VII

Cái chúc thư của người còn sống – Cuộc khẩu chiến của mấy nhà khoa học – Ái tình, mày còn đợi gì?

 

 

Cụ Hồng lúc ấy đã nhắm nghiền hai mắt lại. Trên cái sập gụ khảm mà giữa là cái khay đèn, cụ nằm một bên, cụ bà thì ngồi phía dưới chân. (1) Thằng xe lúc ấy đã rửa sạch hai cái chân ngựa người để gánh vác cái trách nhiệm nặng nề của người bồi tiêm thuốc phiện. (2)

Cụ Bà nói:

−  Ông ạ, tuy vậy tôi cũng cứ cho mời cụ lang...

Cụ Hồng lại nhăn mặt lần thứ mười mà khẽ gắt cũng lần thứ mười rằng:

−  Biết rồi! Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi!

Đã hiểu cái tính ấy, cụ bà cứ thản nhiên nói tiếp:

−  Ấy thế rồi... ta cứ lo toan trước ma chay đi mà thôi. (3)

−  Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!

−  Tôi thì tôi nghĩ nên theo cả lối cổ và lối mới, nghĩa là cứ minh tinh, nhà táng, kèn tàu, kiệu bát cống, và rõ nhiều câu đối. Nếu chúng nó muốn thì chúng nó cứ đi thuê kèn bú-rích [a] Tây đi, càng hay. (4) Nhưng mà không thể vì cái thích của chúng mà bãi bỏ cái thích của tôi được! (5)

−  Biết rồi! Khổ lắm... nói mãi!

Đến đây thì cụ bà không nói gì nữa, ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi, làm cho cụ ông phải hỏi ngay:

−  Thế sao nữa, hở bà?

Thằng xe đã quen những cái ấy lắm nên cũng không thấy gì là buồn cười nữa. Cụ bà lải nhải kể lể những mớ lễ nghi phức tạp nó làm cho một gia đình thành ra muốn pha trò, mỗi khi gia đình ấy sắp được hân hạnh là tang gia. (6)

Cách cái lộ bộ, [b] ở phòng khách bên ngoài, lúc ấy khách khứa đông lắm. Ngoài số những người họ hàng lại có bạn hữu của vợ chồng Văn Minh. Người nào cũng đã lên gác chỗ có giường của cụ cố tổ, vén màn nhìn vào rồi rón rén lui ra, chạy ù xuống nhà dưới, cho thế là xong cái bổn phận đi thăm một người ốm nặng. (7) Họ xúm nhau lại uống nước, hút thuốc, chuyện trò vui vẻ lắm, vì bệnh nhân mà chết thì thực là đáng mừng cho họ. (8)  Do thế, người ta bàn soạn y như trong nhà đã có người chết rồi, chứ không phải chỉ mới có người ốm. (9)  

Ông TYPN đã được mời ngay đến để nghĩ cách chế tạo một vài kiểu quần áo tang tối tân. Ông nhà báo đã được sự chủ khẩn khoản yêu cầu viết bài cáo phó, bài tường thuật, và sửa soạn chụp ảnh đăng báo. (10)  

Văn Minh vợ mơ màng một cách sung sướng rằng chỉ nay mai là sẽ được ăn vận toàn trắng, một điều mà bà vẫn ao ước bấy lâu nay. Văn Minh chồng ngồi hút thuốc lá Ăng-lê, cũng mơ màng đến phần tài sản mà ông ta sẽ được hưởng, nếu ông nội ông ta chết. (11)

Đã hơn một năm nay, ông cụ già cay nghiệt đã đến tìm một ông chưởng lý văn khế để giao hẹn với pháp luật rằng mình có chết thì phần lợi tức của mấy chục nóc nhà mới được đem ra cho con cháu chia nhau... Ông cụ già không biết rằng nếu cái chết của mình lại có lợi cho con cháu đến như thế thì con cháu không khi nào lại muốn cụ cứ sống như thế mãi, dù là một ngày, dù là một giờ. Xưa kia, cụ đã tay trắng làm nên giàu, âu cũng là sinh ư nghệ, tử ư nghệ, hoặc là một cách chết vì … nghĩa vụ!

Cậu Tân, mà ai cũng gọi là Tú Tân, không phải vì đã đỗ Tú tài, nhưng mà vì đã ba lần thi trượt cái phần thứ nhất bằng Tú tài, lúc ấy loay hoay hai ba cái máy ảnh, cân nhắc xem hôm đưa đám nên dùng đến cái nào thì hơn. (12)

Bà Phó Đoan ngồi ẵm cậu con cầu tự của bà như một vị hiền mẫu. (13)

Ông Joseph Thiết − một bạn thân của Văn Minh − thì ngồi trầm tư mặc tưởng với cái ý định mở một tờ báo bảo hoàng,  không phải làm việc cho triều đình Huế, nhưng cho dòng họ Orléans [c] bên Pháp, và cho ông Léon Daudet.[d](14) 

Nhân dịp sắp có đám ma, ông cổ động cho ông:

− Khi ông Bainville [e] chết, lúc tôi còn là một đảng viên Thập Tự Lửa mà đi đưa đám, thì một nửa dân thành phố Paris, gồm các chính đảng ở cực hữu...(15)

Song ông nói không ai nghe, vì người ta còn mải nghe ông TYPN đương bàn:

− Quần áo nhất định bằng nhiễu Thượng Hải trắng, mà viền đen. Cổ áo sẽ có hoa thị, cánh trắng, cũng viền đen! Mũ mấn cũng thế! Trắng viền đen nổi hơn đen viền trắng.

Bà Phó Đoan khen:

−  Thế thì nhất! Thế thì ai cũng muốn có trở!

Cậu Phước nguẩy đầu một cái:

 − Em chã!

