Tư tưởng của
Tây phương và Đông phương
Hiện trong thế giới có hai thứ văn minh, là văn minh Tây phương
và văn minh Đông phương. Hai cái văn minh ấy khác nhau là do tại hai đàng tư tưởng
khác nhau. Tây phương gồm cả các nước châu Âu châu Mỹ mà nước Pháp là một; Đông
phương gồm cả các nước châu á, mà nước ta là một. Tư tưởng của Tây phương phát
nguyên từ Hy Lạp, La Mã, Hê-bơ-rơ, song bây giờ đã hỗn thành ra một nền tư tưởng
Tây phương, nên ở đây gọi chung là tư tưởng Tây phương. Tư tưởng Đông phương có
hai tua lớn, một là ấn Độ, một là Tàu, mà ta thuộc về tua Tàu, nên ở đây chỉ lấy
Tàu làm trọng.
Người ta thấy bên Tây về đường vật chất phát đạt tinh xảo hơn bên Đông, rồi cho
rằng văn minh Tây phương là vật chất văn minh, còn văn minh Đông phương là tinh
thần văn minh. Nói như vậy là lầm. Những cái thuyết tự do bình đẳng, là phần hệ
trọng nhứt trong văn minh Tây phương, chẳng phải tinh thần là gì? Bên nào cũng
có tinh thần vật chất cả, chẳng qua vật chất tùy theo tinh thần của mỗi bên mà
hiện ra hai vẻ khác nhau. Cái tinh thần ấy tức ở đây tôi gọi là tư tưởng.
Ba điều tôi sắp giải ra dưới nầy chỉ là từ trong hai cái văn minh ấy mà rút ra
mỗi bên ba cái yếu điểm; ngoài ra, mỗi cái văn minh hoặc giả đều có chỗ hay chỗ
dở thì tôi không kể đến. Tôi cũng không có ý so sánh bên nào hơn, bên nào kém;
cốt muốn tỏ ra cho biết hai bên trái ngược nhau, không thể dung nhau mà thôi.
1. - Tây phương chuộng khoa học, Đông phương
chuộng huyền học. - Theo ý người phương Tây, mọi sự vật trong thế gian bất
kỳ lớn hay nhỏ, thấy được hay không thấy được, hễ mình muốn biết thì phải biết
cho đến nơi, cho đâu ra đó, chớ không được mập mờ, không được lộn xộn. Bởi vậy
họ phải làm ra cái cách để mà biết. Đối với một sự vật gì, họ cứ nhặt lấy những
cái kinh nghiệm mỗi khi một ít, những cái tri thức mỗi nơi một chút, rồi quán
thông lại, lập ra những cái nguyên tắc, công lệ, và những cái thuyết có thống hệ,
mà ai cũng không cãi được nữa, thì bấy giờ sự biết mới đích xác và sự học về sự
vật ấy mới thành. ấy gọi là khoa học.
ở phương Tây bây giờ hầu như mỗi một sự vật gì là có một khoa học. Không những
thiên văn, địa văn, quang, điện, chánh trị, pháp luật có khoa học mà thôi; cho
đến nuôi gà, trồng rau cũng có khoa học nữa. Triết học ngày xưa đứng ngoài khoa
học, mà bây giờ người ta cũng dùng phương pháp khoa học để nghiên cứu triết học.
Họ chia khoa học ra làm ba loại: là Tự nhiên khoa học, Xã hội khoa học và Tinh
thần khoa học. Những tên riêng từng khoa thì nhiều lắm, không hơi sức đâu mà kể.
