Chúc phước
Mặc dầu thế nào cái cuối năm của âm lịch cũng vẫn ra về cuối năm
hơn. ở giữa làng mạc không phải nói, cho đến ở trên thinh không cũng nổi bật ra
cái khí tượng hầu sang năm mới. Trong đám mây chiều trắng xám và nặng nề chốc
chốc lại có nhoáng sáng, tiếp tới một tiếng đẹt, ấy là pháo đưa ông Táo về trời; nếu đót gàn thì nghe lại mạnh xẳng hơn, những tiếng đùng đùng làm ù tai còn chưa
dứt, trong không khí đã lan khắp mùi thuốc pháo thầm thoảng. Chính là trong cái
đêm ấy tôi về đến Lỗ Trấn, làng quê của tôi. Nói rằng làng quê, nhưng thật ra
tôi đã không có nhà ở đó, cho nên phải tạm trọ trong nhà ông cụ Tư. Ông cụ, người
trong họ tôi, theo thế thứ, lớn hơn tôi một bậc, đáng lẽ tôi phải gọi bằng "chú
Tư", là một vị cựu giám sinh theo phái lý học. Ông ta so với trước kia chẳng có
thay đổi gì mấy, chỉ già thêm một ít, song le còn chưa để râu. Thấy tôi, ông
liền hỏi thăm sức khỏe; sau khi hỏi thăm sức khỏe rồi ông nói tôi "mập ra"; sau khi nói tôi mập ra rồi ông liền chửi bọn tân đảng. Nhưng tôi biết rằng đó
không phải là ông chửi cạnh chửi khóe tôi: vì cái kẻ ông chửi vẫn còn là Khương
Hữu Vi. Có điều, câu chuyện thế nào cũng không ăn nhịp nhau, bởi vậy chẳng bao
lâu, chỉ lưu lại trơ trọi một người là tôi ở trong phòng sách.
Ngày hôm sau tôi trỗi dậy rất trễ. Sau bữa cơm trưa, tôi đi thăm mấy người bà
con và bạn bè. Ngày hôm sau nữa cũng thế. Họ thảy đều chẳng có thay đổi gì mấy,
chỉ già thêm một ít; nhưng nhà nào cũng bận rộn, đều đương sắm sửa lễ "chúc phước".
Lễ này là lễ lớn cuối năm ở Lỗ Trấn, bày biện lễ phẩm, đón rước các vị phúc
thần, khấn cầu sự may mắn cả một năm cho năm mới. Họ giết gà, làm thịt ngỗng,
mua thịt lợn, cẩn thận rửa từng tí, những cánh tay của đàn bà đều đầm trong nước
ửng đỏ lên, có cái còn đeo neo bạc. Sau khi nấu chín các vật ấy, bừa bãi giặt
những chiếc đũa lên trên, thế gọi là "phước lễ" dó. Hồi canh năm bưng đặt lên
bàn, thắp hương, thắp đèn, cung thỉnh các vị phúc thần về hâm hưởng. Chỉ có đàn
ông con trai mới được cúng lạy; cúng lạy xong, vẫn cứ đốt pháo. Năm nào cũng
thế, nhà nào cũng thế - miễn là sắm được phước lễ và pháo - tự nhiên năm nay
cũng lại thế. Màu trời càng râm tối, buổi chiều tuyết bắt đầu sa, những hoa tuyết
lớn bằng hoa mai, bay múa đầy trời, xen với khói mùa và tình hình tấp nập, làm
Lỗ Trấn thành ra một vùng hỗn độn. Khi tôi về đến trong phòng sách chú tư, trên
kẽ ngói đã đầy tuyết trắng; ánh sáng rọi vào trong phòng, rõ ràng thấy được bức
liễn cái chữ "thọ" đập son, chữ của Trần Đoàn lão tổ viết, treo trên vách; hai
bức liễn con thì một đã rơi xuống, cuốn lại phồng phồng để trên chiếc bàn dài,
một thì còn treo, nó là sự lý thông đạt tâm khí hòa bình. Tôi lại chán nản đi
đến cái bàn để sách bên cửa sổ lục lạo một hồi, chỉ thấy có một đống Khang Hy tự
điển chưa chắc đủ trọn bộ, một bộ Cận tư lục tập chú và một bộ Tứ thư thấn.
Không luận thế nào, tôi nhất định ngày mai phải đi đi thôi.
Thêm nữa, cứ nhớ đến chuyện gặp mụ Tường Lâm hôm qua một cái là làm tôi không
thể nào ở yên được. Bấy giờ vào buổi chiều, tôi đến xóm phía đông Lỗ Trấn thăm
một người bạn. Khi ra về, bắt gặp mụ bên bờ sông; vả lại thấy cặp mắt mụ đăm
đăm nhìn tôi, biết rằng mụ thấy tôi mà cố ý đón để gặp. Trong bao nhiêu người
tôi đã thấy lần này ở Lỗ Trấn, người thay đổi nhiều hơn cả, có thể nói không ai
bằng mụ: cái đầu hoa râm năm năm về trước, bây giờ đã bạc phau, không còn ra vẻ
người trên dưới bốn mươi nữa; cái mặt gầy tóp, vàng mà đen, đến nỗi mất cả cái
dáng bộ buồn rầu trước kia, hình như là con người gỗ; chỉ có đôi tròng con mắt
thỉnh thoảng luân qua luân lại, còn có thể tỏ ra mụ là một vật sống mà thôi. Mụ
một tay xách cái giỏ bằng tre, trong đó một cái bát mẻ không đựng gì cả; một
tay cầm một cành tre dài hơn người mụ, đầu dưới đã nứt ra: rõ ràng là một kẻ ăn
mày trăm phần trăm.
Tôi đứng dừng lại, sẵn sàng chờ mụ đến xin tièn.
"Thưa ông đã về?" Mụ chào hỏi trước.
"Phải".
"Thế thì tốt lắm. Ông có học, lại là người đi ra, thấy biết được nhiều. Tôi muốn
hỏi ông một việc..." Cặp mắt không có tinh thần của mụ bỗng dưng nẩy sáng ra.
Tôi tuyệt nhiên không ngờ đến mụ lại nói được những lời như thế, sững sờ đứng im.
"ấy là..." Mụ nhích gần lại hai bước, hạ giọng khe khẽ, nói thì thầm như là
chuyện rất bí mật, "sau khi một con người chết rồi, thực ra còn có linh hồn hay
là không có?"