Bà Văn Minh ẻo lả hai bàn tay ngọc khẽ vỗ vào nhau:

−  Được lắm! Dernières créations! [f]

Duy có ông Phán mọc sừng là ngồi im với hai con mắt đầy những căm hờn. Ông buồn bực vì không thấy vợ ông có mặt tại đấy. Ông muốn tìm Xuân cũng không gặp. Ông bèn hỏi ông Văn Minh:

−  Này bác, thế ông Xuân đâu?

− Ông ấy đi lấy thuốc, cũng sắp về.

Rồi người ta cãi nhau ỏm tỏi một cách chính đáng về vấn đề chức nghiệp biên trong cáo phó. (16)

Giữa lúc ấy, cô Tuyết bước vào. Cô này là con gái út cụ Hồng, mới 18 tuổi đúng, rất có nhan sắc, lại cũng sắp lãng mạn theo cái lối phụ nữ tân tiến rởm. (17)

Cô nói:

Tôi đến nhà cả hai cụ lang, tôi chẳng gặp cụ nào cả, tôi bèn dặn cả hai cụ cùng đến. (18)

Cụ bà ở trong nhà thét lên:

− Chết! Sao mày lại dại thế, hở con? Thế thì hai cụ lại giận nhà này đến chết mất thôi!

Văn Minh đứng lên sừng sộ:

− Cái gì? Việc gì mà phải mời đến những hai ông lang? Người ta đã bảo để chờ ông Xuân xin thuốc thánh ở đền Bia [g] về... (19)

Bạn ông là Joseph Thiết cắt nghĩa ngay: (20)

−  Ồ! Toa mà lại chịu được thuốc đền Bia! Thế thì toa điên thật!

−  Không! Chữa bệnh cốt ở lòng tin thuốc, toa phải hiểu thế nào là tự kỷ ám thị mới được! Hễ tin là khỏi, mà ông cụ nhà moa tin thuốc thánh đền Bia lắm.

−  Sao bảo đã có một ông Xuân nào là sinh viên trường thuốc chữa chạy cho cụ kia mà? (21)

Ông Văn Minh cắt nghĩa ngay:

−  Chính thế! Ông Xuân đã ngồi trò chuyện với ông cụ và được kính phục lắm. (22)  Thế là một mối tin nhé? Rồi ông Xuân cũng lại công nhận thuốc đền Bia thì làm gì toa bảo ông cụ nhà moa lại không khỏi? Hai mối tín ngưỡng đủ khiến cho một ông lang băm cũng trở nên có tài! (23)

Ông Joseph Thiết vì không hiểu cái ẩn tình, cái ý riêng của bạn, liền biểu đồng tình:

−  Nói thế kể cũng có lý.

Được thể, Văn Minh lại mắng cô em:

−  Thế thì ai bảo cô mời những hai ông lang? Hở cô ả?

Tuyết cãi:

−  Đẻ bảo tôi thế thì tôi cứ thế, chứ tôi biết đâu đấy?

Văn Minh chạy vào phía trong tìm mẹ. (24)

− Ồ! Phiền quá đi mất! Phiền quá đi mất! Rồi thì chết vì thuốc mất! Nhiều thầy thối ma, đẻ lại không biết câu phương ngôn ấy hay sao?

Cụ bà chép miệng rồi nói chữa:

−  Thôi thì để hai cụ cắt vài thang thuốc bổ thôi vậy.

Cụ ông lại nhắm nghiền mắt lại, gắt:

−  Biết rồi! Khổ lắm! Khổ lắm! Nói mãi!...

−  Thế người ta giận thì rồi nhà này có người ốm thì ai đến chữa cho nữa?

Giữa lúc cuống quýt lúng túng ấy, Xuân Tóc Ðỏ bước vào, một chai nước rất bẩn thỉu cắp ở nách, một gói lá kỳ dị ở tay. (25)  Nó trông thấy ông Phán dây thép, chợt nhớ đến bộ Âu phục mới may của nó, thì hiểu ngay ra cái nghĩa chữ tín ở đời. Nó bèn dõng dạc khoan thai:

−  Thưa ngài, ngài là một người...

Nhưng ông Phán mọc sừng vội nháy mắt xua tay ra hiệu kín thì nó lại thôi.(26)  Người ta xúm quanh Xuân hỏi han nó về cuộc hành trình, về tin tức đền Bia, ai cũng có vẻ vồ vập nó như nó là một vị hoàng tử.(27) Nhất là Tuyết, sau khi thấy anh ruột tiến cử vắng mặt Xuân là sinh viên trường thuốc, thì cứ đứng đờ ra mà nhìn Xuân bằng cặp mắt rất ngây thơ. Văn Minh trợn hai con mắt ốc nhồi, ưỡn cái cổ lộ hầu, vuốt mảng tóc uốn quăn một cách trịnh trọng, rồi nói:

−  Mời các ngài lên xem chữa thuốc thánh!

Cả bọn đứng lên toan theo Văn Minh lên gác là chỗ có người bệnh.

Song le cụ lang Tỳ và cụ lang Phế đã cùng bước vào nhà một lúc và để cho phu xe phải đòi tiền xe nhặng lên theo cái lối các bậc danh y đi xe. Cô Tuyết ra trả tiền. Trong lúc bối rối, không biết xử trí ra sao, cụ Hồng đã bất đắc dĩ ngồi nhỏm lên và mời tất cả mọi người lên gác vậy. (28)

Lúc ấy trên gác chỉ có ông Hai và cô Nga là con gái ông ta săn sóc đến người bệnh mà thôi. (29) Ông Hai tuy là em ruột cụ Hồng, song vì an cư lạc nghiệp nơi thôn quê nên bị coi rẻ. Mỗi một cử chỉ của anh ông, cháu giai cháu dâu ông, đều làm ông kinh ngạc như người ở tiên giới bị rơi xuống trần gian... (30)  Yên trí mình quê mùa hủ lậu, ông không hề dám có một dư luận gì về những điều mà ông thấy hình như kỳ quặc. (31)  Ngay đến con gái ông, ông cũng không dám dạy bảo gì, mỗi khi cô Nga ra tỉnh mà tải về làng một ít ngôn ngữ hoặc cử chỉ của cuộc văn minh tiến bộ ở xứ ta.