Đây cử ra một khoa y học để cho biết cái vẻ khoa học của họ là thế nào. Y học
lại gồm có nhiều khoa học khác nữa, nào là: Sanh lý học(1) dạy về sự kết cấu và
tác dụng của các cơ thể(*) trong mình người ta; Giải phẫu học (2) dạy về từng
cái xương từng mạch máu trong mình người ta; Bịnh lý học(3) dạy về các chứng
bịnh; Dược vật học dạy về các vị thuốc; tất phải biết ngần ấy khoa học mà thiệt
hành ra được đã rồi mới làm nên thầy thuốc. Đến khi chữa bịnh, thầy thuốc nói
bịnh tại tim, ấy là trái tim thiệt bị đau; nói bịnh tại phế, ấy là phổi thiệt bị
đau. Đau tim đau phổi cách làm sao thì uống thuốc gì, đều có phương nhứt định
cả, phải theo khoa học chớ không được theo ý riêng của thầy thuốc.
Tóm lại, người phương Tây biết được sự vật gì đều là do khoa học cả. Khoa học đã
thành ra như cái tánh riêng của họ.
Sự học phương Đông thì thật là mênh mông và mầu nhiệm. Kẻ học cứ sách mà đọc
tràn đi rồi hiểu được chừng nào thì hiểu. Những sự vật mà ta muốn biết, tán mạn
ra trong sách mỗi nơi một ít, không có xâu suốt lại thành từng món một, và cũng
không có đặt ra phương pháp gì để noi đó mà tìm tòi. Sách thì dạy trước bác mà
sau ước. Kinh Thơ nói vô số là chuyện, rồi ước lại một chữ Trung, Kinh Lễ nói vô
số là chuyện rồi ước lại một chữ Kính; bác thì cực kỳ là bác, mà ước thì cực kỳ
là ước(*). Đến kinh Dịch mới là ảo diệu vô cùng: quẻ Kiền có nói đến "rồng bay"
(long phi), mà kỳ thiệt không phải là rồng bay; quẻ Khôn có nói đến "ngựa cái"
(tẩn mã), mà kỳ thiệt không phải là ngựa cái; chẳng qua nói bóng vậy thôi, không
khác nào "con rồng có bảy đầu mười sừng" và "con thú ở dưới đất lên" đã nói
trong sách Khải huyền của kinh Tân ước. Sách Xuân thu cũng vậy, nói " Doãn thị
chết" song không trọng tại Doãn thị chết mà trọng tại cái ý chê thế khanh; nói "thiên
vương đi săn", song không phải đi săn mà là bị chư hầu bắt hiếp. Càng những chỗ
sâu hiểm éo le như vậy, thì lại càng tôn cho là vi ngôn đại nghĩa. Cứ theo sách
thì những âm dương, ngũ hành, cũng đều là những cái giả tượng mà thôi, chớ không
phải chỉ ngay về hiện trạng và thiệt tế mà ta ngó thấy đâu. Vì vậy cho nên gọi
là huyền học.
Người nào đã chịu phép "báp tem" của huyền học rồi thì ra làm việc gì cũng đều
được cả, bất cứ việc gì, vì "vận dụng do ư nhứt tâm". Một ông quan có thể coi
việc bộ Hộ rồi coi việc bộ Hình, luôn cả sáu bộ cũng được, và có khi ra làm tướng
đánh giặc cũng xong. Còn các nghề thợ thì nhứt thiết không có học gì cả, hễ tập
quen thì làm được, ăn thua nhau là tại cái sáng dạ.
