Sự đấu tranh về văn học của Lỗ
Tấn
Sau vận động "Ngũ tứ", trên văn đàn Trung Quốc, Lỗ Tấn thật
giống như một vị tướng quân, thanh gươm yên ngựa, tả đột hữu xung, hễ có
một đám giặc cỏ nào là một mình ra trận, bách chiến bách thắng.
Sau khi "Tử dực tác gia liên minh" thành lập, đề xướng văn học vô sản ở
năm 1930, các thứ văn học phản động ở Trung Quốc mọc ra như nấm, tàn lớp
này, lên lớp khác, đều bị Lỗ Tấn quét dọn sạch cả. Điều ấy có thể kể là
một công trạng rất lớn của Lỗ Tấn.
Trước tiên, nhân phê bình mấy bản dịch lý luận văn nghệ vô sản của Lỗ Tấn,
giáo thụ đại học Lương Thực Thu đưa ra cái thuyết văn học không có giai
cấp tính. Lương Thực Thu vẫn nhìn nhận rằng trong xã hội có giai cấp tư
bản và giai cấp vô sản, nhưng lại chủ trương rằng văn học thì có một, đem
sự phân chia giai cấp buộc cho văn học là sai lầm. Bởi vì một nhà tư bản
và một người lao động tuy có chỗ khác nhau nhưng có chỗ giống nhau. Hai đằng
cùng có một "tính người" là như yêu, thương, mừng, giận, ghét, mà văn học
là thứ nghệ thuật để biểu hiện cái tính người ấy.
Lỗ Tấn bác cái thuyết ấy, đại ý nói rằng văn học muốn biểu hiện tính người
thì phải thông qua "người", nếu không thông qua "người" thì không làm sao
biểu hiện "tính" được. Đã thông qua người mà người còn ở trong xã hội có
giai cấp, thì tất nhiên không vứt bỏ đi đâu được cái giai cấp tính mà người
thuộc về. Đó là cái lẽ tất nhiên như thế, không cần phải đem giai cấp tính
"buộc cho" văn học. Cố nhiên là ai cũng có yêu, thương, mừng, giận, ghét,
nhưng những cái đó của mỗi giai cấp khác nhau : lão Tiêu Đại không yêu cô
Lâm tiểu thư(1), người ăn mày không có cái buồn rầu của nhà buôn to phá
sản, ông triệu phú nước Mỹ không thấy cái khổ của mụ già vạch tìm mẩu bánh
vụn trong đống rác ở đường phố Bắc Kinh, anh cố nông không có hứng thú thưởng
hoa thủy tiên ngày tết... Cho nên, để được biểu hiện cái tính người của
giai cấp vô sản, giai cấp vô sản phải có văn học vô sản của họ.
Cái thuyết của Lương Thực Thu còn nhiều điểm nữa, bài bác luận của Lỗ Tấn
rất dài, cứ đánh đổ từng điểm một, trên đây chỉ lược thuật một điểm trọng
yếu mà thôi.
Trong khi đàn áp văn học vô sản, cấm sách báo, giết hại các nhà văn tả dực,
bọn thống trị tập lập với một bọn bồi bút, rồi có những kẻ đề xướng thứ
văn học "dân tộc". ý nghĩa bốn chữ ấy theo Lỗ Tấn giải thích là : Họ
nghiên cứu màu da mặt của các giống người, rồi quyết định rằng hễ giống người
cùng chung một màu da mặt thì phải đi rập với nhau một đường hành vi, cho
nên giai cấp vô sản da vàng không nên đấu tranh với giai cấp hữu sản da
vàng, mà phải đấu tranh với giai cấp vô sản da trắng. Gọi bằng "dân tộc"
là vậy đó, văn học của họ nhằm theo con đường đó mà phát triển.
