LỐI VĂN HỌC CỦA BÌNH DÂN [*]

Trước đây hễ nói đến văn học thì chỉ biết là văn học, chớ có hề nói đến văn học của bình dân bao giờ, bởi vì đã là bình dân thì hầu như mất hết cả mọi sự, một chút quyền lợi gì trong tay cũng không có, nữa là văn học.

Song xét cho kỹ ra thì ở nước nào cũng vậy, cái nền văn học cũng đều bắt đầu vun đắp lên từ hạng bình dân. Thật vậy, văn học của một nước đầu hết là do lời ca dao của dân gian mà ra, cho nên bình dân là hạng có công lớn đối với văn học. Coi như văn học nước Tàu phát nguyên ra bởi những bài ca dao như bài Kích nhưỡng ca của một người dân già đời vua Nghiêu, cùng những bài thơ của kẻ hành dịch, của người đàn bà bị chồng để mà ta thấy nhặt vào trong "quốc phong" của kinh Thi còn truyền lại đến bây giờ. Văn học quốc ngữ ta cũng vậy, những câu phương ngôn tục ngữ, những câu hát vặt, những cái vè lưu truyền ở cửa miệng người ta, tức là những hòn đá tảng của nền văn học ta đó.

Hồi đầu hết, loài người như cá mè một lứa, chưa có chia ra từng giai cấp, cho nên văn học cũng như các thứ khác, là của chung của một xã hội, mà xã hội lúc ấy tức là bình dân hết thảy. Đến sau trong đám có kẻ khôn ngoan hơn, mạnh mẽ hơn, thừa thế mà nhảy lên làm lớn. Mọi quyền lợi khác thì họ đã choán lấy vào tay mình và chia một ít cho những kẻ bợ đỡ mình lên làm lớn rồi, chẳng nói làm chi; họ còn choán luôn cả nền văn học làm của riêng mình nữa. Bấy giờ trong xã hội đã sanh ra giai cấp, mà những kẻ mới vừa nói trên đó thuộc về giai cấp quý tộc.

Từ khi văn học đã thuộc riêng về hạng quý tộc rồi, thì họ coi cũng như đất ruộng, tiền bạc, ngôi thứ, danh tiếng và mọi sự hạnh phước khác, là vật để cung cấp riêng cho một mình họ. Họ lấy mà xài riêng trong đám họ với nhau. Người trên thì dùng văn học để khoe khoang cái oai thế quyền lực của mình; người dưới thì dùng văn học để ca tụng người trên, tức như những bài biểu bài sớ của các quan dâng cho vua mà còn chép lại trong các sách đó. Thứ văn học ấy gọi là văn học của quý tộc.

Nước nào cũng vậy, sau khi đã gây nên cái tình trạng ấy rồi, sự học trở nên một cái quyền lợi của quý tộc mà bình dân phải chịu dốt nát. Trong đám bình dân hoặc có nẩy ra đồ tác phẩm gì thì bị kêu là nôm na, thô tục, và chẳng kể vào đâu. Bình dân bị ruồng đuổi ra ngoài vòng văn học từ đó.

Văn học là của chung, thế mà bên quý tộc đoạt làm của riêng mình đã lâu đời rồi. Ngày nay, trong thế giới, bọn bình dân mới nổi lên mà đoạt trở lại.

Từ ngày dân quyền đã thạnh lên trong các nước thì đám bình dân đã khôi phục lại cái quyền của họ và cũng toan khôi phục luôn nền văn học đã bị choán nữa. Thật thế, các bậc văn hào thế giới gần nay như ông Tolstoi nước Nga, ông A.France nước Pháp, bao nhiêu những đồ trứ thuật của các ông đều khuynh hướng về phương diện xã hội, về phương diện bình dân cả.

Bởi vậy ngày nay là ngày hai thứ văn học, bình dân và quý tộc, đương tranh với nhau. Mà hai thứ đó khác nhau lắm, ta có thể chia đại khái như vầy: văn học của bình dân là rẻ ràng mà của quý tộc là mắc mỏ; văn học của bình dân là thật thà mà của quý tộc là giả dối.

Nói về nước ta, như Truyện Kiều là mắc mỏ, đại biểu cho văn học quý tộc; truyện Lục Vân Tiên là rẽ ràng, đại biểu cho văn học bình dân. Ông Nguyễn Văn Thành đối với bọn lính tử trận chưa hẳn có lòng thương xót thật, bài văn Tế trận vong tướng sĩ của ông chẳng qua để mua chuộc tấm lòng trung thành của người còn sống đó thôi, không bù với cái vè "cô Hiên trò Siêu", kể tình sanh tử biệt ly, mỗi một lời là mỗi một giọt máu (1).