Khi thấy tin cụ tổ mệt nặng, ông Hai vội vã ra tỉnh ngay và đã ngồi suốt đêm ngày ở đầu giường bố để nâng bố dậy, để đỡ bố nằm xuống, để đưa ra cái ống nhổ... để xúc một thìa chào... Ông không ghen tị vì cụ Hồng cứ an vị mà hút thuốt phiện, vì các cháu không săn sóc đến ông cụ già. Ông thấy chỉ một mình ông vất vả thì lòng hiếu đễ càng tăng.

Ngưòi ta rón rén lên, người nào cũng tự kiếm cho mình một chỗ, không ai phải mời mọc ai cả. (32) Văn Minh để cụ lang Tỳ, cụ lang Phế ngồi cạnh bệnh nhân, rồi giơ gói lá và lọ thuốc thánh ra.

−  Ðây, thuốc thánh chúng tôi xin ở đền Bia cho cụ chúng tôi đây. Thưa hai cụ, khoa học của người trần dù tiến bộ đến bậc nào thì cũng chẳng mầu nhiệm bằng sự cứu vớt chúng sinh của đức Thánh được.

Cụ lang Tỳ giở gói lá, xem xét một lúc rồi nói:

−  Ồ! Rau thài lài! Rau sam! Chỉ có thế này thôi ư?

Cụ lang Phế cầm lọ nước soi lên bóng đèn mà rằng: (33)

−  Ơ kìa! Nước quỷ gì thế này? Nước ao à?

Văn Minh đưa mắt cho Xuân Tóc Ðỏ. Anh chàng này nói ngay:

− Vâng, chỉ có thế, nhưng mà chữa khỏi, vì là thuốc thánh. Tôi đã xin âm dương, tôi đã được Thánh ban lộc cho, tôi đã thấy hàng nghìn người khỏi bằng những thứ này rồi. (34)  

Cụ lang Tỳ ra vẻ giận dỗi mà rằng:

− Thuốc men mà thế này thì công tôi bao lâu nay cũng toi! Ðã cắt ba thang, đã đỡ, ấy thế mà...

Cụ lang Phế cũng nói ra ý bóng gió:

−  Thưa cụ, không phải tôi đến tranh công của cụ. Nếu thuốc của cụ mà hay thì hẳn người ta không phải đi xin thuốc thánh đền Bia!

Cụ lang Tỳ giật phắt lấy lọ nước trong tay cụ lang Phế, nói:

−  Ðể tôi xem! Nước này mà là nước ao! Nước này chính là nước ruộng! Uống nước này thì khỏi hết bệnh, không còn bệnh mà chữa nữa!

Cụ lang Phế cự lại:

−  Cụ vặc ra với ai thế? (35) Cụ giật lấy để làm gì thế? Ðơn tôi kê đấy à?

Nhưng cụ lang Tỳ đã không chịu nhận lỗi lại còn phát bẳn:

−  Phải! Không là đơn của cụ nhưng mà nó là nước ở ruộng chứ không phải là nước ao! Làm thuốc thì phải biết phân biệt nước ao, nước ruộng!

Cụ Phế đứng phắt dậy:

−  Thôi, chịu ông rồi! Cả nước này chỉ có ông là biết nghề thuốc!

−  Biết hay không mặc xác tôi! (36)

Hai vị danh sư lúc ấy cùng đứng trước mặt nhau, sấn sổ nhìn nhau. Sự nóng nảy của hai vị cùng như nhau, không thể ai can mà được nữa.

−  Này đừng khoe mẽ! Ðám ma cụ tuần Vi mới ngày hôm kia chứ đâu!

−  A! A! Nhưng cụ tuần Vi cũng thọ hơn sáu chục tuổi rồi! (37) Anh muốn đổ cho tôi phỏng? Thôi đi, sao anh không nhắc đến chuyện con bé Chắt nhà ông tham Vĩnh mà anh bốc có hai thang nó đã lăn đùng ra chết? (38)

Cụ Phế giơ hai tay phân vua mọi người:

 Ai bảo? Ai bảo là hai thang? Sao nó sốt nó lại ăn mận? Không thì việc gì! Hai thang à? Thế anh có nhớ đứa nào chỉ bán có hai xu thuốc đau bụng mà cậu ký Ðại suýt nữa mất mạng đấy. Thế mà đòi là lang? Lang thế, mấy lúc mà tù mọt gông? Lang băm ấy à?

Nhung cụ Tỳ thản nhiên ngồi xuống ghế, đủng đỉnh nói:

−  Lang băm? Có lẽ!... Nhưng không làm đọa thai người nào thì thôi.

Cụ Phế ngẫu nhiên có hai mắt to như ốc nhồi: (39)

 A! Anh to gan nhỉ? Nói nữa! Nói nữa đi xem nào?

−  Chứ lại sợ à? Nói tại sở Liêm phóng cho mà xem!

−  Này không phải doạ! Chưa chắc đâu! Hỏi cái đứa nào đánh mộng mà đến nỗi lòi con ngươi người ta ra, nó đây kia! Nó đây kia!

−  Số nó mù thì anh bảo sao? Anh muốn tôi lục đến cái thằng bé sài suyễn mà anh chữa bằng lá ổ nhĩ mãi không?

