TIỂU DẪN

VỀ

SƯU TẬP CÁC TÁC PHẨM CỦA PHAN KHÔI
ĐĂNG BÁO TRONG CÁC NĂM 1933-1934

 

            Hoạt động báo chí trong hai năm 1933-34 của Phan Khôi bao gồm mấy tháng (đầu 1933) cuối cùng của đoạn thời gian ông sống và làm báo hiệu quả nhất tại Sài Gòn (1927-33), cộng với hơn một năm ông chuyển ra Hà Nội làm báo, trước khi trở vào Huế hành nghề.  Thời gian này, hoạt động làm báo của ông chủ yếu gắn với các tờ Trung lập, Phụ nữ tân vănCông luận (Sài Gòn), Thực nghiệp dân báo  và Phụ nữ thời đàm (Hà Nội).

 

1/ Nhật báo Trung lập (1924-1933) chỉ còn tồn tại và hoạt động đến 30/5/1933.

Như tôi đã nêu trong tiểu dẫn Tác phẩm đăng báo 1932 của Phan Khôi, từ giữa năm 1932, về mặt quan điểm xã hội chính trị, báo Trung lập đã chuyển sang phía tả, với sự tham gia công việc tòa soạn của nhóm Nguyễn Văn Tạo-Trần Văn Thạch. Sang năm 1933, xu hướng này được tăng cường, nhất là trong dịp vận động bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn, lại có thêm Nguyễn An Ninh tham gia tòa soạn Trung lập, vận động cho liên danh của phái tả, được gọi là “sổ lao động” hoặc “sổ Tạo – Nở”. Liên danh này đã dành thắng lợi trước khi tờ Trung lập bị thu hồi giấy phép, phải chấm dứt hoạt động. Đương nhiên Nguyễn An Ninh tham gia Trung lập với một cao vọng lớn hơn tầm mức một cuộc vận động tranh cử. Ngay từ đầu ông đã tuyên bố lý do ông “nhận lãnh một phần trách nhiệm trong báo Trung lập” là “hy vọng cho dân Việt Nam biết sợ mùi thây ma. Hy vọng dân Việt Nam tập thêm được tánh nghi ngờ […] cái văn hóa cũ, từ những hủ tục cho tới ‘những tư tưởng cao thâm’ xưa nay” (1) Ngòi bút Nguyễn An Ninh tất nhiên in dấu khá đậm lên tờ báo. Tuy vậy, có thể nói, Phan Khôi vẫn thể hiện được tư tưởng và văn phong của mình, dù trong năm cuối cùng này của Trung lập, hầu như  ông chỉ còn viết cho Trung lập ở mục Những điều nghe thấy. Và cũng chỉ khi Phan Khôi rời Sài Gòn ra Bắc, mục Những điều nghe thấy mới dần dần bộc lộ dấu bút Nguyễn An Ninh. Có thể dự đoán rằng đã có một thỏa thuận riêng nào đấy giữa hai nhà báo để Nguyễn An Ninh viết tiếp cho mục này dưới bút danh Thông Reo, − điều mà Phan Khôi chưa từng cho phép đối với bất cứ cây bút nào khác (sẽ nói kỹ hơn về việc  này ở lời dẫn đầu mục Những điều nghe thấy 1933 trong sách này) .

 

2/ Thực nghiệp dân báo (1920-1935) là tờ nhật báo xuất hiện sớm vào loại thứ hai ở Hà Nội, chỉ sau tờ Trung Bắc tân văn (1913-1941). Nếu như các tờ Đông Dương tạp chí (1913-19), Nam phong (1917-34) và Trung Bắc tân văn đều được chính quyền thực dân bảo trợ và được tổ chức phát hành đến xã, tức ít nhiều mang tính chất của loại báo chí nhà nước, thì Thực nghiệp dân báo phải tự trang trải toàn bộ chi phí và tự tổ chức bán báo, tức hoàn toàn là báo tư nhân.