Nói đến nghề làm thuốc của ta mới càng tỏ ra cái vẻ huyền học, và để cho nó phản
chiếu lại nghề làm thuốc của Tây vừa nói trên kia. Bắt đầu dạy về ngũ tạng: tâm,
can, tì, phế, thận, thì dạy rằng nó hiệp với ngũ hành, phối với ngũ vị, ứng với
ngũ phương và tứ thời. Dạy về dược tánh thì: một vị bạch truật mà chủ cả công cả
bổ, đã kiện tì cường vị, lại trị thấp, bĩ, hư đàm; càn cương sao hắc thì nhập
thận; hỏi tại làm sao thì bảo rằng vì "thận thuộc thủy, kỳ sắc hắc". Những điều
ấy nếu bắt cứ theo phương pháp khoa học mà giải nghĩa thì không tài nào giải ra
được. Đến lúc trị bịnh, thầy thuốc nói là bịnh phong, nhưng phong đó không phải
là gió; nói là bịnh thấp, nhưng thấp đó không phải là ẩm ướt; thậm chí nói bịnh
tại phế, tại can, nhưng thiệt không phải là đau phổi hay đau gan. Những chữ
phong, thấp, phế, can đó chẳng qua là một thứ chữ trừu tượng(1) chớ không phải
cụ thể (2). Còn đến cho thuốc thì cùng một bịnh mà mỗi thầy đi một mặt: thầy thì
hàn, thầy thì nhiệt, thầy thì bổ hỏa, thầy thì lợi thủy, thầy thì ít vị, thầy
thì nhiều vị, mỗi thầy đều kê phương dụng dược theo ý mình. Ôi! huyền diệu là dường
nào!
Đại ý huyền học không lấy khách quan mà xem xét mọi sự vật, chỉ lấy chủ quan mà
ứng tiếp nó. Kẻ học, sau khi đã học nhiều rồi, đã hội được vạn lý vào nhứt tâm
rồi, thì có thể đem cái tâm ấy ra mà đối phó với mọi sự vật chớ không theo y như
sự mình đã học; như vậy sách Nho gọi là "thần nhi minh chi". ấy huyền học tương
phản với khoa học là tại đó.
2. -Tây phương trọng tự chủ, Đông phương
trọng thống thuộc. - Chữ tự chủ ở đây nghĩa là mỗi người làm chủ lấy mình,
cũng tức là cá nhân chủ nghĩa. ở phương Tây, nói rằng "một người", nghĩa là đối
với thế giới, đối với quốc gia mà nói, chớ không phải phiếm nhiên. Đã gọi là người,
thì người nào cũng vậy, ai ai cũng có cái địa vị cái tư cách đối với thế giới đối
với quốc gia, thật như ta thường nói "đội trời đạp đất ở đời". Như vậy, người
nào tự chủ lấy người ấy, không ai thuộc về ai cả.
Bởi đó mới có sự tự do. Một người đã tới tuổi thành nhân rồi thì không còn ở dưới
quyền cha mẹ nữa. Mà cũng không ở dưới quyền chánh phủ hay là dưới quyền ông
nguyên thủ, song chỉ ở dưới quyền pháp luật. Một người được y theo trong vòng
pháp luật mà tự do. Pháp luật cho mọi người được tư tưởng tự do, ngôn luận tự
do, cư trú tự do,... những quyền tự do ấy, người khác - dầu là cha mẹ nữa -
không được can thiệp đến. Pháp luật đặt ra cốt là hạn chế sự tự do của từng người
để binh vực sự tự do cho từng người.
Lại bởi đó mới có sự bình đẳng. Mọi người đối với quốc gia xã hội đều có nghĩa
vụ và quyền lợi bằng nhau. Ai nấy đều phải nộp thuế, đều phải đi lính, thì ai
nấy đều được hưởng quyền tự do của pháp luật. Trước mặt pháp luật, ai cũng như
nấy, hễ có tội thì bị phạt, không cứ ông nguyên thủ hay là người bình dân. Pháp
luật đặt ra cũng cốt để duy trì sự bình đẳng giữa từng người.
Bởi mỗi người đều có địa vị tư cách vững vàng, tự chủ lấy mà không xâm phạm đến
ai như vậy, cho nên khi hiệp với nhau thành đoàn thể thì chỉnh tề và ổn kiện
lắm. Quốc gia, tức là của chung của quốc dân; hội xã tức là của chung của hội
viên; đối với quốc gia xã hội ai có bổn phận gì thì làm hết bổn phận ấy, có lợi
ích thì mọi người cùng hưởng. Mới nghe họ nói những là "quốc gia lợi ích, xã hội
lợi ích" thì tưởng là xung đột với chủ nghĩa cá nhân, mà xét kỹ ra thì những cái
lợi ích ấy cũng chỉ là lợi ích cho từng người vậy.