−  Sao không nói đến bệnh trẩn kinh của bà Phó Ðoan mà anh cứ kêu là có chửa? (40)

Bà Phó Ðoan đương cười khúc khích, bỗng phải hỗ thẹn, vội chạy tọt ra gác sân. (41)

 Anh là thằng khốn nạn nhé! Thế cô Nga đây kia, hôi nách mà anh chữa bằng dầu bạc hà trong sáu tháng giời không khỏi thì sao? (42)

−  Sáu tháng? Thế trong ba năm trời sao anh không cho sạch mấy nốt ghẻ ruồi ở mình cô Tuyết kia đi? (43)

Cô Nga và cô Tuyết cùng đương bưng miệng cười bỗng đỏ mặt, ngẩn người ra như gỗ, rồi lôi nhau cắm cổ chạy mất!

Văn Minh lôi cụ Tỳ xuống thang, ông Hai lôi cụ Phế ra một nơi. [h] Cụ Hồng thì cứ: “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!” Những người khác hoặc rũ rượi ra cười, hoặc xúm quanh cụ Phán bà mà khuyên giải, vì cụ bà đã mếu máo khi người ta nói rõ mấy nốt ghẻ ruồi của con gái út cụ ra cho ai cũng hay. Trận đấu khẩu của hai vị danh sư làm cho ông lão 80 tuổi đương nằm rên mà tỉnh hẳn người ra như không ốm đau gì cả. Cụ ngơ ngác hỏi:

 Ô hay? Cái gì mà cười nói vui vẻ thế này? Tôi thức hay tôi ng mê thế này?

Văn Minh lúc ấy đã tống khứ hai vị danh sư khỏi nhà rồi, (44) liền ngồi xuống bên giường mà rằng:

−  Thưa ông, ấy là con cháu vui mừng vì ông khỏi bệnh đấy ạ!

−  Tôi khỏi rồi ư? Tôi chưa chết ư? Lạy giời!

−  Thưa ông, nhờ có ông đốc-tờ  Xuân đây mà ông khỏi đấy ạ.

−  Ðâu? Thế thuốc thánh đền Bia đâu?

−  Bẩm ông đã uống một nửa rồi nên mới tỉnh táo thế.

−  Thế à!

−  Vâng.

Nói xong Văn Minh nháy mắt ra hiệu cho Xuân nói:

−  Thưa cụ con đã xin âm dương... Thánh troàn rằng một ông đốc-tờ mà chịu ơn thánh thì thánh sẵn lòng giúp lắm. Chứ mà ông lang ta thì không đời nào thánh giúp. (44)

Ông cụ già vui mừng hỏi:

−  Ðâu, còn thuốc thì cho tôi uống nốt. (45)

Xuân Tóc Ðỏ đưa lọ nước ruộng và mấy cái lá thài lài ra. Ông cụ già lại nói:

− Nghe người ta nói thì thuốc thánh ban cho là phải nước ao, thật bẩn thỉu, thật hôi tanh, ô uế, thì mới khỏi được bệnh kia đấy.(46)  Ðừng ai đánh lừa già đấy nhé!

Người ta cho bệnh nhân ăn mấy lá rau xam, rau thài lài, và uống mấy chén nước ruộng ấy. Thật là thuốc thánh! Bệnh nhân độ na giờ đã tỉnh táo khác thường, ngồi dậy một mình được, đã ăn được na bát cháo.

Ðêm ấy, khi mọi người đi ngủ thì trong phòng người ốm chỉ có Xuân Tóc Ðỏ và cô Tuyết săn sóc mọi việc mà thôi. Ðến chính ông Hai cũng ngủ mê ngủ mệt ở một cái trường kỳ gần đấy, vì ông đã hơi yên tâm là cụ tổ sẽ mạnh khoẻ đến nơi rồi. (47) Tuyết đã lấy chữ hiếu ra làm cớ để cùng thức với Xuân. Hai bên tuy không nói chuyện với nhau song bốn con mắt đã đủ nói giỏi hơn hai cái mồm.(48)

Bệnh nhân ngủ yên, hết ho khạc, hết cả rên, cựa cậy cũng ít.

Mặt trăng soi qua cửa kính...

Hồi lâu, Tuyết đánh bạo nói:

−  Thưa ngài, cụ lang vu oan, chứ tôi... tôi ... khỏi mấy nốt ghẻ đã từ lâu rồi. (49)

Xuân Tóc Ðỏ lúng túng ngồi câm làm cho Tuyết phải nghĩ thầm: “À, dễ người ta làm bộ vì người ta là sinh viên trường thuốc”. Rồi Tuyết ôm mối hận mà về phòng riêng.

NGUỒN:

[chương] VII
Bản A: Số đỏ, chuyện cười dài, Vũ Trọng Phụng, Hà Nội Báo, s. 46 (18 Novembre 1936), tr. 33-38.

Bản B: Số đỏ, tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng; Nhà in Lê Cường, Hà Nội, 1938 (mất văn bản)

Bản C: Số đỏ, tiểu thuyết cười dài, Vũ Trọng Phụng; Nxb. Minh Đức, Hà Nội, 1946, tr. 93-107.

Bản D: Số đỏ, Vũ Trọng Phụng; Nxb. Mai Lĩnh, Hà Nội, 1952, tr. 78-90.

Bản E: Số đỏ, tiểu thuyết cười dài, Vũ Trọng Phụng; Nxb. Minh Đức, Hà Nội, 1957, tr. 72-82.

Bản F: Số đỏ, tiểu thuyết xã hội tả chân, Vũ Trọng Phụng; Nxb. Mai Lĩnh, Sài Gòn, 1958, tr. 72-83.

Bản G: Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập III, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1987, tr. 76-87.

KHẢO DỊ:

(1)  A, D, F: Trên cái sập gụ khảm mà giữa là cái khay đèn, cụ nằm một bên, thằng xe nằm một bên, cụ bà thì ngồi phía dưới chân.