Bấy giờ tôi đờ người ra, thấy mụ nhìn giắt mắt vào mình, trên lưng tôi như phải
gai chích, lúng túng còn hơn khi ở trong trường họcg ặp sự hạch hỏi thình lình,
không kịp ngừa trước, thầy giáo lại đứng bên cạnh mình. Về sự có linh hồn hay
không, chính mình tôi thuở nay không hề để ý đến; song le ở giờ phút này, nên
trả lời mụ thế nào cho ổn đây? Tôi ngần ngừ trong giây lát, nghĩ ngay ra rằng người
miền này đều tin có ma, mà mụ lại ngờ vực, - thế thì có lẽ nói hy vọng là hơn:
hy vọng rằng có, lại hy vọng rằng không có... Nhưng mà mình sao lại đệm thêm sự
khổ não cho con người cùng đường làm chi; muốn được việc cho mụ, chi bằng nói
quách đi rằng có. Thế rồi tôi trả lời cách nửa nạc nửa mỡ:
"Theo tôi tưởng, cũng có lẽ có đấy."
"Vậy thì, cũng phải có địa ngục chứ?"
"à, địa ngục à?" Tôi rất bối rối, chỉ có việc chống chỏi: "Địa ngục à? - Theo
lẽ, cũng phải có. - Nhưng mà chưa chắc... ai lại đi để ý đến những việc như
thế!..."
"Vậy thì, những người cùng trong một nhà chết đi có thể gặp mặt nhau chứ?"
"ờ ờ, gặp mặt hay là chẳng gặp mặt ư?" Khi ấy tôi đã biết mình còn là một người
ngu trọn vẹn, ngần ngừ thế nào, tính toán thế nào, cũng không đương nổi ba câu
hỏi ấy. Tức thì tôi đâm ra rè rụt, định xí xóa cả bao nhiêu câu trả lời trước
kia: "Điều đó... thật ra thì tôi không nói dứt khoát được... Sự thật, có linh
hồn hay không có, tôi cũng không nói dứt khoát được."
Tôi thừa lúc mụ không hỏi dồn nữa, tháo bước ra đi, vội vàng trốn về trong nhà
chú Tư, thấy lòng mình rất không yên ổn. Cứ nghĩ bụng, mình trả lời như thế e có
điều nguy hiểm cho mụ chăng. Chừng như mụ vì gặp lúc nhà người ta chúc phước,
cảm thấy riêng thân mình bơ vơ hiu quạnh, nhưng cũng có thể giấu trong câu hỏi
cái ý gì khác nữa chăng? Hoặc là mụ đã có linh cảm thế nào rồi? Ví phỏng mụ có ý
gì khác, lại nhân đó xảy ra việc gì khác, thì những câu trả lời của tôi ắt phải
có chịu trách nhiệm một phần nào... Song le, liền đó tôi cũng bật cười cho mình,
việc là việc tình cờ, vốn chẳng có ý nghĩa gì sâu sắc cả, mà mình lại cứ nắn nót
mãi ra, hèn chi có nhà giáo dục bảo là đau thần kinh bệnh;(1) huống chi đã nói
phân minh rằng "tôi không nói dứt khoát được", đã xí xóa cả bấy nhiêu câu trả
lời, thế thì dầu có xảy ra việc gì, cũng chẳng mảy may dính dấp đến tôi.
"Không nói dứt khoát được", thật là một câu nói rất hữu dụng. Có những kẻ thiếu
niên hăng hái chưa từng trải việc đời, thường hay bạo gan giải quyết sự nghi ngờ,
chọn lấy thầy thuốc cho người khác, rủi ra không được kết quả tốt, trở chuốc lấy
oán vào mình; nhưng khi đã dùng câu "không nói dứt khoát được" làm kết luận,
thì bao giờ mình cũng thoát nợ cả. Lúc bấy giờ, tôi càng cảm thấy câu ấy là rất
cần dùng, dầu cho khi nói chuyện với một mụ ăn mày cũng không lấy lẽ gì mà vứt
bỏ đi được.
Song le thế nào tôi cũng không yên tâm; qua một đêm rồi, cũng vẫn cứ chốc chốc
lại nhớ đến, hình như có một thứ linh cảm báo hiệu chẳng lành; ở dưới trời tuyết
âm thầm, trong phòng sách chán nản, cái sự không yên tâm lại càng thêm dữ dội.
Thôi, chi bằng đi là hơn, sáng mai đi vào thành đi. Món vây thả của Phúc Hưng
lâu cứ một đồng một bát lớn, ngon mà rẻ, hiện giờ chẳng biết có lên giá chăng?
Các bạn cùng đi chơi ngày trước tuy đã mỗi người một nơi nhưng mà món vây thả phải
ăn mới được, dầu chỉ độc có một mình tôi cũng vậy... Không luận thế nào, tôi nhất
định ngày mai phải đi đi thôi.
Tôi nhân vì thường thấy ít nhiều việc mình không muốn xảy ra như mình đoán, cho
rằng chưa chắc xảy ra như mình đoán, lại cứ hay xảy ra như mình đoán, cho nên
rất lo âu cho cái việc này rồi cũng thế. Thì quả thế, cái tình hình đặc biệt đã
bắt đầu. Xế chiều, tôi nghe có mấy người nói chuyện ở nhà trong, giống như bàn
tán việc gì ấy, một chốc tiếng trò chuyện cũng bặt, chỉ có chú Tư vừa đi vừa nói
to rằng: "Chẳng sớm chẳng muộn, lại nhè chính vào giữa lúc này, - thế đủ biết nó
là đồ tầm bậy!"
Tôi trước còn lấy làm lạ, sau thấy rất không yên tâm, hình như câu nói đó có
dính dấp tới mình. Trông ra ngoài cửa, không có ai hết. Vơ vẩn chờ đến trước bữa
cơm tối, người làm trong nhà đến chế trà, tôi mới có dịp tìm nghe được tin tức.
"Vừa rồi cụ Tư gắt ai thế nhỉ?" Tôi hỏi.
"Mụ Tường Lâm chứ còn ai?" Người ấy trả lời thon lỏn.
"Mụ Tường Lâm à? Vì lẽ gì thế?" Tôi lại hỏi dồn.
"Chết rồi."
