gần như tuyệt vọng. Đi như thế, ấy chỉ là vì Kinh Kha cảm cái tình tri ngộ của thái tử Đan. Nguyên từ khi được Kha, Đan đãi Kha như Điền Quang vậy. Ngày đêm thờ phụng, kính cẩn tôn lên làm thượng khanh. Xây một cái quán để Kinh Kha ở. Thái tử Đan ngày đêm đến thăm, cung phụng ăn uống rất hậu, lại hiến xe ngựa và gái đẹp tuỳ ý Kinh Kha sở thích. Kha một hôm cùng thái tử đi chơi ở đông cung, thấy ở dưới ao có con rùa lớn nổi lên. Kha toan nhặt viên ngói để ném rùa. Thái tử liền đưa thoi vàng để thay hòn ngói. Lại một hôm, cùng thì cưỡi ngựa, thái tử có con ngựa quý ngày đi nghìn dặm, Kha bỗng nói gan ngựa ăn ngon lắm. Sau, thấy nhà bếp đem món ăn đến, tức là gan con ngựa quý mà thái tử đã sai giết cho Kha ăn. Đan lại làm tiệc đãi Kha ở Hoa Dương đài, đem một mỹ nhân yêu quý của mình ra mời rượu, lại sai mỹ nhân gảy đàn làm vui. Kinh Kha thấy hai tay mỹ nhân trắng muốt như ngọc, khen rằng: “Hai tay đẹp quá!” Tiệc tan, Đan sai nội thị đem cái ngọc bàn đựng đồ vật biếu Kinh Kha. Kha mở xem thì là cái tay của mỹ nhân mà thái tử đã chặt ra để tỏ cho Kha biết là mình không còn tiếc gì! Kha ra đi hành thích vua Tần, không đợi Cáp Nhiếp; đi hành thích vua Tần mà biết trước là có đi không về; đi hành thích vua Tần chỉ mang theo có một con dao nhọn vào cái nước Tần nguy hiểm, chung quy chỉ vì nể thái tử Đan, vì cảm cái nghĩa khí và tấm lòng đãi khách của thái tử vậy. “Thái tử đãi Kha này hậu đến thế kia ư?” Xét ra thái tử Đan thờ phụng kính cẩn Kinh Kha chưa chắc vì đã được thấy cái vũ dũng và trí lược của Kha, nhưng chính là vì thấy Kha có thể làm việc cho mình. Cái lòng trọng khách đó có lẽ so với Mạnh Thường Quân và Bình Nguyên Quân còn kém xa, nhưng tấm lòng “vị tri kỷ” của Kinh Kha, than ôi, quả đã to tát quá, nên thơ quá và cũng ai oán quá! “Ở đời, được một kẻ tri kỷ, chết cũng sướng đời”. Ta không nhận cái chết của Kha là hoàn toàn hay, nhưng chịu rằng tất cả cái uy dũng, cái khảng khái của Kha đều gói cả vào trong câu nói này lúc Kha bước ra đi. “Nay mang một con dan nhọn, đi vào cái nước Tần rất nguy hiểm là chỉ có đi mà không về. Tôi sở dĩ chậm đi là muốn đợi bạn tôi để làm cho chắc chắn. Thái tử đã không đợi được thì tôi xin đi”. Ta trọng Kinh Kha về chỗ đó. Biết là nguy hiểm mà cứ đi, đi mà biết sẽ không về, cái nghĩa ở với bạn như thế thật là quý báu. Chỉ tiếc rằng cái chết đó hơi phí quá, và không hẳn đã phải là cái chết của dũng sĩ. Trên sông Dịch Thuỷ, Tiệm Ly đánh cái trúc, Kinh Kha uống rượu và hát rằng: Gió hiu hắt nước lạnh tê; Phen này dũng sĩ đã đi không về. Kinh Kha ngửa mặt lên trời, thở đánh phì một tiếng. Hơi xông thẳng lên giời, hoá thành một cái cầu vồng trắng, ai nấy đều lấy làm lạ. Kinh Kha cất tiếng hát: Hang hùm quyết chí xông pha, Một luồng hơi thở hóa ra cầu vồng Bao nhiêu tân khách và các người đi theo tiễn trên sông Dịch Thuỷ ôm