     C, E: Trên cái sập gụ khảm mà giữa là cái khay đèn, cụ nằm một bên, cụ bà thì ngồi phía dưới chân.

    G: Trên cái sập gụ khảm mà giữa là cái khay đèn, cụ nằm một bên, thằng xe một bên, cụ bà thì ngồi phía dưới chân.

 

(2)  A: Thằng xe lúc ấy đã rửa sạch hai cái chân ngựa người để gánh vác trách nhiệm nặng nề của người bồi tiêm thuốc phiện.

       C, D, E, F, G: Thằng xe lúc ấy đã rửa sạch hai cái chân ngựa người để gánh vác cái trách nhiệm nặng nề của người bồi tiêm thuốc phiện.

 

(3)   A, D, F, G: Ấy thế rồi... ta cứ lo toan trước việc ma chay đi mà thôi.

       C, E: Ấy thế rồi... ta cứ lo toan trước ma chay đi mà thôi.

 

(4)   A: Nếu chúng nó muốn thì chúng nó cứ cho thuê kèn bú-rích Tây đi, càng hay. 

       C, D, E, F, G: Nếu chúng nó muốn thì chúng nó cứ đi thuê kèn bú-rích Tây đi, càng hay. 

 

(5)   A, C, D, E, F: Nhưng mà không thể vì cái thích của chúng mà bãi bỏ cái thích của tôi được!

       G:  Nhưng mà không thể vì cái thích của chúng mà bỏ cái thích của tôi được!

 

(6)  A, C, D, F, G:  Cụ bà lải nhải kể lể những mớ lễ nghi phức tạp nó làm cho một gia đình thành ra muốn pha trò, mỗi khi gia đình ấy sắp được hân hạnh là tang gia.

      E: Cụ bà lải nhải kể lể những mớ lễ nghi phức tạp nó làm cho gia đình thành ra muốn pha trò, mỗi khi gia đình ấy sắp được hân hạnh là tang gia.

 

(7)  A: Người nào cũng đã lên gác chỗ có giường của cụ cố tổ, vén màn nhìn vào rồi rón rén lui ra, chạy ù xuống nhà dưới, cho thế là xong cái bổn phận đi thăm một người ốm nặng.  

       C, D E, F: Người nào cũng đã lên gác chỗ có giường của cụ cố tổ, vén màn nhìn vào rồi rón rén lui ra, chạy ù xuống nhà dưới, cho thế là xong cái bổn phận đi thăm một người ốm nặng.

       G: Người nào cũng đã lên gác chỗ có giường cụ cố tổ, vén màn nhìn vào rồi rón rén lui ra, chạy ù xuống nhà dưới, cho thế là xong cái bổn phận đi thăm một người ốm nặng.

 

(8)   A: vì bệnh nhân mà chết thì thực là đáng mừng chung.   

       C, D, E, F, G: vì bệnh nhân mà chết thì thực là đáng mừng cho họ.   

 

(9)  A, C, D, E, F: người ta bàn soạn y như trong nhà đã có người chết rồi, chứ không phải chỉ mới có người ốm.

       G: người ta bàn soạn y như trong nhà đã có người chết rồi, chứ không phải chỉ có người ốm.

 

(10)  A: Ông nhà báo đã được sự chủ khẩn khoản yêu cầu viết bài tường thuật, bài cáo phó, và sửa soạn chụp ảnh đăng báo.

        C, D, E, F, G: Ông nhà báo đã được sự chủ khẩn khoản yêu cầu viết bài cáo phó, bài tường thuật, và sửa soạn chụp ảnh đăng báo.

 

(11)  A: Văn Minh vợ mơ màng một cách sung sướng rằng chỉ nay mai là sẽ được ăn vận toàn trắng, nhất là cái khăn trắng, một điều mà bà vẫn ao ước bấy lâu nay. Văn Minh chồng ngồi hút thuốc lá Camel, cũng mơ màng đến phần tài sản mà ông ta sẽ được hưởng, nếu ông nội ông ta chết.

       C, D, E, F, G: Văn Minh vợ mơ màng một cách sung sướng rằng chỉ nay mai là sẽ được ăn vận toàn trắng, một điều bà vẫn ao ước bấy lâu nay. Văn Minh chồng ngồi hút thuốc lá Ăng-lê, cũng mơ màng đến phần tài sản mà ông ta sẽ được hưởng, nếu ông nội ông ta chết.

 

(12)  A: Cậu Tân, mà ai cũng gọi là Tú Tân, không phải vì đã đỗ Tú tài, nhưng vì đã ba lần thi trượt cái phần thứ nhất bằng Tú tài, lúc ấy loay hoay với hai ba cái máy ảnh, cân nhắc xem hôm đưa đám nên dùng đến cái nào thì hơn.

      C, E: Cậu Tân, mà ai cũng gọi là Tú Tân, không phải vì đã đỗ Tú tài, nhưng vì đã ba lần thi trượt cái phần thứ nhất bằng Tú tài, lúc ấy loay hoay hai ba cái máy ảnh, cân nhắc xem hôm đưa đám nên dùng đến cái nào thì hơn.

      D, F: Cậu Tân, mà ai cũng gọi là Tú Tân, không phải vì đã đỗ Tú tài, nhưng vì đã ba lần thi trượt cái phần thứ nhất bằng Tú tài, lúc ấy loay hoay hai ba cái máy ảnh, cân nhắc xem hôm đi đưa đám nên dùng đến cái nào thì hơn.

      G: Cậu Tân, mà ai cũng gọi là Tú Tân, không phải vì đã đỗ Tú tài, nhưng vì đã ba lần thi trượt cái phần thứ nhất bằng Tú tài, lúc ấy loay hoay hai ba cái máy ảnh, cân nhắc xem hôm đi đám nên dùng đến cái nào thì hơn.