Chẳng những vậy thôi, cũng đồng một việc mà bên quý tộc nói ra một thế, bên bình dân nói ra một thế. Như trong trận đại chiến năm 1914-1918, ở xứ ta có nhiều người đi mộ sang đánh giặc bên Tây. Trong độ ấy có nhiều bài diễn thuyết đều nói rằng dân An Nam lấy lòng trung thành mà đi tùng chinh để trả ơn nước Pháp[……][*] Chính hồi đó, ở Trung kỳ có nhiều cái vè nói về lính mộ đồn ra khắp dân gian, tôi lược lục hai cái ra đây:

     Bài thứ nhứt:

Tai nghe nhà nước mộ dân, những lo những sợ chín mười phần em ôi.

Anh đi ra mặt biển chơn trời, ơn cha nghĩa mẹ hai nơi chưa đền.

Dầu mà ông Tây bắt làm phên, nhứt thắng nhì bại, không quên cái nghĩa sanh thành.

Xót em vò võ một mình, anh đi ra biển thẳm non xanh tư bề.

Vai mang khẩu súng, lưng giắt lưỡi lê, thôi thiếp bồng con dại lui về mần ăn.

Ví dầu anh có mần răng, nơi mô xứng gió vừa trăng em đành.

Phận chàng vạn tử nhứt sanh, trên thời mây đen kịt, dưới nước xanh dờn dờn.

Tư bề sóng bổ như sơn, đau lòng xót dạ nhiều cơn lắm bớ nàng!

Trăm lạy ông trời đặng chữ bình an, đóng lon chức Đội về làng hiển vinh.

Làm thịt con heo quý tế tại đình, rượu chè chàng đãi dân tình một diên.

Tay bắt tay miệng lại hỏi liền: Anh đi ra mấy tháng em có phiền hay không?

Bảy giờ mai bước xuống tàu đồng, tối tăm mù mịt như rồng với mây…

Hai bên những lính cùng Tây, quân gia kéo tới chở đầy tàu binh…"

Bài thứ hai:

…………………………………………………………….

Xuống tòa ông sứ lựa được rồi, "mê-rô" ông sứ phát ra ngồi thở than.

Vợ con châu lụy hai hàng. Khuyên em ở lại cho chàng dời chơn.

Anh đi ra mỗi bước mỗi ngừng, châu sa lụy nhỏ, chín mười từng ruột đau.

Thương nhau phải cứ lời nhau, tri tri vàng đá trước sau một lời.

Anh đi ra mặt biển chơn trời, khuyên em ở lợi một lời bình       an, bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua.              

Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra, em đem về mua trâu, thuê đất, làm nhà nuôi con.

Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn. Phận anh đây như khúc gỗ trôi giữa biển, mất còn quản chi.

Biểu em đừng nước mắt lâm ly, làm lơ giả dại như khi chưa chồng."

Coi hai bài đó thì đủ thấy lúc bấy giờ dân sự chỉ vì được tiền thuê mà cất thân ra đi đánh giặc, chớ chẳng có trung thành nghĩa khí chi hết. Họ đi ra mà họ khóc rưng rc với vợ, họ sợ chết hết hồn, đến nỗi ngờ bậy rằng "ông Tây bắt làm phên", thì còn có chút lòng gì vì việc nhà nước đâu? Lại mong đến những sự "đóng lon Đội, về làm thịt heo, cúng tế, đãi làng", thì thật tả ra cái bụng mộ phẩm hàm, cầu hư vinh của dân ta, nghe nó thật thà mà buồn cười lắm vậy.

Vậy nếu chúng ta không xét đến văn học của bình dân đã phát biểu ra trong hồi người An Nam đi mộ sang đánh Đức, là như hai cái vè trên đây, mà cứ tin ở những lời phô trương do miệng mấy nhà quý tộc, thì cái điều tri thức của ta về việc ấy nó xa với sự thiệt là dường nào!

Cho nên, đồ tác phẩm của văn học bình dân, lại tức là cái gương để soi mặt xã hội. Muốn tìm sử liệu của một thời đợi nào, hay là muốn biết rõ nhân tâm phong tục của một nước nào, thì do theo cái gì cũng không đúng bằng do theo văn học của bình dân vậy.