"Chết rồi?" - Quả tim tôi vụt se lại, gần như muốn đập mạnh,s ắc mặt chừng cũng
tái đi, có điều người kia không hề ngước đầu lên, cho nên trọn không thấy. Tôi
cũng liền làm tỉnh, hỏi tiếp:
"Chết vào lúc nào thế?"
"Lúc nào? - Đêm qua hay sáng nay gì đó. - Tôi không nói dứt khoát được."
"Vì lẽ gì mụ chết?"
"Vì lẽ gì? - Cùng quá đi thì chết, chứ còn vì lẽ gì?" Hắn lạnh nhạt trả lời, vẫn
cứ không ngước đầu nhìn tôi, đi ra.
Nhưng mà sự kinh hãi của tôi chẳng qua chỉ trong giây lát, sau thấy cái việc phải
đến thì đã qua rồi, cũng không cần nhờ những câu "không nói dứt khoát được" của
tôi và "cùng quá thì chết" của người kia làm yên ủi mà cõi lòng đã dần dần nhẹ
nhõm; chỉ trong lúc tình cờ còn thấy như bị cắn rứt ít nhiều. Cơm tối dọn ra,
chú Tư nghiêm nghị ngồi tiếp. Tôi cũng còn muốn gợi nghe tin tức về mụ Tường Lâm,
song biết rằng ông ta tuy đã đọc qua câu "quỷ thần là lương năng của hai khí"(2)
nhưng vẫn còn kiêng kị rất nhiều; trong khi gần làm lễ chúc phước rất không nên
đem những chuyện đau ốm chết chóc ra mà nói; nếu cực chẳng đã, phải dùng một
thứ tiếng lóng, tiếc tôi lại không biết, vì vậy nhiều lần toan hỏi lại thôi. Tôi
dò ở sắc mặt nghiêm nghị của ông, lại đâm ngờ rằng ông cho tôi chẳng sớm chẳng
muộn, nhè chính vào lúc này đến khuấy rầy ông, cũng là đồ tầm bậy, bèn lập tức
xin kiếu ông ngày mai tôi sẽ rời Lỗ Trấn, đi vào thành, để lòng ông sớm được khoăn
khoái. Ông cũng không cầm hẳn, cứ tẻ ngắt như thế ăn xong một bữa cơm.
Mùa đông ngày ngắn, lại là trời tuyết, cái màn đêm vội đã che phủ cả thị trấn.
Mọi người đều bận rộn ở dưới đèn, nhưng ngoài cửa sổ rất lặng lẽ. Những hoa tuyết,
sa trên đệm tuyết khá dày, nghe như có tiếng tách tách, khiến người cảm thấy sự
lặng lẽ càng hơn. Tôi một mình ngồi dưới ngọn đèn dầu lạc trỗ ánh sáng vàng, nghĩ
rằng cái mụ Tường Lâm cầu bơ cầu bất kia, là kẻ bị mọi người hất hủi trong đống
bụi rác, là một thứ đồ chơi cũ kỹ xem đã chán, trước còn lộ hình trong bụi rác,
thì dưới mắt những người sống sung sống sướng chắc lấy làm quái sao mụ cứ còn
mãi, mà bây giờ thì cũng kể được là đã bị thần chết quét dọn sạch sẽ đi rồi đấy.
Linh hồn có hay không, tôi không biết; nhưng mà bây giờ đây thì kẻ không thể
sống không sống nữa, để cho kẻ không muốn thấy không thấy nữa, thật cũng là được
việc cho cả người lẫn mình. Tôi lắng nghe tiếng hoa tuyết hình như kêu tách tách
ngoài cửa sổ, vừa nghe vừa nghĩ ngợi, dần dần trở thấy trong người thư thái hẳn.
Song le, những mảnh vụn sự tích về nửa đời người của mụ mà tôi đã thấy và nghe
được trước kia, đến đây cũng liền lại, thành ra nguyên một tấm.
Mụ Tường Lâm không phải người Lỗ Trấn. Có một năm, đầu mùa đông, trong nhà chú
Tư muốn thay đứa ở gái, người mối là bà Vệ già đưa mụ đến: đầu vấn cái dây trắng,
quần đen, áo cộc kép màu chàm, ngoài phủ áo lá mùa xanh non, tuổi chừng hâm sáu
hâm bảy, sắc mặt vàng xanh nhưng hai gò má còn đỏ. Bà Vệ già gọi mụ là mụ Tường
Lâm, nói là hàng xóm của nhà mẹ mình, chết mất người đàn ông, cho nên ra đi ở mướn.
Chú Tư cau mày. Thím Tư biết ngay ý chồng ghét mụ là một mụ góa. Song le thấy mụ
dáng dấp cũng hẳn hoi, tay chân đều vạm vỡ, lại chỉ nhìn xuống, chẳng nói một
câu, rõ ra là một người yên phận và chịu khó, bèn bất chấp cái cau mày của chú
Tư, để mụ ở lại. Trong kỳ ở thử, mụ làm việc cả ngày, hình như hở tay ra thì
buồn, lại có sức, chẳng khác một anh trai tráng, vì vậy ngày thứ ba liền dứt giá,
mỗi tháng năm quan tiền công.
Người ta đều gọi mụ là mụ Tường Lâm; chẳng hề hỏi mụ họ gì, cứ người mối là người
Vệ gia sơn đã nói là hàng xóm, thế cũng cho là mụ họ Vệ đi. Mụ không thích nói
chuyện lắm, có ai hỏi mới trả lời, trả lời cũng vắn tắt. Đến sau mười mấy ngày
mới biết thêm rằng trong nhà mụ còn có bà mẹ chồng gay gắt, một thằng em chồng
còn nhỏ mười mấy tuổi, đã đi hái củi được; mụ chết chồng vào khoảng mùa xuân,
chồng mụ vốn cũng sống bằng nghề hái củi, kém mụ mười tuổi: người ta biết về mụ
chỉ có thế thôi.
Ngày qua rất chóng, công việc mụ chẳng bê trễ chút nào, ăn thế nào cũng xong,
làm chẳng hề dưỡng sức. Mọi người đều nói nhà ông cụ Tư thuê được đứa ở gái thật
siêng năng còn hơn người trai tráng siêng năng. Đến cuối năm, quét dọn, rửa nhà,
giết gà, làm thịt ngỗng, nấu "phước lễ" thâu đêm, một người gánh làm lấy cả,
không phải thuê thêm người làm ngày. Vậy mà mụ lại hả hê, khóe miệng dần dần có
vẻ cười, mặt cũng béo trắng ra.
