Phụ lục:
Nói điều lỗi của ta
là sự may cho ta
Lời thâm cảm đối với mấy câu phê bình trong bài
"Câu chuyện hằng ngày" đăng trong Đông Pháp thời báo số 714
Xem báo "Tiếng dân"số 79, thấy bài sau nầy, lời lẽ có phần
khiêm nhường đứng đắn, bổn báo vui lòng lục đăng lên đây để công đồng lãm(*).
Duy về đoạn cuối cùng của bài ấy, thì bổn báo lại cũng không thể biểu đồng
tình với báo "Tiếng dân" được; vậy để sau nầy lại sẽ có bài biện luận. Song,
dầu thế nào mặc lòng, chẳng phải nói, ai cũng biết rằng, báo "Tiếng dân" với
bổn báo, ngoài cái tình đồng nghiệp, lại có nhiều mối cảm tình mật thiết khác,
nên dẫu có khi phải cãi nhau, chẳng qua cũng là bởi cái nghĩa "quá thất tương
khuy"(**) mà thôi, chớ tuyệt nhiên không có ý gì khác.
Tiện đây, bổn báo lại lấy làm ngậm ngùi có đôi lời thành thực thưa với ông Nam
Kiều Trần Huy Liệu rằng: Người ta ở đời có biết "cải quá bất lẩn"(***) mới là
kẻ quân tử chính nhơn, mà sự học vấn của mình cũng thường hay nhờ đó mà được
mở mang tiến hóa; duy có những kẻ tiểu nhơn nông nổi, cạn thấy ít nghe, thì
dẫu cái quấy của mình đã chề ề ra giữa muôn ngàn tai mắt, cũng cứ việc rấn
họng già mồm, che lầm đậy lỗi, không bao giờ chịu học theo người xưa, hễ nghe
lời lành thì lạy.
Biên tập bộ
Báo Tiếng dân số 68 ra ngày 7 Avril 1928, trong bài xã thuyết Thời đại
quá khứ của dân tộc ta ra thể nào về đoạn triều Gia Long có kể câu chuyện
cầu viện nước Pháp cùng nhờ binh lực nước Pháp v.v... Bài Câu chuyện hằng
ngày của ông C.D. đăng trong báo Đông Pháp, chỉ trích câu đó, nói rằng:
"Không phải binh lực nước Pháp, có chăng là đôi mươi người Pháp sang giúp mà
thôi." Ông lại cho là nhớ sách lù mù, lời văn không được tách bạch, mà ông lại
có lòng lượng thứ. Tác giả được nghe mấy câu trích bình đó, rất lấy làm cảm phục
mà trong lòng tự nhiên nảy ra hai điều mừng: một là mừng chung, hai là mừng
riêng:
Tòa kiểm duyệt bỏ hết một đoạn
... nay có kẻ mới nghe mấy chữ "nhờ binh lực nước Pháp" mà đã lấy làm bất bình,
cho là quái lạ, thật không khác gì giữa vùng sa mạc mà thấy chòm cây tốt, ở chốn
rừng không mà nghe tiếng chân người, dầu cho người vô tâm đến đâu cũng phải cảm
động, huống tác giả là một kẻ đa tình, không thế nào ngăn mối lòng hứng khởi được.
Phỏng sử trong nước mà được một số nhiều đối với câu ấy đều có lòng bất bình như
ông C.D. thì dầu tác giả vì một câu nói không tách bạch đó mà làm đích cho muôn
ngàn mũi tên, tác giả vẫn cũng vui lòng chịu vậy. ấy là phần mừng chung.