mặt khóc Kha, vì cảm cái nghiã của Kha dám sang hành thích vua Tần? Hay vì tại họ thấy cái chết của Kha phí quá, “giá mà đợi Cáp Nhiếp thì có khi thành việc”? Tất cả cái hay cái đẹp của Kinh Kha là ở đó và chỉ ở đó mà thôi. Việc hành thích vua Tần thành hay bại, không quan hệ. Vậy ta có thể kết luận: Kinh Kha đi sang Tần vì yêu nước Yên, vì ghét Tần Doanh Chính một phần nho nhỏ, mà phần lớn là vì cảm cái nghĩa cái tình của Điền Quang và thái tử Đan. Có người bảo Kha qua Dịch Thuỷ sang Tần là vì cảm thái tử Đan đã hy sinh tiền của, − người ấy đã gán vào linh hồn của Kinh Kha một cái xấu mà chính Kinh Kha không có. Có người lại cho rằng chính Kinh Kha đã thúc thái tử Đan làm việc mau lên. “Tâu thái tử, việc gấp lắm, chờ đợi tìm người thì không tiện, thôi cũng được”. Kinh Kha sở dĩ còn được là dũng sĩ chỉ là vì biết việc cần phải để chậm, không thể làm mau được. Bắt Kinh Kha giục thái tử Đan như thế tức là làm mất cái phần trí của Kha, tức là đánh mất cái lẽ lên lui của Kha vậy. Còn nữa. Có người lại cho rằng Kha thấy lính Tần ức hiếp con gái Yên thì nổi nóng, ba lần toan rút gươm khỏi vỏ để giết. Nóng nảy như thế, phải đâu là dũng sĩ? Kinh Kha hơn Hạ Phù là người máu hăng, giận thì mặt đỏ, hơn Tống Ý là người mạch hăng, giận thì mặt xanh, hơn Tần Vũ Dương là người cốt hăng, giận thì mặt trắng. Tức giận mà hình ra mặt để cho người ta biết thì làm sao nên việc được? Người ta cứ tưởng phàm người vũ dũng thì làm ầm lên, chém thớt, nói to, rút gươm ra ầm ầm, mà cái không khí ở chung quanh người ấy thì loạn xạ lên. Không. Người vũ dũng không nói to, không hò hét mà cũng không nói lời kiêu ngạo. Tự câu nói của người vũ dũng tiết ra hùng khí chứ không phải cố tìm ra hùng khí. Kinh Kha là dũng sĩ. Cái hùng khí của Kha tiết ra rõ nhất, không phải ở việc sang Tần rút kiếm ra đâm Tần Thuỷ Hoàng mà chính là ở chỗ Kha dám làm, Kha đã làm. Bởi vậy, việc hành thích ở cung Hàm Dương không đáng kể. Cho người ta thấy Kinh Kha, chỉ cần từ chỗ Kha đi theo Điền Quang về với thái tử Đan, cầm vàng ném rùa, nhận tay mỹ nhân rồi đến chỗ tân khách mặc quần áo trắng tiễn Kha trên sông Dịch Thuỷ. Nhà làm tiểu thuyết có thể viết thêm cho vui chuyện. Nhưng nhà làm kịch Kinh Kha gặp một điều khó: nếu không thuật chỗ hành thích thì bỏ phí nhiều sự hoạt động, mà viết ra, chính đã không làm bật được lên cái tinh thần đặc biệt của người tráng sĩ trên sông Dịch. Soạn kịch Kinh Kha đã khó thế, diễn kịch Kinh Kha, xem vậy, lại càng khó biết bao nhiêu. Nếu có ai không lột được tinh thần Kinh Kha, không làm được cho Kinh Kha nổi không phải là điều lạ vậy. Việc đó không phải bất cứ ai cũng làm được đâu; không phải vì cứ thấy chuyện Kinh Kha hay vì có máu, nước mắt, và gió, là đem lên sân khấu mà thành công đâu.
VŨ BẰNG Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội, s. 178 (10/10/1943)
|