 

Ba người đứng tên xin giấy phép ra báo là Nguyễn Hữu Thu (chủ xưởng đóng tàu và thầu khoán ở Hải Phòng), Bùi Đình Tá (chủ nhiệm Đồng Ích hội), Bùi Huy Tín (thầu khoán ở Hà Nội); giám đốc chính trị của Thực nghiệp dân báo là Mai Du Lân, một nghiệp chủ kinh doanh nhiều mặt hàng, trong đó có các loại máy in báo.(2)  Có thể coi tờ báo này như một trong những cơ quan ngôn luận của các nhà doanh nghiệp ở miền Bắc, tôn chỉ khá gần gũi với tờ bán nguyệt san Hữu thanh (1921-24) của Bắc Kỳ Công thương Đồng ái hữu. Thực nghiệp dân báo là nơi sinh trưởng của nhiều cây bút như Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Trúc Sơn Mai Đăng Đệ, Đàm Xuyên Nguyễn Phan Lãng, Dật Lang Nguyễn Triệu Luật, Điền Hải Tử Đào Trinh Nhất, Đặng Trần Phất, Trịnh Đình Rư, Bùi Trình Khiêm, Nguyễn Khắc Hanh, v.v…

 Phan Khôi cộng tác với Thực nghiệp dân báo từ 1921, khi đó chủ yếu ông chỉ đưa đăng một số bài thơ, cũng có khi gửi lai cảo mấy dòng tin dân sự, ví dụ tin một ả đánh ghen ồn ào ở phố Hàng Thiếc (đăng TNDB. 8/3/1921). Ít ai biết, những năm đó, Khánh Giư (người sau này sẽ nổi tiếng với bút danh Khái Hưng) cũng lặng lẽ tập viết những bài văn ngắn tương tự, là tin tức dân sự, là quan sát đời sống xung quanh, gửi đăng tờ Thực nghiệp này (Chẳng hạn, tôi đã tình cờ thấy những bài Về thói người Việt bắt chước người Hoa đem theo những đồ tế lễ trong đám ma /TNDB, 29/11/1921; Mang tiếng với bạn hàng/ TNDB, 7/12/1921; Vấn đề cứu hỏa ở chốn hương thôn/ TNDB, 11/12/1922; − đều là bài lai cảo của Khánh Giư).

 

     Những năm sau, Phan Khôi làm nên tên tuổi mình từ báo chí trong Nam, song một số tờ báo ở Hà Nội như Đông tây, Thực nghiệp… vẫn xem ông là một đồng nghiệp quen thuộc. Không ít bài báo của ông, tin tức về hoạt động báo chí của ông, nhất là trong những cuộc thảo luận, tranh luận ở báo chí Sài Gòn, thường được hai tờ này và một số tờ báo khác ở Hà Nội đăng lại.

 

Năm 1933 này, khi Phan Khôi từ Sài Gòn về quê ở Quảng Nam rồi ra Hà Nội, thì Đông tây đã bị đóng cửa, chủ nhiệm Hoàng Tích Chu của Đông tây và của Thời báo vừa mới qua đời. Thực nghiệp dân báo là tờ báo đầu tiên Phan Khôi tới thăm ngay khi vừa trở lại Hà Nội.

 

“Hồi 10 giờ sáng hôm qua ông Phan Khôi có tới thăm Dân Báo. Chắc ai cũng biết, một bực danh sĩ trong học giới Việt Nam, ông Phan đã từng giúp việc biên tập cho nhiều tờ báo Nam Kỳ như Thần chung, Phụ nữ tân văn Trung lập báo. Sau khi tạm biệt báo giới Sài Gòn, ông Phan về nghỉ tại Quảng Nam và hôm mới đây đã ra ngoài Bắc. Cho được cạn mọi nỗi hàn huyên, hồi 6 giờ tối hôm qua, ông Phan lại cùng Dân Báo đồng nhân họp mặt. Câu chuyện nồng nàn đã thắt thêm sợi giây liên lạc trong cái gia đình lớn là làng viết văn Nam Bắc. Hiện nay ông vẫn ở nhà ông Lê Dư, số 121 Hàng Bông. Sáu năm xa cách, ngày nay lại tới Hà Thành, cảnh cũ người xưa, tình tứ không thể một ngày mà dứt. Vì vậy ông Phan còn ở ngoài này ít lâu.”