Ngọc có đá mài mà chất mới được sáng, vàng có lửa nung(*) mà tuổi mới được cao,
người ở trong đời dầu cho thánh hiền, cũng không sao nói ra là đều phải cả, song
có chỗ sai lầm mà không ai chỉ đến, thì trọn đời nằm mãi trong điều sai lầm đó
mà không sửa đổi được, nhờ có một hai người lời ngay lẽ thẳng vạch vết(**) chỉ
tỳ mà sau mình mới khỏi điều lỗi lầm sơ suất, không phạm đến nữa. Đức Khổng Tử
có nói rằng: "Tôi thật may, dầu có điều lỗi thì người ta biết mà nói cho" (cẩu
hữu quá nhân tất tri chi). Ông thánh còn lấy sự người ta biết lỗi mình làm may,
huống chi tầm thường như tác giả, sao lại không mừng! ấy là phần mừng riêng.
Vì có hai điều mừng đó, nên rất cảm phục mấy câu trích bình của ông C.D. và có
mấy lời tỏ thật như sau nầy:
Nguyên ý tác giả trong toàn thiên bài xã thuyết đó, cốt lấy lệ chung tấn hóa
trong cõi đời mà xét về dấu tích của dân tộc ta, về cuộc tấn tới mau chậm, giao
thông rộng hẹp, so sánh đời nọ đời kia, tuy mỗi đời mỗi khác mà cũng không tránh
khỏi cái lệ chung đó, mong cho cái cuộc tấn tới sau này sẽ thành cái cuộc của
dân tộc ta, mà không phải của kẻ khác ; tôn chỉ là thế, nên về đời nào mà có
cuộc gì mới, thì chỉ lược thuật cái đại khái. Như chuyện Gia Long kể trên, cốt
nói đương đời đó, người mình có vượt mấy muôn dặm biển, sang đến Âu châu mà cầu
cứu với một nước thuở nay không từng quen biết qua lại, lại được nhờ binh lực họ
giúp cho, so với Lý, Trần, Lê trước cơ cuộc có rộng hơn. Bản ý tác giả là thế,
chớ không có ý khảo cứu về sự quốc tế cùng chiến sự gì, nên câu nói có lược.
Song dầu thế nào mặc lòng, người nước mình hồi đó cũng có cầu cứu nước Pháp, nước
Pháp cũng có hứa lời, trong cuộc chinh chiến, cũng có tàu Pháp súng Pháp và người
Pháp, thì điều đó cũng không phải là không đúng sự thật. Như nói cho tách bạch,
theo thuyết dân tộc ngày nay, thì Gia Long là người nước Nam, Tây Sơn cũng là người
nước Nam, mà đi cầu một dân tộc khác về đánh lại với kẻ đồng tộc mình, cũng như
người Tàu nhờ binh người Anh (Qua - đăng) mà bình cái loạn Hồng Dương, điều đó
thật là đáng trách, song đương thời đại đó, thì vua Gia Long tức là nước Nam ta,
mà những người tóc vàng da trắng, mũi nhọn mắt thau tức là nước Pháp, người Pháp
cùng nước Pháp cũng không phân biệt là mấy. Trịnh Thành Công (là người mở mang
đất Đài Loan) cha Tàu mẹ Nhựt, người Nhựt cho là nửa giống Nhựt Bổn, thì ông
Giám mục d'Adran cùng đôi mươi người Pháp, mà nói là nước Pháp cũng không sai
bao nhiêu. Còn nói sử học, thì từ nay về sau, rồi sẽ có nhà chuyên môn nào, tôi
không dám biết, còn từ đây về trước, ở trong nước Nam ta ai là không lù mù mà lù
mù cũng không trách là bởi những cớ nầy: Theo sử triều nhà Nguyễn như Thực
lục v.v. thì gia phổ một nhà, theo sử người Pháp viết thì họ nói cho được
việc họ ; theo sử của nhà truyền giáo thì họ binh về đường Giáo hội, còn ngoài
ra như dã sử truyền văn, mười phần sai tám chín (như những chuyện nước biển hóa
ra ngọt, lá cây hóa ra chim, mà cũng đem vào trong sử để dối người sau v.v.) sử
đã lù mù thì kẻ nhớ sao khỏi lù mù được?