Có một người trong phái văn học dân tộc ký tên là Thanh Cồ, viết một bài
trên báo, đầu đề là "Một trang chiến sử chinh Nga của nước ta", đại khái
nói rằng : "Thành Cát Tư Hàn đời Nguyên, dấy từ Mông Cổ, vào làm chủ Trung
Quốc. Đến triều vua Thái Tôn năm thứ bẩy, lại khiến Tốc Bất Đài theo các
vương Bạt Đô, hoàng tử Quy Do đánh Tây Vực. Năm thứ mười bèn cử đại binh đánh
Nga, hãm thành Mạc Tư Khoa. Con trưởng vua Thái Tổ là Truật Xích lên ngôi
khắc hàn(2) tại đó. Thật là một việc lịch sử từ xưa chưa hề có. Vả, các vị
anh chủ sáng nghiệp đời xưa, dù có mở rộng bờ cõi đến đâu đi nữa cũng chưa
hề có ai xâm nhập đến đất châu Âu, rắp hỗn nhất cả châu á châu Âu như vậy.
Vậy mà chẳng cho là một trang lịch sử vẻ vang của nước ta được ư ?...".
Một dịp cho Lỗ Tấn đập nát cái mặt nạ văn học "dân tộc". Ông viết rằng : "Chỉ
có một ông Thanh Cồ là người Mông Cổ thì mới nói như thế được. Nếu không
thì, Thành Cát Tư Hàn vào làm chủ Trung Quốc. Truật Xích lên ngôi khắc hàn
tại Mạc Tư Khoa, bây giờ cái cảnh ngộ hai nước Trung, Nga chúng ta giống
nhau, đều là bị người Mông Cổ chinh phục. Tại sao người Trung Quốc đời nay
lại nhận bướng người Mông Cổ là ông cha mình, vênh mặt lên kiêu ngạo với
giống người Slavơ là kẻ đồng chịu áp bách với mình ?".
Lúc bấy giờ, năm 1931, Nhật Bản bắt đầu đánh Đông Bắc, toan dùng Trung
Quốc làm bàn đạp để đánh Liên Xô, mà Tưởng Giới Thạch ra lệnh "bất để
kháng", bị nghi là đồng mưu với Nhật, toan theo Nhật để tiêu diệt Cộng
sản, cho nên Lỗ Tấn viết nốt : "Hỡi ôi ! Nga đỏ chưa đi đánh mà cái mặt
ngốc đã lòi ra, thật không phải là một trang chiến sử vẻ vang của nước ta
vậy !". "Cái mặt ngốc", chẳng những chỉ Thạch Cồ là người viết bài mà cũng
chỉ cả phe văn học "dân tộc", hay là chỉ cả đến Tưởng Giới Thạch nữa.
Thế rồi cái lớp tuồng "văn học dân tộc" hạ màn.
Nhưng mà chưa hết đâu, tiếp đó còn xuất hiện cái gọi bằng "người loại thứ
ba", đề xướng văn học của người loại thứ ba. Loại thứ ba nghĩa là : họ
nhận rằng giới văn học hiện có hai loại người, một là loại người tả dực,
một là loại người hữu dực, họ không phải tả mà cũng không phải hữu, cho
nên họ là người thuộc về loại thứ ba, là người vượt ra bên ngoài tả hay
hữu. Thứ văn học này, cũng theo Lỗ Tấn giải thích : "Họ cho rằng văn học
là vĩnh cửu, hiện tượng chính trị là tạm thời, cho nên văn học không thể
dính dấp với chính trị, hễ dính dấp thì mất cái vĩnh cửu tính của nó,
Trung Quốc từ đó sẽ không có tác phẩm vĩ đại".
Nhưng mà đã lâu, "người loại thứ ba" vẫn không có tác phẩm ra hồn, chứ đừng
nói tác phẩm vĩ đại. Họ đổ tại nhà phê bình tả dực không hiểu văn học, phê
bình cộc cằn mà không đúng, đụng ai cũng mắng là "chó sân nhà tư bản" nên
họ phải "gác bút".