(Ông Phan Khôi với Dân Báo // Thực nghiệp dân báo, 20/4/1933)

  

             Đến năm 1933 này, Thực nghiệp đã bước sang năm thứ 14; ở tên đề (manchette) sau 2 từ Thực nghiệp in bằng chữ rất nhỏ, thường chỉ còn 2 từ Dân báo được in chữ cỡ lớn; trong giao tiếp thì các cây bút của tòa soạn cũng thường gọi báo mình là Dân báo. Cuối tháng 3/1933 dường như trong tòa soạn có sự thay đổi mà biểu lộ ra ngoài là việc báo đánh lại từ số 1 vào ngày 22&23 Mars 1933, cùng với lời kính cáo cùng bạn đọc rằng “Báo tuy già nhưng kẻ biên tập là một bọn thanh niên có nghị lực”. Không thật rõ những người biên tập trong tòa soạn lúc này gồm những ai. Chỉ thấy rõ một số tên tuổi mới góp mặt trên báo những năm này: Ngô Tất Tố với nhiều loại bài, từ những bài chính luận ký họ tên thật hoặc ký tắt N.T.T., đến mục hài đàm Nói giữa trời ký Phó Chi; Dật Lang (Nguyễn Triệu Luật) với mục truyện dịch đăng đều kỳ (feuilleton), Nguyễn Công Hoan với các truyện ngắn về sự suy đồi phong hóa đăng trong mục Cảnh đời, Tiêu Viên (Nguyễn Đức Bính) với các bài về chính trị xã hội hoặc văn chương; Nhượng Tống với các bài về quốc văn, về dịch thuật; Nhất Lang (Nguyễn Tuân) bắt đầu góp một vài bài phỏng vấn; Hoài Thanh từ xa cũng góp một vài bài ngắn.

     Phan Khôi trong năm 1933 này xuất hiện bằng họ tên thật trên Thực nghiệp chỉ 2 lần, đó là khi ông thanh minh về một bài cũ của ông mà tờ Văn học tạp chí đăng lại, không hỏi ý kiến tác giả; trường hợp thứ hai là ông ký họ tên thật dưới bài phê bình bản dịch Trung dung của Hà Tư Vị và Nguyễn Văn Đang. Còn lại, ông xuất hiện dưới bút danh Bướng Nhân trong một mục riêng, là Bướng Nhân nhật ký, bài đầu đăng 25/5/1933; tính đến 4/7/1933, mục này đã có 17 kỳ đến với người đọc. Rất có thể, sự tọc mạch của ông chủ Ngọ báo và sự đáp trả của Ngô Tất Tố về chuyện này (Phó Chi: Chuyện giữa trời: Ai xui thế, ông Bùi Xuân Học // TNDB. 23/8/1933), đã khiến Phan Khôi bỏ tên mục cũ, tạo tên mục mới “Chuyện Dóc Tổ” với bút danh Dóc Công, song mục này cũng chỉ ra mắt được vài kỳ (25/8/1933 và  26/8/1933). Sau đó, Phan Khôi chuyển sang làm cho tờ Phụ nữ thời đàm, thôi hẳn việc cộng tác với Thực nghiệp dân báo.

 

Thời điểm đó cũng đã cận kề “hơi thở cuối” của Thực nghiệp dân báo, với tư cách báo hàng ngày, tính đến ngày 24/9/1933 (số 150). Từ số 151, báo cho biết sẽ “tạm xuất bản mỗi tháng 1 kỳ” với 12 trang khổ nhỏ (A4), song đây thực tế chỉ là dạng thức “cái chết chậm” của tờ báo này, bởi từ đó nó chỉ ra thêm được 6 số − thực chất là 4 kỳ báo − tuy kéo dài trên dưới 1 năm: số 1 (Janvier & Fevrier 1934), số 2&3&4 (Mars & Avril 1934), số 5 (Mai & Décembre 1934), số 6 (Janvier & Juin 1935). 