VừA Q.ua năm mới, khi mụ đi vo gạo ở bờ sông về, bỗng tái mặt đi, nói vừa mới
trông thấy xa xa một người đàn ông đứng vơ vẩn bờ bên kia, giống người bác họ
nhà chồng mụ lắm, e rằng người ấy đi đến đây cốt vì tìm mụ. Thím Tư rất nghi ngại,
căn vặn đến điều, mụ lại không nói chi. Chú Tư biết được, liền cau mày một cái,
nói:
"Thế là không xong đấy, e nó trốn nhà mà đi đấy."
Quả mụ trốn nhà thật, chẳng bao lâu câu nói đè chừng ấy liền được chứng thực.
Sau đó chừng mười mấy ngày, người ta đang dần dần quên lửng câu chuyện trước, bà
Vệ già bỗng đưa một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi đến, nói là mẹ chồng của mụ
Tường Lâm. Người đàn bà tuy có dáng bộ người miền núi, nhưng thù ứng rất thong
dong, nói năng cũng hoạt bát, vài lời hàn huyên rồi xin lỗi, nói đến để bảo con
dâu mình về nhà, vì đầu năm bận việc, mà trong nhà chỉ có một già một trẻ, không
đủ tay làm.
"Đã là bà gia nó gọi nó về, còn nói gì được nữa?" chú Tư nói.
Thế rồi tính tiền công, cộng là mười bảy quan năm, mụ vốn gởi cả ở nhà chủ,
không tiêu một đồng, đều đem giao giả cho mẹ chồng mụ. Người đàn bà lại lấy áo
xống, cảm ơn rồi đi ra. Lúc đó đã đứng trưa.
"ối già, nào gạo đâu? Có phải mụ Tường Lâm đi vo gạo rồi chăng?" Được một lúc,
thím Tư mới vùng la lên như thế. Chừng như bà ta có hơi đói bụng, nhớ đến cơm
trưa.
Người nhà bèn mới chia nhau đi tìm cái rổ rá. Thím Tư bước vào nhà bếp, sau lên
nhà lớn, sau nữa đến trong buồng, đều không thấy bóng cái rổ rá đâu. Chú Tư dạo
ra ngoài cửa ngõ, cũng không thấy, thẳng đến bờ sông, mới thấy để chững chạc
trên bờ, cạnh cái rổ rá còn có một cây cải.
Người xem thấy, học lại rằng: Hồi chưa trưa ở bến sông có đậu một chiếc thuyền
mui trắng, mui che kín cả, không biết những người nào ở trong, mà khi việc chưa
xảy ra cũng chẳng ai để ý đến. Đến chừng mụ Tường Lâm ra đó vo gạo, mới vừA Q.uỳ
xuống, trong thuyền vụt nhảy ra hai người đàn ông, giống người miền núi, một người
ôm xoác mụ, một người giúp tay kéo vào trong thuyền. Bấy giờ mụ Tường Lâm còn
khóc la được mấy tiếng, về sau rồi không có tiếng tăm gì nữa, chừng như bị nhét
gì vào mồm rồi. Rồi đó liền bước lên hai người đàn bà, một không biết mặt, còn
một là bà Vệ già. Dòm xem trong khoang, thấy không rõ ràng lắm, hình như mụ bị
trói để nằm trên ván thuyền thì phải.
"Khả ố! Nhưng mà..." Chú Tư nói.
Cả ngày hôm ấy chính mình thím Tư nấu cơm lấy. A Ngưu, con trai của ông bà thì
chụm lửa.
Sau bữa cơm trưa, bà Vệ già lại đến.
"Khả ố!" Chú Tư nói.
"Thế là chị có ý gì? khá là chị còn lại đến đây thấy mặt chúng tôi." Thím Tư đang
rửa bát, vừa thấy người đàn bà là hằn học nói, "Chính mình chị đưa nó đến, lại
họp bè họp lũ cướp nó đi, gây nên việc sôi nổi ầm ĩ, người ta xem vào còn thành
ra cái bề thế gì? Chị đem nhà chúng tôi ra làm trò đùa ư?"
"ối già, ối già, thật tôi bị lừa. Chính vì điều ấy mà lần này tôi lại đến để nói
cho rành mạch. Mụ ấy đến nhờ tôi kiếm chỗ làm, tôi làm thế nào liệu trước được
rằng mụ đã lừa dối mẹ chồng mụ ư? Thưa cụ ông, cụ bà, tôi chịu không phải. Chỉ
vì tôi già cả lú lẫn, không cẩn thận, xin chịu không phải với hai cụ. May mà gặp
nhà cụ đây thuở nay vẫn rộng lượng bao dong, không thèm so hơn tính thiệt với kẻ
dưới. Tôi nhất định rồi đây sẽ đưa đến một đứa đứng đắn để chuộc tội..."
"Nhưng mà..." Chú Tư nói.
Thế rồi cái việc mụ Tường Lâm tới đó là dứt, chẳng bao lâu người ta cũng quên đứt
đi.
Duy có thím Tư nhân sau đó thuê đứa ở gái, đại khái đứa không lười thì háu ăn,
hoặc có đứa đã háu ăn còn lười nữa, đăm chiêu chẳng vừa ý, cho nên cũng hay nhắc
đến mụ Tường Lâm. Mỗi khi như thế, bà ta thường nói một mình rằng: "Chẳng biết
bây giờ mụ ấy ra thế nào?" ý chừng là mong mụ lại đến. Song le qua cái tết năm
thứ hai, bà cũng không còn mong nữa.
Hôm tết gần hết, bà Vệ già đến mừng tuổi, đã uống say ngà ngày, nói rằng nhân có
về qua nhà mẹ ở Vệ gia sơn, ở lại mấy ngày cho nên về trễ. Giữa khi trò chuyện
tự nhiên họ nói đến mụ Tường Lâm.
"Mụ ấy à?" Bà Vệ già cao hứng nói: "Hiện giờ thì mụ đã bước sang vận đỏ rồi. Cái
lúc mẹ chồng mụ bắt mụ về, vốn đã hứa gả cho lão Hạ Sáu ở Hạ gia úc, cho nên sau
khi về nhà, chẳng mấy hôm là đã bỏ vào kiệu hoa khiêng đi."