 

(13)   A, C, D, E, F: Bà Phó Đoan ngồi ẵm cậu con cầu tự của bà như một vị hiền mẫu.

         G: Bà Phó Đoan ngồi ẵm cậu con cầu tự của bà như một  hiền mẫu.

 

(14)   A: Ông Joseph Thiết − một bạn thân của Văn Minh − thì ngồi trầm tư mặc tưởng với cái ý định mở một tờ báo bảo hoàng, không phải làm việc cho triều đình Huế, nhưng cho dòng vua Orléans bên Pháp, và cho ông Léon Daudet.

         C, D, E, F, G: Ông Joseph Thiết − một bạn thân của Văn Minh − thì ngồi trầm tư mặc tưởng với cái ý định mở một tờ báo bảo hoàng, không phải làm việc cho triều đình Huế, nhưng cho dòng họ Orléans bên Pháp, và cho ông Léon Daudet.

 

(15)  A: thì một nửa dân thành phố Paris, gồm các đảng ở cực hữu

        C, D, E, F, G: thì một nửa dân thành phố Paris, gồm các chính đảng ở cực hữu

 

(16)  A: Rồi người ta cãi nhau về vấn đề chức nghiệp biên trong cáo phó.

        C, D, F:  Rồi người ta cãi nhau ỏm tỏi một cách chính đáng về vấn đề chức nghiệp biên trong cáo phó.

        E: Rồi người ta cãi nhau ỏm tỏi một cách thích đáng về vấn đề chức nghiệp biên trong cáo phó.

        G: Rồi người ta cãi nhau ỏm tỏi một cách chính đáng về vấn đề chức nghiệp in trong cáo phó.

 

(17)  A: rất có nhan sắc, lại cũng sắp sửa lãng mạn theo cái lối phụ nữ tân tiến rởm.

        C, D, E, F, G: rất có nhan sắc, lại cũng sắp lãng mạn theo cái lối phụ nữ tân tiến rởm.

 

(18)  A: Tôi đến nhà cả hai cụ lang, tôi chẳng gặp cụ nào cả, tức mình tôi dặn cả hai cụ cùng đến.

        C, D, E, F, G: Tôi đến nhà cả hai cụ lang, tôi chẳng gặp cụ nào cả, tôi bèn dặn cả hai cụ cùng đến.

 

(19)   A, D, F: Người ta đã bảo để chờ ông Xuân xin thuốc Thánh ở đền Bia về.

         C, E: Người ta bảo để chờ ông Xuân xin thuốc Thánh ở đền Bia về.

         G: Người ta đã bảo chờ ông Xuân đi xin thuốc Thánh ở đền Bia về.

 

(20)   A: Bạn ông là Joseph Thiết cắt ngay:

        C, D, E, F, G: Bạn ông là Joseph Thiết cắt nghĩa ngay:

 

(21)  A: Sao bảo đã có một ông Xuân nào là sinh viên trường thuốc kia mà?

        C, D, E, F, G: Sao bảo đã có một ông Xuân nào là sinh viên trường thuốc chữa chạy cho cụ kia mà?

 

(22)  A: Ông Xuân đã ngồi trò chuyện với ông cụ đã được kính phục lắm.

        C, D, E, F, G: Ông Xuân đã ngồi trò chuyện với ông cụ đã được kính phục lắm.

 

(23)  A: Hai mối tín ngưỡng đủ khiến một ông lang băm cũng có tài!

        C, D, E, F, G: Hai mối tín ngưỡng đủ khiến một ông lang băm cũng trở nên có tài!

 

(24)  A: Văn Minh chạy thẳng vào phía trong tìm mẹ.

        C, D, E, F, G: Văn Minh chạy vào phía trong tìm mẹ.

 

(25)  A, D, F, G: Xuân Tóc Ðỏ bước vào, một cái chai nước rất bẩn thỉu cắp ở nách, một gói lá kỳ dị ở tay.

        C, E: Xuân Tóc Ðỏ bước vào, một chai nước rất bẩn thỉu cắp ở nách, một gói lá kỳ dị ở tay.

 

(26)  A: Nhưng ông Phán mọc sừng vội nháy mắt soa tay ra hiệu kín thì nó lại thôi.

        C, D, E, F, G:  Nhưng ông Phán mọc sừng vội nháy mắt sua tay ra hiệu kín thì nó lại thôi.

 

(27)  A: ai cũng có vẻ vồ vập như nó là một vị hoàng tử.

        C, D, E, F, G:  ai cũng có vẻ vồ vập như nó là một vị hoàng tử.

 

(28)   A: Trong lúc bối rối, không biết xử trí ra sao, cụ Hồng đã bất đắc dĩ ngồi nhỏm lên mời tất cả mọi người lên gác vậy.

         C, D, E, F, G: Trong lúc bối rối, không biết xử trí ra sao, cụ Hồng đã bất đắc dĩ ngồi nhỏm lên mời tất cả mọi người lên gác vậy.

 

(29)  A, C, D, E, F: Lúc ấy trên gác chỉ có ông Hai và cô Nga là con gái ông ta săn sóc đến người bệnh mà thôi.

        G: Lúc ấy trên gác chỉ có ông Hai và cô Nga là con gái ông ta.

 

(30)   A: Mỗi một cử chỉ của anh ông, của cháu giai cháu dâu ông, đều làm ông kinh ngạc như người tiên cung bị rơi xuống trần gian.

         C, E: Mỗi một cử chỉ của anh ông, cháu giai cháu dâu ông, đều làm ông kinh ngạc như người tiên giới bị rơi xuống trần gian.

         D, F, G: Mỗi một cử chỉ của anh ông, cháu giai cháu dâu ông, đều làm ông kinh ngạc như người tiên giới bị rơi xuống trần gian.

 

(31)  A, C, D, E, F: Yên trí mình quê mùa hủ lậu, ông không hề dám có một dư luận gì về những điều mà ông thấy hình như kỳ quặc.