 

3/ Phụ nữ thời đàm (1930-34; 1938) là tờ báo tư nhân của ông bà Nguyễn Văn Đa, ở 11-13 phố Sông Tô Lịch (Hàng Lược), Hà Nội, ban đầu hoạt động như một tờ nhật báo. Số 1 ra ngày 8/12/1930. Tờ báo này xuất hiện gần như đúng dịp tờ Phụ nữ tân văn trong Nam phải đóng cửa vì bị rút giấy phép, và xu hướng ban đầu của tờ báo phụ nữ ngoài Bắc này cũng đi ngược cái xu hướng mà tờ Phụ nữ tân văn trong Nam cổ động, ít ra là trên vấn đề phụ nữ. Phan Khôi dưới bút danh Thông Reo ở báo Trung lập, Sài Gòn đã từng lưu ý độc giả cái thái độ của một bài xã thuyết trên Phụ nữ thời đàm hồi ấy “công nhiên nhận cho cái chế độ trọng nam khinh nữ là phải, nhận cho các bậc gia trưởng đời xưa không cho con gái học là phải”, và ông tỏ ý mỉa mai: “Phụ nữ ngoài ấy đã có người như cô Giang cô Bắc muốn vượt qua các phạm vi trách cá nồi cơm, thì phải có người như là cụ cử Ngô Thúc Địch ra tay mà kéo họ lại ít nhiều”.(3) Cử nhân nho học Ngô Thúc Địch chính là chủ bút thời đầu của Phụ nữ thời đàm.

     

            Đến năm 1933 này, Phụ nữ thời đàm cũng đang lâm cảnh ngắc ngoải. Chủ nhân Nguyễn Văn Đa đã mời Phan Khôi và Tế Xuyên về chủ trì tòa soạn; tờ báo ra “tập mới”, chuyển từ thể tài nhật báo sang thể tài tuần báo. Báo đổi từ khổ lớn về khổ nhỏ (khổ A4) và được trình bày gần giống hình thức tờ Phụ nữ tân văn trong Nam, nơi Phan Khôi từng cộng tác trong suốt nhiều năm.

 

Từ Sài Gòn, Phụ nữ tân văn hoan hỉ loan tin:

“Phụ nữ thời đàm số 1 (tục bản) đã ra hôm ngày chúa nhựt 17 Septembre. Lần nầy có ông Phan Khôi làm chủ bút, bạn đồng nghiệp Bắc Hà đóng theo thể tạp chí, 28 trương, có nhiều bài hay, hình đẹp, chữ in tốt, giá mỗi số 0$10. Tòa báo ở số 72 phố Hàng Bồ, Hà Nội”  (Phụ nữ tân văn, S.G., 28/9/1933, tr. 10)

 

Dưới dạng thức tuần báo, với vai trò chủ trì việc biên tập của Phan Khôi, Phụ nữ thời đàm lập tức có diện mạo khác và mau chóng gây được phản xạ mạnh trong dư luận. Nhưng dạng thức tuần báo cũng chỉ giúp Phụ nữ thời đàm tồn tại thêm 26 tuần lễ (từ 17/9/1933 đến 5/6/1934).

           

Sau này, đến năm 1938, Phụ nữ thời đàm được tục bản, tòa soạn ở 59 phố Hà Trung, với chủ bút là Thái Văn Tam, hầu như trở thành công cụ của một nhóm theo Đệ Tam Quốc tế chống lại các nhóm Đệ Tứ Quốc tế; tờ này chỉ tồn tại được trong gần 4 tháng (25/8/1938 – 12/1938).

             Với tờ Phụ nữ thời đàm ở dạng tuần báo, Phan Khôi góp mặt trong 22 tuần đầu với lượng bài vở dày đặc, mỗi số ông góp tới 3-4 bài: bài xã thuyết ký Phan Khôi hoặc ký tên tòa soạn; thơ (thơ trữ tình hoặc thơ vui, được gọi là “vận hài”) ký Tú Xơn; các mục dật sự, tạp trở (ví dụ Chuyện cũ nước nhà, Dưới mắt chúng tôi) ký C.D. hoặc D. hoặc P. hoặc K.; đặc biệt là mục “Tiểu phê bình” được ông đưa ra như một nét mới trong thể tài viết báo của mình, dưới bút danh Hồng Ngâm.