"ối già, lại có thứ mẹ chồng thế kia!..." Thím Tư bài hãi nói.
"ối già, cụ bà của tôi ơi! Thật là một bà cụ nhà đại gia nói có khác. Chúng tôi
người miền núi, nhà dân dã, như thế có kể vào đâu? Mụ có một đứa em chồng nhỏ,
cũng phải cưới vợ cho nó. Chẳng gả mụ đi, thì lấy tiền đâu cưới vợ cho thằng kia?
Mẹ chồng mụ thế mà là người sáng suốt, giỏi giang đáo để, tính toán hay lắm, cho
nên mới đem mụ gả về miền núi bên trong nữa. Nếu gả cho người cùng làn, của lễ
chẳng được nhiều; chỉ vì ít người nữ nào chịu gả về chốn rừng sâu hóc thẳm, cho
nên mẹ chồng mụ mới nhận vào tay được một trăm quan chẵn. Nay thì đứa con dâu,
vợ thằng thứ hai, cũng cưới được rồi, chỉ tốn có năm chục quan của lễ, trừ tiền
tiêu phí làm đám, còn thừa được mấy chục quan. Hừ, cụ xem, tính toán như thế còn
hay đến nước nào?..."
"Thế mà mụ Tường Lâm dành chịu cho?..."
"Cái đó có gì mà chịu với chẳng chịu? - Làm ồn thì ai cũng cứ làm ồn lên một
trận, rồi thì lấy dây trói lại, nhét vào kiệu hoa, khiêng đến nhà trai, tròng
cái mũ đàu lên, lạy họ, đóng cửa buồng lại, thế là yên việc. Thế nhưng mụ Tường
Lâm thật có khác. Thấy nói lúc đó thật tình mụ làm rầy rà dữ lắm, người ta đều
nói chừng là mụ ở làm việc nhà người có học cho nên không giống với người thường.
Thưa cụ bà, chúng tôi thấy được nhiều rồi. Những kẻ bước đi bước nữa, khóc la có,
nói đi trầm mình thắt cổ có, khiêng đến nhà trai dằn mình vật mẩy lạy không nên
thân có, cho đến dụt tắt đèn động phòng đi cũng có. Nhưng mụ Tường Lâm thì thật
khác hẳn người thường: họ nói mụ suốt khi đi đường chỉ việc la, chửi, khiêng đến
Hạ gia úc, cuống họng đã tắt hẳn tiếng. Kéo ra khỏi kiệu, hai người đàn ông và
thằng em chồng mụ cố sức kìm giữ, mụ cũng còn lạy không nên thân. Bọn họ sơ ý,
nới tay ra một cái, ối già, ai di đà Phật! Mụ liền dộng đầu vào cái cạnh hương
án, trên đầu thủng thành một cái hục, máu chảy dầm dề, tra cho hai nắm tàn nhang,
buộc cho hai miếng vải điều mà máu còn chưa cầm nổi. Cho đến lúc xúm nhau mỗi người
một tay đem mụ cùng người đàn ông nhốt trong buồng cưới, khóa trái lại, mà mụ
cũng còn cứ chửi, ối già già, rõ thật là..." Bà Vệ già lắc đầu một cái, nhìn
xuống không nói nốt.
"Sau rồi làm sao?" Thím Tư còn hỏi.
"Thấy nói ngày thứ hai cũng không chỗi dậy." Bà kia ngước mắt lên trả lời.
"Sau rồi sao nữa?"
"Sau rồi?... chỗi dậy. Cuối năm mụ sinh được một đứa bé trai, sang năm mới này
nó hai tuổi. Tôi ở nhà đẻ tôi mấy hôm nay, có người ở Hạ gia úc về, nói hai mẹ
con mụ mẹ tròn con vuông; bên trên lại không có mẹ chồng; người đàn ông mụ được
cái sức mạnh, biết làm ăn; nhà thì ở nhà của mình. - ồ! Mụ thật đã bước sang
vận đỏ rồi."
Đó về sau, thím Tư không nhắc đến mụ Tường Lâm nữa.
Song le có một mùa thu năm nọ, ước chừng sau khi được tin mụ Tường Lâm bước sang
vận đỏ lại qua hai cái tết, mụ lại đã đứng ở trước nhà chú Tư rồi. Trên ghế đặt
một cái giỏ tròn hình củ mã thầy, dưới thầm một bó hành lý nhỏ. Mụ vẫn đầu vấn
cái dây trắng, quần đen, áo cộc kép màu chàm ngoài phủ áo lá màu xanh non, sắc
mặt vàng xanh, chỉ trên hai gò má đã mất máu, nhìn xuống, trên khóe mắt có ngấn
lệ, cặp mắt cũng không có tinh thần bằng trước kia. Vả lại cũng vẫn do bà Vệ già
đưa đến, làm ra vẻ từ bi, lãi nhãi nói cùng thím Tư rằng:
"... Thế này thật đúng như người ta nói: Thiên hữu bất trắc phong vân! Người đàn
ông mụ chắc nịch đi chứ phải, ai dè tuổi xanh hơ hớ, đau có một trận thương hàn
liền chết.
Thực thì đã đỡ rồi đấy, chỉ ăn vào có một bát cơm nguội, lại hát lại. May mà có
con trai; mụ lại hay lam hay làm, đốn củi, hái chè, nuôi tằm đều được cả; vốn
tình có thể ở vậy lắm, ai dè thằng bé lại bị chó sói tha đi ư? Mùa xuân sắp qua
rồi, chó sói còn xuống tới làng, ai ngờ đến? Hiện giờ mụ chỉ còn một mình trơ
trọi. Người anh chồng đến choán lấy nhà, lại đuổi mụ đi. Mụ thật hết chỗ dung
thân rồi, chỉ xin đến nhờ hai cụ. Được một cái là mụ hiện giờ không còn vướng
víu gì nữa; nhà cụ đây lại vừa ưa muốn thay người làm, cho nên tôi mới đưa mụ
đến. - Tôi tưởng quen nhà quen cửa, tốt hơn thuê người lạ nhiều..."