Lỗ Tấn nói : "Thực ra, cái nguyên nhân "người loại thứ ba" gác bút không
phải tại tả dực phê bình cộc cằn, mà tại họ không làm nên "người loại thứ
ba" được. Hễ không làm nên "người loại thứ ba" được, thì cũng không có được
ngọn bút loại thứ ba, chứ chưa nói đến gác với chẳng gác.
"Sống ở trong xã hội có giai cấp mà muốn làm nhà văn siêu giai cấp, sống ở
thời đại chiến đấu mà muốn lìa khỏi chiến đấu, sống ở hiện tại mà muốn viết
tác phẩm dành cho tương lai, người như thế là một cái ảo ảnh do tâm tạo,
chứ không có thể có trong thế giới hiện thực này được."
Cuối cùng, Lỗ Tấn tỏ ý rằng tuy họ xưng mình là "người loại thứ ba" nhưng
họ không thể vượt khỏi giai cấp, không thể lìa khỏi chiến đấu, không thể
nhảy ra khỏi hiện tại, thì tác phẩm của họ cũng phải thế. Nếu họ không tự
dối mình, không treo lên cái chiếu bài giả mạo, thì họ hãy ráng sức mà
sáng tác đi.
Đối với thứ văn học này, hình như Lỗ Tấn không công kích kịch liệt lắm như
đối với thứ văn học dân tộc, hình như muốn khuyên họ quay đầu lại với hiện
thực, nhưng rốt lại, "người loại thứ ba" vẫn tiêu diệt, văn học của họ
cũng tiêu diệt theo.
Còn một thứ văn học nữa gọi là văn học nhàn thích, cũng xuất hiện cùng một
thời đó. Người chủ trương thứ văn học này là Lâm Ngữ Đường, bạn với Lỗ
Tấn, nhưng nhiều lần chỉ trích cái chủ trương ấy, Lỗ Tấn không hề nể mếch
lòng bạn.
Lâm Ngữ Đường ra hai cái tạp chí vào khoảng 1933 - 1936, trước là Luận ngữ,
sau là Nhân gian thế, đề xướng lối văn "u-mua"(3) và lối văn tiểu phẩm(4)
của người Minh - Thanh, lấy "nhàn thích" làm tôn chỉ, - nhà thích có ý là
di dưỡng tính tình, di dưỡng tính tình của tác giả cũng của độc giả nữa.
Lỗ Tấn nói : "Những cái gì của ông Ngữ Đường đề xướng ra, tôi thường hay
phản đối... Bây giờ đây là lối văn u-mua. Tôi không thích u-mua. Tôi cho
rằng cái lối văn u-mua chỉ có thứ dân ưa mở hội nghị bàn tròn(5) mới chơi
được, chứ ở Trung Quốc không có cả đến cái chữ để dịch nó cũng không có".
Theo Lỗ Tấn, người Trung Quốc không sở trường lối văn u-mua, nếu miễn cưỡng
bắt chước, rốt cuộc chỉ biến thành "bông phèng". Ông có dẫn lời Ngữ Đường
: "... Làm người phải đứng đắn, không nên đi vào con đường bất chính... Nhưng
làm văn không giống làm người, phải u-mua, phải đùa đùa cười cười, phải
khoái hoạt...". Đùa đùa cười cười là bông phèng chứ gì ? Mà bông phèng là
làm hề, chứ đâu có phải làm văn !
Huống chi, trong khi Lâm Ngữ Đường đề xướng u-mua đó, Nhật Bản đánh chiếm
Đông Tam tỉnh, Du Quan thất thủ, Nhiệt Hà nguy ngập, lại thêm Hoàng Bà vỡ
đê, nhân dân nheo nhóc, nỡ lòng nào ngồi yên mà đùa đùa cười cười ? Lỗ Tấn
kéo Ngữ Đường trở về với hiện thực : "Hiện lúc này là lúc không có thể
u-mua... Chính tạp chí Luận ngữ mà cũng không u-mua được, còn mong gì
những người ở mấy miền đạn trái phá đầy trời, nước lụt tràn đất mà lại
u-mua được !".