           

Khoảng 10 năm sau, nhà báo Phạm Mạnh Phan của tạp chí Tri tân nhớ lại: “Ở Hà Nội năm 1933 tờ Phụ nữ thời đàm đổi khuôn khổ, chuyên về bạn gái, nhưng tòa soạn lại ở trong tay Phan Khôi và Tế Xuyên. Mục “Tiểu phê bình” vẫn do họ Phan viết ẩn nấp dưới cái biệt hiệu ỡm ờ: Hồng Ngâm. Cô Thu Cúc chỉ chuyên nói chuyện bếp nước với thêu thùa mà hằng tuần thủ thỉ bên song cùng bạn gái”. (4)

   

 Một số nhà nghiên cứu văn học sử thường nhắc đến tờ Phụ nữ thời đàm thời kỳ này với việc nó đã từng là một trong những diễn đàn triển khai cuộc thảo luận về “duy tâm hay duy vật”; song ở khía cạnh này lại nên nhớ một điều: chính Phan Khôi, người khi đó đang chủ trì tòa soạn Phụ nữ thời đàm, đã cho đăng trên tờ này bài của Hải Triều phê phán tư tưởng của chính ông, – Phan Khôi. Hành động này có lẽ xuất phát từ một quan niệm lành mạnh về bút chiến mà Phan Khôi đã từng nêu rõ từ năm 1929 trên báo Thần chung.(5) Nhưng việc cho đăng bài có kiến giải trái hẳn với mình ấy, đối với Phan Khôi, lại không hề có nghĩa là từ bỏ niềm tin của mình để suy tôn kiến giải khác lạ kia. Đấy là một phẩm cách trí thức ở Phan Khôi mà không phải tác gia nào cũng dễ có được.

Tuy nhiên để nói chung về hoạt động của tờ tuần báo Phụ nữ thời đàm này, − mà Phan Khôi là cây bút chính định hình diện mạo mới của nó, − thì điều cần ghi nhận là, với sự tham gia của ông, tờ báo này đã từ bỏ thái độ bảo thủ nệ cổ để tiếp cận cách nêu vấn đề phụ nữ trước dư luận theo tinh thần cập nhật các phương diện của đời sống thời hiện đại; từ đây cũng có thể nói, với Phụ nữ thời đàm, Phan Khôi đã đưa “vấn đề phụ nữ” – mà ông đã nêu lên một cách rất có ấn tượng từ báo chí miền Nam – ra miền Bắc, nơi vẫn được xem là dinh lũy của những quan niệm và lối sống thủ cựu, nơi mà phần đông dân cư vẫn đang sống trong niềm tin vào các giá trị và chuẩn mực của xã hội gia trưởng nam quyền. Tiếc rằng thời gian hoạt động của ông với tờ báo này lại quá ngắn ngủi.

 

4/ Phụ nữ tân văn (1929-34) hoạt động đều đặn trong 2 năm 1933 và 1934. Tính đến 2/5/1933, tờ báo này bước sang năm thứ năm, lại vừa thắng  kiện các đồng nghiệp (Trung lập, Sài thành), tức là được minh oan trước dư luận xung quanh sự kiện Hội chợ Phụ nữ 1932. Trong số những cây bút từng gắn bó lâu dài với báo này, Bùi Thế Mỹ, Thiếu Sơn vẫn góp mặt đều đều, Đào Trinh Nhất, sau khi thoát khỏi nghi án tống tiền, dường như không quay về Đuốc nhà Nam, nên có điều kiện xuất hiện nhiều hơn trên các trang Phụ nữ tân văn, dưới nhiều bút danh (Quán Chi, Phạm Vân Anh, V. A., v.v…). Bên cạnh đó là một lớp tác giả mới, trước hết là Cao Văn Chánh (em trai bà chủ nhân P.N.T.V.) vừa du học Pháp trở về, tham gia biên tập P.N.T.V. ít lâu trước khi mở riêng tờ báo chữ Pháp Monde. Thành phần biên tập hoặc cộng tác viên mới mà tòa soạn lưu ý phát triển từ đây là các nữ tác giả, nữ ký giả. Nổi bật trong số này là Nguyễn Thị Kiêm (Kim), một trong những nhà thơ mới vào loại sớm nhất, với bút danh Manh Manh, cũng là ký giả với nhiều bút danh như Nguyễn Văn Mym, L. T., M. M., v. v…