"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ Tường Lâm ngước cặp mứt thất thần lên nói tiếp theo,
"Tôi chỉ biết lúc sa tuyết, những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn, nó
mới xuống đến làng. Tôi có ngờ đâu qua mùa xuân rồi nó cũng vẫn xuống. Một buổi
mai sớm, tôi dậy mở cửa, xách chiếc giỏ nhỏ đựng đầy một giỏ đậu, gọi thằng A
Mao nhà tôi đem ngồi ở ngạch cửa bóc vỏ. Nó biết vâng lời lắm, tôi bảo gì nó
cũng vâng. Nó đi ra. Tôi bèn ở sau nhà bổ củi, vo gạo, trút gạo vào nồi toan ghế
đậu. Tôi gọi A Mao, không thấy thưa, đi ra xem, chỉ thấy đậu vung vãi trên đất,
không có A Mao nhà tôi. Nó có hề đi chơi nhà khác đâu; đi hỏi mấy nơi, quả thật
không có. Tôi sửng sốt, mượn người đi tìm. Cho đến xế chiều, tìm quanh quẩn đến
trong hóc núi, thấy trên cành gai mắc một chiếc giầy nhỏ của nó. Người ta đều
nói, thôi hỏng rồi, e bị chó sói rồi. Đi tới nữa, quả nhiên nó nằm trong đám cỏ,
ruột gan trong bụng đã bị moi ăn tất cả, ở tay còn khư khư nắm lấy chiếc giỏ
con..." Kế đó mụ nghẹn ngào, nói không thành câu nữa.
Thím Tư ban đầu còn ngần ngừ, đến khi nghe mụ nói xong, quầng con mắt có hơi đỏ.
Bà ta suy nghĩ một lát rồi bảo mụ xách cái giỏ và đồ hành lý xuống nhà dưới. Bà
Vệ già hình như thoát gánh nặng thở ra một cái; còn mụ Tường Lâm dáng người hơi
thư thái hơn hồi mới vào, chẳng đợi ai chỉ dẫn, tự mình nhanh nhẩu cất đồ hành
lý. Từ đó mụ ở lại Lỗ Trấn làm công.
Người ta vãn gọi mụ là mụ Tường Lâm.
Nhưng mà lần này, cảnh ngộ của mụ sẽ thay đổi nhiều lắm. Sau khi nhận việc vài
ba hôm, những người nhà chủ đã thấy ra mụ không còn nhanh tay nhanh chân như trước,
trí nhớ cũng hỏng đi nhiều, trên cái mặt như mặt ma lại cả ngày chẳng hề có dáng
cười; theo giọng nói của thím Tư, đã có hơi bất mãn. Lúc mụ mới đến, chú Tư tuy
cứ theo lệ cau mày, nhưng vì thấy lâu nay thuê được đứa ở gái khó lắm, nen cũng
không phản đối hẳn, chỉ dặn riêng thím Tư rằng thứ người ấy ngó như là đáng thương,
có điều làm bại hoại phong tục, dùng nó đỡ bận thì được, chứ khi cúng tế không
nên để nó mó tay vào, mọi sự nấu nướng chính mình phải làm lấy; chẳng thế, dơ
dáy bẩn thịu, ông bà ông vải chẳng ăn đâu.
Việc lớn trong nhà chú Tư là việc cúng tế; mụ Tường Lâm trước kia, khi bận rộn
lắm cũng vì việc cúng tế, lần này thì mụ lại rảnh tay. Cái bàn đặt giữa nhà,
treo cái màn lên, mụ còn nhớ làm như hồi xưa đi sắp chén rượu và đũa.
"Mụ Tường Lâm, mụ buông ra thôi! Để tôi soạn cho." Thím Tư vội vàng nói.
Mụ thụt tay không kịp, lại đi lấy cái đài cắm nến.
"Mụ Tường Lâm, mụ buông ra thôi! Để tôi lấy cho." Thím Tư lại vội vàng nói.
Mụ xây quanh mấy vòng, rốt lại không có việc gì làm, chỉ ngơ ngẩn đi khỏi đó.
Trong một ngày ấy cái việc mụ có thể làm được chỉ là ngồi dưới bếp chụm lửa.
Mọi người ở Lỗ Trấn cũng vẫn gọi mụ là mụ Tường Lâm, nhưng cái giọng gọi không
giống với trước kia. Họ cũng có nói chuyện cùng mụ, nhưng cái dáng cười đã trở
nên lạnh lùng rồi. Mụ toan không để ý đến những sự ấy, cứ nhìn thẳng tới, đăm
đăm kể lể với người ta cái chuyện mà chính mụ ngày đêm chẳng quên.
"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ nói, "Tôi chỉ biết luc sa tuyết những thú rừng ở
trong hóc núi không có gì ăn, nó mới xuống đến làng, tôi có ngờ đâu qua mùa xuân
rồi nó cũng vẫn xuống. Một buổi sớm mai, tôi dậy mở cưa, xách chiếc giỏ nhỏ đựng
đầy một giỏ đậu, tôi gọi thằng A Mao nhà tôi đem ngồi ở ngạch cửa bóc vỏ. Tôi
bèn ở sau nhà bổ củi, vo gạo, trút gạo vào nồi, toan ghế đậu. Tôi gọi: "A Mao",
không thấy thưa. Đi ra xem, chỉ thấy đậu vung vãi trên đất, không có A Mao nhà
tôi. Đi tìm hỏi mấy nơi, đều không có. Tôi sửng sốt, mượn người đi tìm. Cho đến
xế chiều, mấy người đi tìm đến trong hóc núi, thấy trên cành gai mắc một chiếc
giày nhỏ của nó. Người ta đều nói, thôi hỏng rồi, e bị chó sói rồi. Đi tới nữa,
quả nhiên nó nằm trong đám cỏ, ruột gan trong bung đã bị moi ăn tất cả, thương
hại trong tay nó còn khư khư nắm lấy chiếc giỏ con..." Thế rồi mụ chảy nướ mắt
ra, tiếng cũng nghẹn ngào đi.
Câu chuyện thế mà cũng có hiệu quả. Bọn đàn ông nghe đến đó, thường thường là
thôi cười, tiu nghỉu bỏ đi; bọn đàn bà lại chẳng những như là tha thứ cho mụ,
trên mặt còn đổi ngay cái bộ khinh bỉ, còn chảy giùm mấy dòng nước mắt. Có mấy
bà già không có ở đầu đường nghe chuyện mụ, bèn cố đi tìm cho được, để mụ kể mẩu
chuyện bi thảm ấy cho nghe. Khi mụ kể đến nghẹn ngào, họ thảy đều chảy những
giọt nước mắt đọng ở khóe, than thở một hồi, hả hê đi trớt, vừa đi lại còn vừa
bàn tán nhao nhao.