Văn học của bình dân cũng tuỳ theo tri thức của họ mà tấn hóa luôn. Cũng đồng một việc mà cái trình độ của sự cảm giác và sự suy nghĩ của họ mỗi lúc một khác, nên phát ra lời văn cũng mỗi lúc một khác. Trong đó chúng ta thấy rõ ràng có sự tấn hóa.

Ngay như xứ Trung kỳ, xứ hay bị nạn đói kém, mà sự cảm giác và sự suy nghĩ của dân Trung kỳ đối với lần đói kém sau đây có vẻ sâu xa hơn mấy lần trước; là vì ai cũng thấy rằng tri thức của họ trong khoảng ba mươi năm nay có mở mang tấn tới hơn ngày xưa. Ta hãy đem hai cái vè nói về năm đói dưới đây mà so sánh nhau thì thấy.

Trưc kia có một lần mất mùa luôn ba năm, trong dân có truyền tụng một cái vè như vầy:

Từ ngày con bướm trắng bay vô, ba năm trời hạn, cây khô lá vàng.

Nấu cơm hấp những cọng lang, chuối luộc đầy sàng, ăn chẳng biết no.

Nào ai có ruộng có bò, mua mắc bán rẻ, bán cho nhà giàu.

Ba quan một cái mâm thau, nồi đồng quan tám, nhà giàu không mua.

Mỗi năm lo nộp thuế vua, lương chẩn lương thại tới mùa chải ra.

Con nít chí liễn ông già, ba ngày gạt gạo đi ra nằm đàng,

Mười đồng một củ khoai lang, trời làm đói khát thiếp với chàng xa nhau.

Bất nhân là quân nhà giàu: tôi đi ngõ trước ngõ sau nó rào.

Chị em gặp chẳng dám chào, giả lơ tai điếc: mụ nào kêu chi?

Tôi đây cũng đói mần ri, chị tôi chết trước, tôi thì chết sau.

Nhà giàu kêu đói như đau; t nhiên lúa cũ năm sau hỡi còn!

Muốn đi cưới vợ cho con, sợ chúng ăn hết, hoảng hồn thất kinh.

Ba năm tự miếu chí đình, không cúng không quảy, thần linh cũng hằn.

Thợ rèn thợ mộc đói nhăn, còn thầy phù thủy mất ăn xôi gà.

Cho đến mụ bóng, mụ bà, thầy địa, thầy thuốc nằm nhà chẳng có mà nhai.

Bĩ cực rồi lại thái lai, mùa lúa cũng được, mùa khoai cũng dào.

Ăn mừng hát bội xôn xao; đi ra gặp mặt chị nào cũng vui!...

 

Trong bài đó tả ra biết bao cái khổ trạng của nhơn dân. Cái thói nhà giàu hễ gặp năm đói thì thừa dịp mà làm giàu thêm và sợ người ta xớ bớt của, đây cũng vẽ ra như hệt. Song coi câu cuối thì thấy dân bấy giờ còn chưa biết lo xa, cho nên hễ gặp đói kém thì khoanh tay ngồi chịu, mà no một cái là hát hội liền!

Nhưng đến hồi cuối trào Khải Định đây, năm tý và năm sửu, hai năm đói luôn, ở Trung kỳ lại có nẩy ra một cái vè nữa. Vè nầy gọi là Vè giáp tý, như vầy:

Lẳng lặng mà nghe cái vè giáp tý:

Cũng vi thiên ý, răn dạy người ta; biểu đừng kiêu xa, vậy mà chịu chết.

Kể ra cho hết, khắp cả toàn cầu, châu Á châu Âu cũng đều chịu khổ.

Đông Dương một chỗ, nay đặng bình yên. Cờ bạc huyên thiên, ăn chơi đủ việc:

Chỗ thời hát xiếc, chỗ hát cải lương, kẻ coi hát trường, người coi làm thuật; núp nơi vắng khuất, xi lác, móc gà, thín cẩu, công  thoa, bài cào, tứ sắc.

Khắp cùng Nam Bắc, đầu đĩ ca đờn, sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học.

Mấy thằng cúp tóc, mặc áo cẩm châu, mấy thằng kéo xe trừu

cầu ràng đít; mấy thằng con nít bận áo thật sang, mấy chú đi đàng, ngồi xe làm phách!

Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái binh.

Bão lụt thình lình, Phú Yên, Bình Định, khắp cùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng. Người ta chết hung. Sông Cầu thứ nhứt. Cù Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành. Nước lớn thình lình, ba ngày  không dựt.

Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao, lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói.

Trời làm tai quái, năm Sửu không mưa; hạn đã chẳng vừa, thêm sâu sa xuống, ăn cùng lúa ruộng, ăn hết bắp bông. Thập thất cửu không, trời làm quá thắt!

Trời làm quá ngặt, đói hãy còn lâu. Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo, cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn, bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ.

Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn, mấy con ca đờn, đói đi không nổi, mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường, mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất.

Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà, chạy gạo không ra, phải  ăn hột cỏ!

Chơi, trời ghét bỏ, để đói nhăn răng! Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp! Không thời mạt kiếp, khó nỗi sanh tồn! Khó mới

 biết khôn, đừng dồn lấy dại!"

 

Coi đó thì thấy trong đám bình dân ta ngày nay đã biết có châu Á, châu Âu; đã biết rằng trong khi họ lầm than khốn khổ, mà mình đây ăn chơi vui sướng, nói theo nghĩa nhân đạo, thì là điều không đáng; đã biết rằng dân nào không hay lo xa thì bị Trời hành phạt; đã biết rằng từ nầy về sau phải lo làm ăn, học nghề nghiệp để mà sanh tồn; so với bài trước, sự cảm giác và suy nghĩ đã thấy tiến lên một bậc cao.

Ngay nay là ngày đám bình dân và quý tộc tranh đấu nhau. Tranh đấu nhau không bằng gươm đao mà bằng tri thức. Tri thức của bình dân đã mở mang tấn tới như vậy, ấy là đã tỏ ra cái mòi thắng lợi rồi đó.

Văn học của bình dân quan hệ với xã hội như vậy, cho nên, dám khuyên văn nhân học sĩ trong nước bắt đầu từ đây, nên chú trọng về lối văn học ấy. Hãy nghiên cứu nó, hãy luyện tập nó cho càng trở nên hoàn toàn để lập thành cái nền văn học chung cho cả nước. Hãy tìm tòi mà tả cho đúng cái cảnh sanh hoạt của những người làm ăn trong ruộng rẫy, hơn là tả cái cảnh phong lưu hàu nháng của các cậu con quan; thay vì tra khảo cái phổ hệ của một nhà quý phái, ta hãy thăm tìm cho rõ hết đầu đuôi về chuyện tổ tiên ta thuở trước, đầu đội vai mang, ở Trung Bắc mà dời lần vào Nam kỳ. Vả lại về lối viết văn, cũng nên bỏ cái phù hoa mắc mỏ mà làm cho rẽ ràng thật thà là hơn.

PHAN KHÔI

Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 181 (15. 12. 1932)


 

[*] Bài này đã đăng Thần chung số tết Kỷ Tỵ 1929 với nhan đề Văn học với bình dân, tác giả ký bút danh Khải Minh Tử. Bản đăng ở P.N.T.V. năm 1932 này có một số ý và câu được thêm bớt hoặc nhuận sắc lại (xem bài trên trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn. Đà Nẵng: Nxb: Đà Nẵng, 2005, tr.31-39).

(1) Xưa kia ở miệt Truồi, gần Huế, có người con gái là cô Hiên, phải lòng trò Siêu, mà vì trò nầy nghèo, có tới hỏi cô, cha mẹ không chịu gả, gả cho trò Hoán nhà giàu hơn. Trò Siêu thất luyến bèn tự tử. Vả hai người đã có thề thốt nặng lời rồi, nên cô Hiên cũng tự tử theo. Nhơn đó có cái vè "cô Hiên trò Siêu" của ai đặt không biết, còn truyền lại, có những câu nầy:

"Sống dương gian chẳng đặng giao bôi, chết xuống âm phủ làm đôi vợ chồng!

Sống dương gian chẳng đặng giao hòa, chết xuống âm phủ làm nhà ở chung!

Làm một bức thơ tỏ nỗi ngọn ngành, làm sao em cũng thác với anh phen nầy!"

Đó là những lời cô Hiên thở than trước khi t vẫn. – Người ta nói hiện nay ở miệt Truồi còn có cái miếu thờ cô Hiên và trò Siêu. (nguyên chú của PK).

[*]  Ở bản gốc chỗ này để chấm lửng 3 dòng; so với bản đăng báo Thần chung năm 1929 thì chỗ này bỏ mất câu: “Song thật ra thì không phải vậy đâu, ta hãy lấy chứng cớ ở miệng của bọn bình dân là bọn đi mộ đó”.

                                                           

 

 

 

© Copyright Lại Nguyên Ân