 

             Phụ nữ tân văn trong năm 1933 là tờ báo đầu tiên đăng các bài thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh, Hồ Văn Hảo, và nhiều tác giả khác, là tờ báo đầu tiên mở mục Lối thơ mới để đăng tải với dụng ý nhấn mạnh trước độc giả về các sáng tác thơ mới, có sự giới thiệu, dẫn giải của một ký giả nào đó (Anna, Thạch Lan, T. L., v.v...). Chính Nguyễn Thị Kiêm, cây bút nổi bật của tờ báo này, đã là người đầu tiên diễn thuyết về lối thơ mới tại hội Khuyến học Sài Gòn và liền đó Phụ nữ tân văn đã mở cuộc bút chiến bảo vệ tính chính đáng của việc đổi mới thơ tiếng Việt.

 

            Về phong trào thơ mới, người ta biết rằng chỉ khi nó lan rộng ra cả nước, dành được sự hưởng ứng rộng rãi của một thế hệ người làm thơ trẻ là học trò các trường Pháp-Việt, và từ phong trào đã sản sinh ra những tác phẩm xuất sắc, thì  khi ấy “thơ mới” mới được khẳng định như một thành quả phát triển của thơ ca và văn học tiếng Việt. Những cây bút thơ mới xuất hiện đầu tiên trên tuần báo P.N.T.V. sẽ không có vị trí thật đáng kể trong thành tựu của phong trào, nhưng vai trò khởi đầu của họ và của tuần báo này là một vinh dự cần được ghi nhận. Không cần chờ gần mười năm sau (với sự tổng kết của Hoài Thanh), ngay từ năm 1933, chính trên tuần báo này, ta đã có thể đọc thấy những khẳng định đủ sức nặng về thực chất phong trào thơ mới:

            ”Vấn đề thơ mới, xét cho tới nơi rồi, là vấn đề sự quan hệ của hình thứcnội dung. Cái khuôn khổ thơ (luật bình trắc, vần) là hình thức; cái tình tứ của thơ là nội dung. [...] Mặc dầu ai không đồng ý về ngày sanh của thơ mới ở xứ ta, về cái tên đặt của nó (từ khúc, thơ mới, lối thơ mới), ta chỉ nên chủ ý ở sự cốt yếu nầy: cái ruột đã đập vỡ cái vỏ rồi. Nói trắng ra, cái tinh thần của thi sĩ An Nam (hạng tân học) không thể chịu nghẹt ở trong khuôn khổ Đường luật nữa: nhơn đó mà sanh ra cái vấn đề thơ mới, rút lại là vấn đề khuôn khổ. Đừng có ai bảo rằng nên đổi là đổi cái tinh thần, cần chi thay cái hình thức! Vì tinh thần tức là cái nội dung (le contenu) phải tùy cái đồ chứa (le contenant) là cái hình thức. [...] Tóm lại, cần phải đập vỡ khuôn khổ cũ mà làm lại cả. Rồi đây người có thi tài sẽ nhờ đó mà tả diễn sự sinh hoạt cùng lẽ phân tranh trong thời đại ngày nay”. [6]

 

Hầu như suốt năm 1933 không thấy Phan Khôi có bài đăng tuần báo này; không rõ có phải đây là hậu quả những xung khắc giữa ông với gia đình chủ báo này do những dư âm Hội chợ Phụ nữ 1932,  hay đơn giản chỉ là vì đầu năm 1933 ông đã về Quảng Nam rồi ra Hà Nội và bận bịu với công việc làm báo ngoài Bắc.