Mụ dầu chỉ kể đi kể lại có ngần ấy, nó là mẩu chuyện bi thảm, cũng thường thường
kéo được năm ba người đến nghe mụ. Song le chẳng bao lâu, người ta nghe đã thuộc
làu, dầu cho đến các bà cụ rất từ bi hay niệm phật, khóe mắt cũng ráo hơ. Sau
lại, mọi người ở vùng Lỗ Trấn đều có thể đọc trầm câu chuyện mụ, nghe qua một
cái là họ chán ngán đến nhức đầu.
"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ bắt đầu nói.
"Phải, chị chỉ biết lúc sa tuyết, những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn,
nó mới xuống đến làng." Bọn họ lập tức cắt đứt câu chuyện của mụ, bỏ đi trớt.
Mụ đứng sững há hốc miệng ra, đăm đăm nhìn bọn họ, rồi cũng bước đi, hình như
chính mụ cũng thấy là vô vị. Song le, mụ còn hay nghĩ bâng quơ, mong từ những
việc đâu đâu, như cái giỏ nhỏ, đậu, đứa bé của người khác, gợi ra câu chuyện thằng
A Mao của mụ. Nếu thấy được đứa bé hai ba tuổi một cái, mụ sẽ nói:
"ờ, thằng A Mao nhà tôi nếu còn sống, cũng đã lớn bằng này rồi."
Đứa bé thấy bộ tướng cặp mắt của mụ liền sợ hãi, níu vạt áo mẹ nó, giục đi đi.
Khi ấy còn lưa lại chỉ một mình mụ, mụ cũng tiu nghỉu bỏ đi nốt. Về sau người ta
lại đều biết cái dở hơi của mụ, mỗi khi có đứa bé nào ở trước mặt, họ nửa bỡn
nửa thực hỏi trước mụ rằng:
"Chị Tường Lâm nè, thằng A Mao nhà chị nếu còn sống, cũng đã lớn bằng này rồi
chứ gì?"
Mụ chưa chắc biết rằng câu chuyện bi ai của mụ đã được người ta nhấm nháp ngấu
nghiến bấy lâu nay, nó đã thành ra cặn bã, chẳng bõ chán nhàm và phỉ nhổ; nhưng
theo dáng cười của mọi người, mụ cũng hơi thấy được là lạnh lùng chua chát, thôi
thì mình chẳng cần còn nói nữa làm chi. Mụ chỉ liếc nhìn bọn họ một cái, không
trả lời nửa câu.
Lỗ Trấn cứ luôn luôn bước sang năm mới, hai mươi tháng chạp về sau là bận rối
lên. Trong nhà chú Tư lần này phải thuê trai làm ngày, còn chưa hết bận, gọi
thêm u Liễu làm giúp: giết gà, làm thịt ngỗng. Song le, u Liễu lại là tu tại gia,
ăn chay trường, không chịu sát sinh, chỉ việc rửa bát đĩa. Mụ Tường Lâm ngoài
việc chụm lửa chẳng có việc gì làm, rỗi lắm, chỉ ngồi xem u Liễu rửa bát đĩa.
Tuyết lớt phớt sa.
"Chao ôi, tôi thật khờ!..." Mụ Tường Lâm nhìn trời than thở, như nói một mình.
"Chị Tường Lâm, chị lại bắt đầu rồi." U Liễu trắng trợn nhìn mặt mụ, nói. "Tôi
hỏi chị: Cái sẹo trên khóe trán chị có phải bởi hồi đó động đầu mà thành ra
không?"
"ờ..." mụ trả lời ấp úng.
"Tôi hỏi chị: Hồi đó vì lẽ gì về sau chị cũng thuận đi?"
"Tôi ấy à?..."
"Chị nè, tôi tưởng: việc ấy cũng bởi chính mình chị đã bằng lòng rồi, chứ không
thì..."
"ồ! Chị không biết sức họ khỏe là dường nào..."
"Tôi không tin, không tin chị sức khỏe như thế mà lại chống cự không nổi. Chắc
chị về sau chính mình khứng chịu rồi, lại đổ tại sức họ khỏe."
"ồ, chị... Rồi chính mình chị thử xem." Mụ cười.
U Liễu cũng bật cười lên, làm lớp da nhăn trên mặt túm tíu lại như trái hồ dào.
Cặp mắt nhỏ và ráo hơ của u liếc nhìn khóe trán mụ Tường Lâm một cái, rồi giắt
mắt vào đó. Mụ Tường Lâm hình như rất ké né, tức thì không cười nữa, xoay chiều
mắt, đứng nhìn tuyết sa.
"Chị Tường Lâm, thực ra thì chị tính không gọn." U Liễu lại bắt đầu nói thả ví.
"Cứ làm già nữa, hay là văng mạnh động đầu đến chết đi một cái, chẳng đã xong
rồi. Bây giờ đây, chị cùng người chồng của chị ở với nhau chưa đầy hai năm, trở
mắc phải một cái tội lớn. Chị nghĩ xem, về sau chị xuống đến âm phủ, hai con ma
đàn ông ấy còn phải giành nhau, chị sẽ về tay ai cho ổn ư? Vua Diêm La chỉ có đem
chị cưa hai ra, cho mỗi đằng một nửa. Tôi nghĩ thật là..."
Trên mặt mụ liền hiện ra vẻ sợ hĩ, điều ấy ở trong làng rừng thật chưa hề biết
đến.
"Tôi nghĩ, chi bằng chị kíp tính cách đền bù đi. Chị hãy đến trong miếu thổ địA
Q.uyên cúng một cái ngạch cửa sau, coi là cái thân chị đấy, để cho ngàn người
xéo lên, muôn người bước qua, chuộc cái tội của một đời người, ngõ khỏi phải
chịu khổ hình sau khi chết."