        G: Yên trí mình nhà quê hủ lậu, ông không hề dám có một dư luận gì về những điều mà ông thấy hình như kỳ quặc.

 

(32)   A: Ngưòi ta rón rén lên, người nào cũng kiếm cho mình một chỗ, không ai phải mời mọc ai cả.

         C, D, E, F, G: Ngưòi ta rón rén lên, người nào cũng tự kiếm cho mình một chỗ, không ai phải mời mọc ai cả.

 

(33)   A, D, F, G: Cụ lang Phế cầm lọ nước soi lên bóng đèn điện mà rằng:

         C, E: Cụ lang Phế cầm lọ nước soi lên bóng đèn mà rằng:

 

(34)  A: Vâng, chỉ có thế, nhưng mà chữa khỏi, vì là của thánh. Tôi đã xin âm dương, tôi đã được Thánh ban cho, tôi đã thấy hàng nghìn người khỏi bằng những thứ này rồi.

        C, D, E, F, G: Vâng, chỉ có thế, nhưng mà chữa khỏi, vì là thuốc thánh. Tôi đã xin âm dương, tôi đã được Thánh ban lộc cho, tôi đã thấy hàng nghìn người khỏi bằng những thứ này rồi.

 

(35)   A, C, D, F, G: Cụ vặc ra với ai thế?

         E: Cụ vặc ra mới ai thế?

 

(36)   A: Biết hay không mặc xác tôi! Anh không phải cà!

        C, D, E, F, G: Biết hay không mặc xác tôi!

 

(37)   A: Nhưng cụ tuần Vi còn  thọ hơn sáu chục tuổi rồi!

         C, D, E, F, G: Nhưng cụ tuần Vi cũng thọ hơn sáu chục tuổi rồi!

 

(38)   A: sao anh không nhắc đến chuyện con bé Chắt nhà ông tham Vĩnh mà anh bốc mới có hai thang nó đã lăn đùng ra chết?

         C, D, E, F: sao anh không nhắc đến chuyện con bé Chắt nhà ông tham Vĩnh mà anh bốc có hai thang nó đã lăn đùng ra chết?

         G: sao anh không nhắc đến chuyện con bé Chắt nhà ông tham Vĩnh mà ông bốc có hai thang nó đã lăn đùng ra chết?

 

(39)   A: Cụ Phế ngẫu nhiên có hai con mắt to như ốc nhồi

         C, D, F, G: Cụ Phế ngẫu nhiên có hai mắt to như ốc nhồi

         E: Cụ Phế ngẫu nhiên có đôi mắt to như đôi mắt ốc nhồi

        

(40)   A: Sao không nói đến bệnh điều kinh của bà Phó Ðoan mà anh cứ kêu là chửa?

         C, D, E, F, G: Sao không nói đến bệnh trẩn kinh của bà Phó Ðoan mà anh cứ kêu là có chửa?

 

(41)   A: Bà Phó Ðoan đương cười khúc khích, bỗng chạy tọt ra gác sân.

        C, D, E, F, G: Bà Phó Ðoan đương cười khúc khích, bỗng phải hỗ thẹn, vội chạy tọt ra gác sân

 

(42)  A: Thế cô Nga đây kia, hôi nách mà anh chữa bằng dầu bạc hà trong sáu tháng trời thì sao?

        C, D, E, F, G: Thế cô Nga đây kia, hôi nách mà anh chữa bằng dầu bạc hà trong sáu tháng giời không khỏi thì sao?

 

(43)  A: Thế trong ba năm trời sao anh không cho sạch mấy nốt ghẻ ở mình cô Tuyết kia đi?

        C, D, G: Thế trong ba năm trời sao anh không cho sạch mấy nốt ghẻ ruồi ở mình cô Tuyết kia đi?

       E: Thế trong ba năm giời sao anh không chữa sạch mấy nốt ghẻ ruồi ở mình cô Tuyết kia đi?

       F: Thế trong ba năm giời sao anh không cho sạch mấy nốt ghẻ ruồi của mình cô Tuyết kia đi?

 

(44)  A: Văn Minh lúc ấy đã tống khứ hai vị danh y khỏi nhà rồi,

        C, D, E, F, G: Văn Minh lúc ấy đã tống khứ hai vị danh khỏi nhà rồi,

 

 

(44)   A: Thánh troàn rằng một ông đốc-tờ mà chịu ơn thánh thì thánh sẵn lòng giúp lắm.

        C, D, E, F, G: Thánh troàn rằng một ông đốc-tờ mà chịu ơn thánh thì thánh sẵn lòng giúp lắm. Chứ mà ông lang ta thì không đời nào thánh giúp.

 

(45)   A: Ðâu, còn thuốc thì cho tôi uống nốt.

        C, D, E, F, G: Ðâu, còn thuốc cho tôi uống nốt.

 

(46)  A, G: Nghe người ta nói thì thuốc thánh ban cho phải là nước ao, thật bẩn thỉu, thật hôi tanh, ô uế, thì mới khỏi được bệnh kia đấy.

        C, D, E, F: Nghe người ta nói thì thuốc thánh ban cho là phải nước ao, thật bẩn thỉu, thật hôi tanh, ô uế, thì mới khỏi được bệnh kia đấy.

 

(47)  A: Ðến chính ông Hai cũng ngủ mê ngủ mệt ở một cái trường kỳ gần đó, vì ông đã hơi yên tâm là cụ tổ sẽ mạnh khoẻ đến nơi rồi.

        C, D, E: Ðến chính ông Hai cũng ngủ mê ngủ mệt ở một cái trường kỳ gần đấy, vì ông đã hơi yên tâm là cụ tổ sẽ mạnh khoẻ đến nơi rồi.