Giữa năm 1934, tại tòa soạn Phụ nữ tân văn dường như  có một kế hoạch thay đổi tờ báo, rõ nhất là việc Hồ Văn Hảo (một cây bút làm thơ nổi lên ở phía Nam thời đầu phong trào thơ mới) tham gia công việc biên tập và quản trị tòa soạn. Nhưng tờ tuần báo này đã tạm ngừng từ 20/12/1934 (số 271); bốn tháng sau, báo ra thêm 2 số nữa: số 272 (11/4/1935) và số 273 (21/4/1935), rồi ngừng hẳn.

Chính trong thời gian cuối cùng này của tờ tuần báo, Phan Khôi đã trở lại gửi đăng Phụ nữ tân văn những bài nghị luận rất đáng kể: Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến (s. 268, ngày 29/11/1934), Câu chuyện lấy vợ đầm (s. 269, ngày 6/12/1934), Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ (s. 270, 13/12/1934), Ý kiến tôi đối với sự bỏ kiểm duyệt báo quốc ngữ (s. 271, ngày 20/12/1934).

 

5/ Công luận (1916-1939) là tờ nhật báo tồn tại trên ba chục năm ở Sài Gòn, đổi thay khá nhiều chủ, nhiều bộ biên tập. Ban đầu nó là ấn bản chữ Việt của nhật báo chữ Pháp L’ Opinion, tên Việt đầy đủ là Công luận báo, ra số đầu vào ngày 28/9/1916. Khoảng năm 1932, chủ nhiệm Công luận báo là Jules Haag đã bán lại tờ này cho Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá. Cuối năm 1933 đầu 1934, tòa soạn Công luận được tổ chức lại, Diệp Văn Kỳ vẫn là Tổng lý (chủ nhiệm), nhưng chủ bút mới là Bùi Thế Mỹ, trong tòa soạn có các trợ bút Nguyễn Thế Phương, Nguyễn Thương, Nguyễn Thị Kiêm, Phương Lan; ba nhà văn được mời làm biên tập ở ngoài tòa soạn là Phan Khôi, Võ Liêm Sơn và Tùng Lâm Lê Cương Phụng. [7]  Rồi từ đầu tháng 3/1934, vai trò Tổng lý được chuyển sang Trần Thiện Quý. Nhưng chủ nhân và thành phần tòa soạn tờ báo sẽ còn tiếp tục thay đổi, cho đến khi báo này ra số cuối cùng, số 9021 vào 30/9/1939.

Phan Khôi viết cho Công luận khá ít. Đầu năm 1931 ông góp hai bài cho số Tết Công luận, khi đó Nguyễn Văn Bá là Tổng lý (chủ nhiệm) nhưng vẫn chỉ là người làm thuê cho ông chủ thực sự là Jules Haag. Đầu năm 1932, khi Võ Khắc Thiệu làm chủ bút Công luận, thì Phan Khôi và tờ Trung lập trở thành đối tượng công kích thường xuyên của cây bút này. Thái độ của Công luận đối với Phan Khôi chỉ trở nên hòa dịu khi Võ Khắc Thiệu rời tòa soạn Công luận. Từ tháng 5/1932, Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại tờ báo từ Jules Haag và tổ chức lại tòa soạn. Tuy vậy, Phan Khôi hầu như không viết bài cho Công luận, có lẽ vì công việc viết cho Trung lập Phụ nữ tân văn đã ngốn hết thời gian làm việc của ông.

Có thể chính việc Bùi Thế Mỹ đến làm chủ bút Công luận từ đầu năm 1934 là lý do để Phan Khôi từ Hà Nội gửi một số bài đăng báo này. Kể cả những bài ký họ tên thật lẫn những bài ký các bút danh (ví dụ ký C.D., hoặc Tha Sơn) cũng chỉ chừng vài ba bài. Cũng nên lưu ý là,  Công luận cho đăng không ít bài tranh luận với một số bài của Phan Khôi trên Phụ nữ thời đàm, nhưng không thấy Phan Khôi đáp lại các ý kiến ấy trên tờ Công luận. Đáng kể nhất trong số bài Phan Khôi gửi đăng Công luận chính là bài Cái kỷ nguyên mới của thơ và tiểu thuyết, đưa ra phán đoán lấy năm 1933 làm mốc chuyển biến chất lượng hai thể tài tiểu thuyết và thơ trong văn học hiện đại tiếng Việt.           