Mụ bấy giờ cũng chẳng trả lời ra làm sao, song chừng là buồn rầu quá đỗi. Sáng
hôm sau chỗi dậy, trên đôi con mắt vầy hai cái quầng đen to tướng. Ăn cơm sáng
xong, mụ bèn đi đến cái miếu thổ địa ở xóm tây Lỗ Trấn quyên cúng một ái ngạch
cửa. Lão từ ban đầu còn làm dày chẳng khứng cho; mụ van thiết đến chảy nước
mắt, mới gắng gượng nhận lời. Giá cái ngạch là mười hai đồng bạc.
Mụ từ lâu không nói chuyện với ai được, vì câu chuyện thằng A Mao đã bị người ta
chán phè rồi; nhưng từ khi trò chuyện với u Liễu, hình như lại đồn đại ra, bao
nhiêu người nảy ra một cái thú vị mới, lại tìm đến mụ gạ chuyện. Đến như đầu đề,
tự nhiên là đổi một mẩu mới, băm vào cái sẹo ở trên trán mụ kia.
"Chị Tường Lâm! Tôi hỏi chị, lúc đó vì lẽ gì sau lại chị cũng chịu quách?" Một
người nói thế.
"ờ, đáng tiếc thật, động đầu một cái toi." Người khác nhìn cái sẹo mụ, phụ họa
theo.
Mụ cứ ở dán cười giọng nói của bọn họ, chừng cũng biết là đang chế nhạo mình,
nên chi chỉ cứ trừng mắt, chẳng nói một lời, sau đến không quay đầu lại nữa. Mụ
cả ngày ngậm chặt mồm, trên đầu đeo mãi cái sẹo mà người ta cho là cái dấu hiệu
nhơ nhuốc, cứ lẳng lặng đi đường phố, quét nhà, rửa rau, vo gạo. Vừa đầy một
năm, mụ mới nhận lấy ở tay thím Tư món tiền công bấy lâu còn gửi lại, đổi lấy mười
hai đồng bạc, xin phép đi đến xóm tây Lỗ Trấn. Chưa đến ăn xong bữa cơm, mụ đã
trở về, sắc mặt rất tươi tỉnh, mắt cũng sáng lên, nói với thím Tư như tuồng đắc
ý lắm, rằng mình đã quyên cúng cái ngạch cửa ở miếu thổ địa rồi.
Sang đông chí, ngày tế tổ, mụ ra sức làm việc. Thấy thím Tư soạn sửa cúng xong,
cùng A Ngưu khiêng cái bàn đến giữa nhà, mụ liền quày quả đi lây chén rượu và đũa.
"Mụ buông ra thôi, mụ Tường Lâm!" Thím Tư lại giật giọng nói.
Mụ thụt tay lại như là bị bỏng, tức thì sắc mặt đổi ra đen xám, cũng chẳng đi
lấy đài cắm nến nữa, chỉ đứng sững thất thần. Cho đến lúc chú Tư thượng hương,
bảo mụ đi, mụ mới đi. Lần này mụ thay đổi hơn lần nào cả: ngày hôm sau, chẳng
những mắt sâu vào, đến cả tinh thần cũng càng kém. Lại thêm nhát gan quá, chẳng
những sợ đêm tối, sợ bóng đen, đến thấy người ta, dầu người chủ mình, cũng nơm
nớp chẳng khác con chuột nhắt đi ra khỏi hang giữa ban ngày. Chẳng thế thì ngồi
đực ra như con người gỗ. Không tới nửa năm, tóc cũng bắt đầu bạc hoa râm, trí
nhớ đến hỏng, rất đỗi thường thường quên lửng đi vo gạo.
"Mụ Tường Lâm ra làm sao ấy, biết vậy hồi đó không để mụ ở lại mà hơn." Thím Tư
có lúc đã nói như thế trước mặt mụ hình như muốn cảnh cáo.
Nhưng mà mụ vẫn cứ thế, không còn mong gì lanh lợi hơn lên. Bấy giờ họ mới tính
cho mụ ra, bảo mụ về với bà Vệ già. Song le, đang lúc tôi còn ở Lỗ Trấn, họ chỉ
nói thế thôi; mà xem như tình trạng hiện giờ, biết rằng sau lại đã thực hành điều
ấy. Tuy vậy, mụ trở nên ânmỳ ngay khi ra khỏi nhà chú Tư, hay là trước đến nhà
bà Vệ già rồi sau mới đi ăn mày thì tôi không biết.
Tôi bị những tiếng pháo đốt gần nổ rất to đánh thức, thấy ngọn đèn sáng vàng bằng
hột đậu, kế đó lại nghe pháo tràng rẹt rẹt, ấy là nhà chú Tư đang làm lễ "chúc
phước", biết rằng đã sang canh năm rồi. Trong mơ màng, tôi lại mường tượng nghe
những tiếng pháo xa xa liên miên chẳng dứt, như họp lại thành đám mây đặc có tiếng
vang giậy trời, cùng với hoa tuyết quây quần bay múa, ôm ấp cả một thị trấn. Tôi
ở trong sự ôm ấp xôn xao ấy cũng thấy phờ người ra mà khoăn khoái, bao nhiêu sự
lo ngại từ ban ngày đến hồi đầu hôm đều nhờ cái không khí chúc phước quét sạch
cả, chỉ cảm thấy trời đất quỷ thần đã hâm hưởng những rượu thịt và hương khói, đều
say gật gù đi khệnh khạng giữa khoảng không, sẵn sàng ban phát cho mọi người ở
Lỗ Trấn những hạnh phúc vô ngần.
(Tháng 7 năm 1942)
----------
(1) Lỗ Tấn cứ hay công kích bọn phản động, cho nên thường thường bị họ đặt điều
nói xấu, phao đồn những tin không lành cho. Đau bệnh thần kinh là điều họ bịa
đặt, cũng như có những lần phao tin trên báo, nói Lỗ Tấn bị cảnh sát đánh gãy
hai răng cửa, bị bắt giam, bị giết hay là đã chết rồi.
(2) Câu này, lời của một vị Tống nho, thấy trong sách Tính lý, nguyên văn là:
"Quỷ thần thị nhị khí chi lương năng." Nhị khí là âm và dương; lương năng cũng
như nói bản năng. Nếu thật có quỷ thần, và quỷ thần, theo Tống nho nói, chỉ là
bản năng của âm dương, thì nó là một sức hoạt động tự nhiên, chẳng có gì làm cho
người ta mê tín. ý tác giả muốn nói ông cụ Tư tuy đã đọc qua câu ấy rồi mà vẫn
cứ mê tín, kiêng kỵ. |