 

(48)  A: Hai bên tuy không nói với nhau song bốn con mắt đã đủ nói giỏi hơn hai cái mồm.

        C, D, E, F, G: Hai bên tuy không nói chuyện với nhau song bốn con mắt đã đủ nói giỏi hơn hai cái mồm

(49)  A: Thưa ngài, cụ lang vu oan, chứ tôi... tôi ... khỏi mấy nốt ghẻ rồi.

        C, D, E, F, G: Thưa ngài, cụ lang vu oan, chứ tôi... tôi ... khỏi mấy nốt ghẻ đã từ lâu rồi.

 

CHÚ THÍCH:

[a]  minh tinh: dải lụa hoặc giấy có ghi tên tuổi, chức tước người chết, được trương cao lên khi đưa đám ma theo tục lệ cổ truyền; nhà táng: nhà làm bằng giấy hoặc vải, có trang trí, úp lên quan tài khi đưa ra huyệt mộ; bú-rích (phỏng âm chữ Pháp musique): âm nhạc.

 

[b]  lộ bộ: chưa rõ là gì; trong ngữ cảnh câu văn, có thể đoán đây là tên một vật dụng trong nhà.

 

[c] dòng họ Orléans: một dòng họ từng làm vua ở nước Pháp.  

 

[d] Léon Daudet (1867-1942) nhà văn, nhà báo, chính khách Pháp.

 

[e] Jacques Bainville (1879-1936) nhà ngoại giao, sử gia Pháp.

 

[f] Dernières créations (chữ Pháp): sáng tạo mới nhất, sáng tạo tối tân. 

 

[g]  Thuốc thánh đền Bia: thuốc xin ở đền Bia, tại làng Văn Thai, tổng Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Đền này thờ Tuệ Tĩnh thiền sư tức Nguyễn Bá Tĩnh (1330-?), quê làng Văn Thai. Theo lời tục truyền, Tĩnh mồ côi cha mẹ từ 6 tuổi, được một hào phú trong làng nuôi, sau theo học một thiền sư ở Giao Thủy (Nam Định), vừa học nho vừa học thuốc, đỗ Hoàng giáp /hay đỗ Thái học sinh?/ dưới triều Trần Dụ Tông (1341-69) nhưng không ra làm quan mà chuyên làm thuốc chữa bệnh, đặc biệt chú ý tìm cây thuốc ở Việt Nam, soạn ra và truyền lại sách “Nam dược thần hiệu”; ngoài ra còn hưng công xây dựng được vài chục ngôi chùa. Về sau ông được triều cống sang Trung Quốc để chữa bệnh hậu sản cho vợ vua nhà Minh /hay Nguyên?/, được vua Minh phong sắc “Nam Việt Y Tử”, nhưng không được về nước mà bị giữ lại ở đó cho đến chết. Cũng theo tục truyền, đến thời Lê Cảnh Hưng (1740-86) có tiến sĩ Nguyễn Danh Nho (1638-99) là người cùng làng Văn Thai đi sứ sang nhà Thanh, tình cờ nhìn thấy tấm bia mộ Tuệ Tĩnh, trong đó có lời nhắn “mai sau ai có về Nam Việt thì cho di cốt tôi về với”, bèn sao lục lời văn bia ấy rồi thuê thợ khắc đá thành tấm bia đem về nước; qua vạn thủy thiên sơn, khi đến một nơi gần làng Văn Thai thì tấm bia tụt xuống và không sao chuyển đi được. Người ta cho là thánh đã hiển linh, bèn xây đền thờ ngay tại vị trí đó, đặt tên là đền Bia. Tục truyền, thuốc thánh xin ở đền Bia rất công hiệu, dân đến lễ đền Bia xin thuốc rất đông. Đến thời Minh Mệnh (1820-40), vua thấy dân tụ về đông như thế, cho là việc phạm, bèn bắt khiêng bia về tỉnh đường giam phạt 100 năm, từ đó người đến cúng bái xin thuốc bớt dần. Về sau, có người làng Văn Thai làm việc trên tỉnh đường xin được mang lại tấm bia về đặt lại ở đền cũ; người trong vùng lại về đây cúng lễ xin thuốc, nhưng ban đầu chỉ có dân 3 làng Văn Thai, Nghĩa Phú, Phú Lộc xin thuốc là hiệu nghiệm. Người ta cho rằng từ đầu tháng giêng năm 1936, lời quở phạt của vua Minh Mệnh đã hết hạn, tức là thánh y Tuệ Tĩnh lại vui lòng cứu chữa chúng sinh, nên người ta kéo về làm lễ mỗi ngày có đến hàng nghìn người. Ai đã thành tâm đến xin thuốc cửa ngài thì dù bệnh nặng đến đâu cũng thuyên giảm. Hầu hết các bệnh đều chữa bằng các thứ lá và nước lã, ai xin về uống cũng đều khỏi. (Theo sách “Lịch sử chùa Bia”, Hồng Mai soạn, nhà in Hồng Tuyết, Hà Nội, 1936, tr. 3-8). Tại thư viện Quốc gia ở Hà Nội hiện có ít nhất 5 tập sách mỏng về sự tích đền Bia, hầu hết đều in cuối 1935 đầu 1936, hầu hết đều dùng để bán tại lễ hội đền Bia. Hẳn đây là sự việc đáng chú ý trong đời sống dân gian đương thời. Có lẽ nhà văn Vũ Trọng Phụng đã chú ý đến điều này, và đã đưa sự kiện đó vào tiểu thuyết Số Đỏ.       

 

[h] Đoạn đối đáp cãi vã giữa hai nhân vật lang Tỳ và lang Phế này, tác giả Vũ Trọng Phụng đã từng viết thành truyện ngắn Cuộc vui ít có, đăng tuần báo Nhật tân s. 18 (29.11.1933) dưới bút danh Thiên Hư.