 

***

 

Trở lên là sự dẫn giải về những tờ báo mà Phan Khôi có bài đăng, trong hai năm 1933-34, theo kết quả tìm hiểu của tôi tính đến khi đặt bút viết những dòng này.

 

 Các sưu tập báo chí mà tôi đã khai thác tư liệu dùng cho sách này là:

– sưu tập các báo Trung lập, Thực nghiệp dân báo, Công luận tại Thư viện quốc gia Việt Nam ở Hà Nội;

– bản chụp vi phim (microfilm) báo Phụ nữ tân văn và báo Phụ nữ thời đàm Thư viện đại học Berkeley, California, Hoa Kỳ; đây là bản chụp vi phim các sách báo từng được nộp lưu chiểu ở Đông Dương rồi gửi về lưu giữ ở Thư viện quốc gia Pháp, do ACRPP (Association pour la conservation et la reproduction photographique de là presse / Hiệp hội bảo quản và tái chế ảnh báo chí) ở số 4 rue de Louvoir, Paris (Pháp) chụp, in tráng và phát hành.

Trong việc sắp xếp bài vở ở sưu tập này, người biên soạn chủ yếu xếp theo thứ tự thời gian.

Ngoài các bài đã biết rõ là của tác giả Phan Khôi, còn một số bài tồn nghi, người sưu tầm xếp vào Phụ lục 1. Những bài của các tác giả khác đối đáp với Phan Khôi hoặc nói những điều có liên quan đến ông, người sưu tầm xếp vào Phụ lục 2.

Đây là sưu tập những bài đăng báo; người sưu tầm thấy cần tôn trọng dạng đăng báo của mỗi văn bản. Những chữ ngờ là in sai, tôi sửa lại và có ghi chú dạng gốc (= dạng đăng báo); những từ khó hiểu đối với người thời nay, tôi cũng tìm tài liệu để tra cứu và chú thích; tuy vậy phần chú thích này chỉ giới hạn ở những trường hợp thật cần thiết chứ không thể làm thật nhiều như đối với văn bản dành cho công chúng phổ thông, vì như vậy khối lượng từ ngữ cần chú thích sẽ quá lớn.

Các chú thích ghi số là của bản gốc (nguyên chú).

Các chú thích bằng chữ (a) là của người biên soạn.

                                                          

                                                                      4/7/2009

                                      L.N.Â.


 

(1) N. : Cùng quý độc giả // Trung lập, 2/3/1933. (N. là một trong số các bút danh Nguyễn An Ninh dùng khi viết cho Trung lập thời gian này).

(2) Sơ thảo lịch sử báo chí Hà Nội (1905-2000) / Nguyễn Hồng Lĩnh, Nguyễn Gia Quý đồng chủ biên / Hà Nội, 2004: Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 56-58.

(3) Thông Reo: Đồng thời mà chẳng được gặp nhau // Trung lập, 19/12/1930. Xem: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1930 // Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn, Hà Nội, 2006: Nxb. Hội Nhà Văn, tr. 830-831.

(4) Phạm Mạnh Phan (1943): Phụ nữ với báo chí // Tri tân, Hà Nội, s. 112 (16/9/1943), tr. 13 (797).

(5) Bài Bàn thêm về bút chiến đăng 4 kỳ báo Thần chung 1929. Xem: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929 // Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn/ Đà Nẵng, 2005: Nxb. Đà Nẵng, tr. 676-688.

[6] Cuộc đời với ý tôi: Hình thức và nội dung // Phụ nữ tân văn, Saigon, s. 217 (21 Sept. 1933), tr. 3-4. Bài viết này có thể là của Cao Văn Chánh,  thời gian này đang viết cho một số mục của P.N.T.V., trong đó có mục “Cuộc đời với ý tôi”.

[7] Bộ biên tập mới của Công Luận // Công luận, Sài Gòn, số Tết (14.2.1934), tr. 3.