Thôi, mấy lời nói đó, vì tôi tâm phục lời chỉ trích của ông C.D. mà tôi nói khá
dài, sau tôi xin nói tóm một câu:
Nước Tàu nhờ sức người Anh bình được Hồng Dương, người Tàu không chối, mà nước
Tàu ngày nay vẫn lập thành Dân quốc độc lập ; người mình dầu không nhận đời Gia
Long có nhờ binh lực nước Pháp, thì cũng không cần biện bạch, nhưng ngày nay cứ
một mực đê hèn, không lo chữa cái xấu hiện thời mà cãi nhau chuyện cũ trong một
hào một mảy thì có ích gì cho kẻ sau mình, có tốt gì cho ông bà ta không(*)? Ông
bà dầu có đê hèn mà con cháu làm nên công nghiệp vĩ đại, thì gọi rằng hiếu, ông
bà dầu vẻ vang đến thế nào mà con cháu hư mạt, làm mất cơ nghiệp của ông bà, ấy
là bất hiếu, đường nào nên lo? Kẻ hữu tâm tưởng cũng cần phải lựa chọn vậy.
Còn như ông C.D. nói: Được như nước Mỹ mới gọi rằng giúp thì tôi vẫn đốt hương
cầu nguyện cho ông Hoa Thạnh Đốn nước ta mau xuất hiện, mà nay vẫn chưa thấy!
Đến như tích ông đã dẫn cùng sách ông dạy rằng nên đọc đó, thì tôi tuy ít học,
cũng đã có thấy, nhưng riêng về một mặt khảo cứu, tưởng còn nhiều thứ sách,
không phải một quyển Việt Nam sử lược mà cho là đủ được vậy.
M.V.(**)
Đông Pháp thời báo,
Sài Gòn, s.723 (24.5.1928)
-------------
(*) Công đồng lãm: mọi người cùng xem chung.
(**) "Quá thất tương khuy" - chưa thật rõ nghĩa; có thể là: xoi mói (giúp cho)
nhau ("quá thất": qua nhà ; "tương khuy": nhòm trộm nhau); theo Bửu Kế (Hán Việt
từ nguyên, Huế, 1999) quá thất nghĩa là sai lầm; "quá thất tương khuy" nghĩa là
giúp phát hiện sai lầm lẫn cho nhau.
(***) "Cải quá bất lẩn" - chưa thật rõ nghĩa; có thể là: việc sửa sai thì không
lựa chọn mới sửa ("cải quá": sửa điều lỗi; lẫn: chọn); nếu tính đến hiện tượng
nhầm lẫn dấu thanh của nhà in ở miền nam đương thời thì từ thứ tư có thể là lận
(tiếc, giận) hoặc lân (xót, tiếc).
(*) Bản gốc là lửa nông, NBS sửa lại: lửa nung.
(**) Bản gốc là vạch vít, NBS sửa lại: vạch vết.
(*) Không tán đồng với đoạn cuối bài này của báo Tiếng dân, ban biên tập ĐPTB đã
cho đăng ở số 725 (31.5.1928) bài của Phiêu Linh Tử: Đôi lời phân giải cùng quý
bạn đồng nghiệp "Tiếng dân", nói rõ những điều này:
"... nếu như báo Tiếng dân còn nhận biết sự ích lợi, sự thiết yếu của sử học thì
sao lại dám bảo rằng chúng ta không nên cãi nhau về chuyện cũ? Đã gọi là lịch sử
thì chuyện chi lại là chuyện không cũ? mà đã là chuyện cũ ở trong lịch sử của tổ
quốc ta thì dẫu một hào một mảy lại không đáng cho ta dụng công nghiên cứu cho
đến nơi đến chốn hay sao?"... "Bạn đồng nghiệp đã biết lo chữa cái xấu hiện thời
là việc cần kíp mà sao không biết rằng giảng cứu bổn quốc sử cũng chính là một
cái phương pháp rất hiệu nghiệm để chữa cái xấu hiện thời kia đó?"
(**) M.V. có lẽ là Minh Viên, bút danh của Huỳnh Thúc Kháng(1876-1947), lúc đó
là chủ bút báo Tiếng dân ở Huế.
|