LAI CẢO

VĂN TẾ ĐỨC THÁNH CUNG

Đức Khôn nguyên Xương minh Thái hoàng Thái hậu là một vị mẫu nghi trong nước. Ngài còn sống thiên hạ thần dân cũng nhớ. Bây giờ ngày 24 tháng 10 An-nam, Ngài đã giá ngự thượng tân, ai nấy đều than tiếc. Trên Triều đình các quan đã có tang nghi chế phục mong báo đáp ơn trên; còn dưới thiên hạ thần dân, tấm lòng hèn mọn không biết lấy chi mà tỏ tình ai thống kỉnh mộ. Vậy nên dâng câu văn nôm vọng bái giữa thanh không mà lạy đưa Ngài và gởi đăng báo cho ai nấy đều biết, để làm kỷ niệm. – N.M.T.

BÀI VĂN

Hỡi ôi, lầu phụng mưa chan, đài loan tuyết ủ

Trời đương rằm đã khuyết vành trăng, đất mới lặng lại ùn trận gió

Cám cảnh trăm năm dâu bể, già đồi mồi chưa dễ sống dai

Tấm tình bốn cõi con dân, bé khát sữa còn e thèm bú

 

Tưởng Ngài xưa: nết đất từ hiền, tư trời nhân hậu

Giòng cả tướng công, ngôi cao vương hậu

Vẻ đoan trang ít kẻ dám tày, gương trinh liệt lâu ngày còn rõ

Đoan đích Tiên triều noi dấu, lúc ở tôn lăng, lúc về cấm điện, mực thước rỡ ràng vẻ ngọc, cửa cung vi bền vững đến ngày nay

Gian nan đại nghiệp dựng gầy, khi giao quý quốc, khi ngự nội đình, phép khuôn đứng đắn lời tơ, nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ.

Từ năm trước ngự du ngoại quốc, khéo léo thay quyền nội trị, lời êm lẽ thuận, đình thần ai nấy khâm tuân

Đến lúc nay giá phản bổn triều, vững vàng đáng vị mẫu nghi, đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đều từ mộ

So thuở trước Hậu Phi có đức, chữ quan thơ thi vịnh sách còn đây,

Sánh triều nay, quốc mẫu các ngài, lời khuê huấn từ nghi bia sẵn đó

Bốn cung tỏ rạng, quyền to vẫn ở bực trên

Bốn đức vẹn toàn, lượng lớn hay thương kẻ nhỏ

Trộm thấy mới sáu mươi tuổi lẻ, ngai rồng êm ái, thêm mấy năm vừa đến lệ thất tuần

Ngỡ hay đâu hăm bốn tháng mười, xe bạc giục dồn, nỡ phút chốc đã chia đường thiên cổ

Xui nên chích mác bóng hoa, rung rinh ngọn cỏ

Lời ý chỉ vắng nghe, nét từ tâm khôn chộ

Hạc đã về nơi hoa biểu, để đầu đen con đỏ luống trông

Rồng đà xa chốn đình hồ, xui gác tía lần son cũng bỏ

Về miền lạc quốc, Ngài đã đành vui thú tiêu diêu

Nhớ nghĩa chung thiên, người ai chẳng đem lòng quyến chú

Từ dưới trăm quan, đến trên sáu cụ

Quý quan Tây sang, nội thần đông đủ

Khánh tiết nhớ chừng từ thọ mới khương cường khỏi hạn nhị tam

Tư sanh nghĩ đức Khôn nguyên, cũng cảm động đến hào cửu ngũ

Chín từng trời thảm, trên bệ vàng giọt lụy đổ tuôn

Muôn dặm non sầu, ngoài bể bạc tiếng đờn cấm vỗ

Cảm là cảm tôn miếu đó, mà xã tắc còn đó, lễ lệ lần hồi thay đổi, biết nhờ ai mà mà giúp sức lúc vạn cơ?

Cảm là cảm triều thần đây mà cung điện ở đây, văn minh một hội mở mang, biết nhờ ai cho khuây lòng khi nội cố

Trong kinh địa trông lên Vĩnh quốc, đoái tưởng từ vi ở đó, còn vẻ vang tiếng để ngoại từ

Trước thành môn ngó vọi tôn cung, trực nhìn Thọ chỉ về đâu, luống ngẫm hai chữ đề Diên Thọ

Bao thuở đã tiên hương tách dặm không đoái tình thích lý tử tôn

Cách tuần vừa Thánh thọ tới nơi, lại lỡ hội bàn đào Vương mẫu

 

Ôi thôi, Bể ái lưng vơi, thành sầu xô đổ

Nước giao trì lai láng nơi đâu, hoa bồng đảo rã rời lúc nọ

Một phen khó nhọc, bề chủ trương đã có Triều đình

Muôn việc âu lo, phần chiếu liệu lại giao phủ bộ

Bây giờ còn tử cung để đó, còn tam giai lục viện, còn các quan khâm mạng chầu hầu

Từ khi có thánh chỉ ban ra, có lục bộ tam nha, có các cụ hội đồng coi ngó

Trên Thánh thượng ngài còn để khó, ban trước sân khăn bịt trắng lòa

Ngoài lân bang ai chẳng chia buồn, treo nửa cột, cờ bay lấp ló

Chiếu lệ cũ tang nghi sắp sửa, đồ sơn son triệu gấm, đã theo hội điển cử hành

Nghĩ ơn riêng biếu lễ viếng thăm, tờ giấy chúc chữ in, cũng cảm thạnh tình Bảo hộ

Đoái thấy Ninh lăng sẵn chỗ, non xanh nước biếc đặng an nhàn vĩnh viễn thiên thu

Mới bày lô điện mỗi nơi, đèn rạng hương chong, đều kỉnh chúc khương trang nhứt lộ

Nam bắc đồng lòng, âm dương khác chỗ

Trong một nước tình đâu xiết kể, lòng ngay dạ thảo, nguyện đồng đều thiên hạ thần dân

Trên chín trời hồn vẫn có thiêng, mẹ cả con chung, xin vùa giúp Quốc vương thủy thổ!

Hỡi ôi! [a]

NGUYỄN MỘNG THẠCH

Nguồn:

Tràng An, Huế, s. 86 (24 Décembre 1935), tr. 3.

Chú thích

[a]  Bài văn tế này được gửi (lai cảo) tới báo Tràng an  và tòa soạn cho đăng để sau đó có bài phê bình, nêu ra vấn đề cần phải có sự thành thực trong cảm xúc văn học.