Các nước bên Tây đều dùng cái chánh thể lập hiến, cộng hòa được, là nhờ họ sẵn
có cái tư tưởng như đã nói trên đó. Cái tư tưởng ấy tức là cái tinh thần dân chủ.
Nói đến Đông phương. Theo cái ý nghĩa chữ "một người" ở phương Tây, thì ở phương
Đông, trừ ông vua ra, hầu như không có "người" nào hết. Bởi vì "xuất thổ chi tân,
mạc phi vương thần", ai cũng là thần thiếp của vua, ai cũng là dân của vua. Cứ
như sách dạy, nhân thần không được tư giao với ngoại quốc, ấy là không có tư
cách đối với thế giới; thứ nhân không được nghị luận việc chánh, ấy là không có
tư cách đối với quốc gia. Bởi vậy ai nấy phải nộp của cải cho vua, nộp cả đến
thân mình nữa; vua thương thì nhờ, bằng vua không thương mà giết đi cũng phải
chịu. Như vậy gọi là trọn cái bổn phận thờ bề trên; như vậy gọi là thiên kinh địa
nghĩa.
Không những thuộc về vua mà thôi, ai còn có cha mẹ đến chừng nào thì phải kể cái
thân mình là của cha mẹ đến chừng nấy. Lại không những cái thân mà thôi, mình
dầu có của cải, có vợ con, cũng phải kể là của cha mẹ. Theo kinh Lễ dạy: Con yêu
vợ mà cha mẹ ghét, thì con phải để vợ(*) đi; con ghét vợ mà cha mẹ yêu, thì con
phải hòa thuận với vợ. Lại dạy: có dư của thì nộp cho tông, thiếu thì lấy của
tông. Tông là người tông chủ trong gia đình, tức là cha mẹ. Còn chưa kể đến
những lời tục thường nói "Cha mẹ đặt đâu ngồi đó, bảo chết hay chết, bảo sống
hay sống" thì lại còn nghiêm khắc quá nữa.
Trọng nhứt là vua và cha mẹ, rồi thứ đến quan, làng, họ, cũng đều có quyền trên
một người. Quan, nào có phải một ông, có đến năm bảy lớp, cứ dùi đánh đục, đục đánh
săng, rút lại trăm sự chi cũng đổ trên đầu người dân cả. Người trong làng thì kể
như con của làng, cho nên nói rằng "con làng nhờ làng". Người trong họ đối với
họ cũng vậy.
ấy vậy, lấy ra một người ròng rặt Đông phương mà nói, thì người ấy không tự mình
làm chủ lấy mình được; song là thuộc về vua, về cha mẹ, về quan, về làng, về họ,
nếu là đàn bà thì còn thuộc về chồng nữa.
Bởi cớ ấy, trong xã hội ta như một cái thang có nhiều nấc. Nghĩa vụ và quyền lợi
của mọi người không đồng nhau: người trên đối với người dưới không có nghĩa vụ;
còn ai có nhiều quyền hơn thì được hưởng nhiều lợi hơn. Pháp luật đối với mọi người
thì tùy từng bậc mà khác: cùng phạm một tội mà dân bị phạt trọng, quan được phạt
khinh; cùng phạm một tội mà kẻ thứ ấu bị phạt trọng, kẻ tôn trưởng được phạt
khinh(*). Theo Tây phương, như thế là bất bình đẳng; song theo Đông phương thì
như thế là có trật tự.
Một đằng thì trọng tự chủ, một đằng thì trọng thống thuộc, hai đằng tư tưởng
khác nhau, cho nên trình bày ra hai cái xã hội khác nhau. Xã hội Tây phương thì
như bầy chim sẻ, con nào cũng một lứa như con nào, và con nào cũng tự kiếm ăn
cho con nấy, song cũng hiệp nhau thành bầy. Xã hội Đông phương thì như bầy kiến,
có con lớn con nhỏ, con lớn giữ phần cai quản, con nhỏ lo việc đi kiếm ăn, song
cũng hiệp nhau thành bầy.
3. - Tây phương quý tấn thủ, Đông phương
quý an phận - Bên phương Tây hay có những người đi bộ quanh trái đất một
vòng, đi tìm đất mới, đi thám hiểm đến Nam cực, Bắc cực, là vì họ có cái tư tưởng
trọng sự tấn thủ. Họ không chịu đầu hàng cảnh ngộ và sức tự nhiên, mà lại cố
chiến thắng cảnh ngộ và sức tự nhiên. Họ không tin có số mạng; dầu biết có số mạng
chăng nữa, họ cũng lo làm cho hết sức mình.
Vì có cái tinh thần tấn thủ, muốn chiến thắng sức tự nhiên mà lợi dụng nó, nên
mới sanh ra các thứ khoa học và làm được những công trình to tát, như là dùng điện
khí, hơi nước, bắc cầu trên sông lớn và đặt đường hỏa xa xuyên qua núi, v.v.
Người Đông phương chỉ muốn sống cách làm sao cho êm đềm lặng lẽ. Trời bắt thế
nào thì hay thế: "Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần
thanh cao". Sách Nho dạy phải "lạc thiên an mạng", sách Lão dạy phải "tri chỉ
tri túc" đều là ý ấy. Trải các đời, những ông vua nào hay đi chinh phục các nước
xa, thì bị chê là cùng binh độc võ; những người nào có chí lớn cử đồ việc lớn,
thì người ta cho là không biết an thường thủ phận. Ai nấy đều lấy sự ở nhà làm
sướng, đi ra làm khổ; đến ông Lão Tử thì lại còn muốn ai ở đâu ở đó, đến già đến
chết không qua lại nhau (lão tử bất tương vãng lai) nữa kia!
Đối với sức tự nhiên, người phương Đông không dùng chước chiến mà dùng chước hòa;
cũng lợi dụng nó mà lợi dụng một cách khác. Một hòn núi to và cao, người Tây có
thể vỡ thành đường quanh theo chơn nó mà đi, người Đông thì cứ để vậy mà trèo
ngang qua; một cái thác, người Tây có thể dùng sức chảy của nó dựng nên bộ máy
mạnh mấy ngàn ngựa, người Đông thì không, chỉ dùng làm chỗ ngắm cảnh và ngâm
thơ. Cho nên phương Đông khó lòng mà nảy ra khoa học được; mà như vậy thì cũng
không cần dùng khoa học làm gì nữa.
Xem ba điều trên đây thì thấy ra hai cái tư tưởng Đông và Tây nó phản đối nhau
như phương nam với phương bắc, như mặt trăng với mặt trời. Nay ta nếu muốn theo
cách sanh hoạt mới của Tây phương, mà ta lại còn giữ cả tư tưởng cũ của Đông phương
thì quyết không có thể được. âu là phải dứt bỏ tư tưởng cũ của ta mà theo tư tưởng
của Tây phương, thì mới hiệp với cách sanh hoạt mới của ta.
(Sẽ xem bài Bác cái thuyết tân cựu
điều hòa tiếp theo bài nầy)
C.D.
Đông Pháp thời báo, Sài Gòn,
s.774 (27.9.1928); s.776 (2.10.1928)
(1) Physiologie
(*). Ngày nay gọi là các cơ quan.
(2). Anatomie
(3). Pathologie
(*) bác: rộng; ước: tóm tắt gọn lại
(1) Abstrait
(2) Concret
(*) để vợ: bỏ vợ, ly dị vợ (theo Huình Tịnh Paulus Của: Sđd.).
(*) trọng: nặng; khinh: nhẹ |