Trong một bài tạp văn viết tháng tư năm 1934, Lỗ Tấn có nói : "Năm ngoái
là năm "u-mua" gặp vận đỏ... Không ngờ năm nay nó đảo vận, hết thảy tội ác
đều đổ về nó...". Đó là cái tin cáo phó cho lối văn u-mua.
Nói đến lối văn tiểu phẩm, Lâm Ngữ Đường cho rằng văn tiểu phẩm có cái đặc
sắc là "tả tính linh". Theo ý Lỗ Tấn, có một số người tả được tính linh
thật, nhưng cái đó không có gì là đặc sắc. Bởi hoàn cảnh đương thời và
sinh hoạt của tác giả, họ chỉ có ý tứ như thế thì họ viết ra như thế. Nhưng
không phải tất cả văn tiểu phẩm đều "nhàn thích". Có những tác giả khi gặp
nguy nan cũng pha giọng cảm thương phẫn khích. Những sách về thứ tiểu phẩm
ấy trải qua nhiều lần "văn tự ngục" đời Thanh, đều bị đốt, bị hủy bản, cho
nên những văn tiểu phẩm còn lại đến ngày nay mà chúng ta thấy, chỉ là thứ
"tính linh" siêu hiện thực, "đi nửa lưng trời". Nhưng tác gia tiểu phẩm
ấy, Lỗ Tấn nói, "lúc còn có nước là cao nhân, lúc nước mất rồi cũng không
mất chi làm dật sĩ. "Sĩ" thì trỗi hơn thường dân, "dật" thì trốn khỏi
trách nhiệm. Hiện giờ, người ta đặc biệt đề cao văn tiểu phẩm Minh - Thanh,
thực ra là có lý lắm, không lấy gì làm lạ".
Câu nói của Lỗ Tấn vừa mới thuật lại trên đây nghe như lơ lửng mà sâu sắc
lắm : Sống ở một nước đang nguy khốn như thế, một thời đại cạnh tranh kịch
liệt như thế, mà chỉ "tả tính linh", chuộng "nhàn thích", đặt mình ra khỏi
cuộc đời, chẳng phải trốn trách nhiệm là gì ? Ba chữ "có lý lắm", ý muốn
nói Lâm Ngữ Đường vì trốn trách nhiệm nên đề xướng tiểu phẩm Minh - Thanh.
Tiếp đó Lỗ Tấn nói tiên tri một câu : "Nhưng cái mộng làm cao nhân kiêm
dật sĩ không được lâu dài đâu !". Quả nhiên trong năm 1936 thì Nhân gian
thế đình bản, Lâm Ngữ Đường đi sang Mỹ làm giảng sư ở một trường đại học.
Ngoài sự đấu tranh về văn học, Lỗ Tấn còn đấu tranh về nghệ thuật nữa.
Trong những tập tạp văn của ông có nhiều bài nói về hội họa, về khắc gỗ.
Nhất là về khắc gỗ, ông chú ý đặc biệt, săn sóc đặc biệt. Trong Lỗ Tấn thư
giản, có một số đông nghệ sĩ khắc gỗ thư từ đi lại với ông nhiều lần. Có
thể nói rằng, Lỗ Tấn là người phục hưng cái bộ môn nghệ thuật này ở Trung
Quốc về cận đại. Chỉ vì tôi dốt nghệ thuật cho nên trong bài này tôi không
dám bình luận đến.
Văn nghệ, Hà Nội, số 92, 27-10-1955
(1) Đây lấy điển trong
Hồng lâu mộng. Tiêu Đại là người đầy tớ già trong Giả phủ, còn Lâm tiểu thư tức
Lâm Đại Ngọc, cô con gái đẹp và hay chữ, cháu ngoại của Giả phủ.
(2) Khắc hàn là hiệu vua Mông Cổ, cũng như hoàng đế. Tức trong tiếng Tây là
Khan. ở chữ Hán, khi nào nó đi với tên người thì nói hàn, như Thành Cát Tư Hàn,
khi nào nó đi một mình thì nói Khắc hàn.
(3) U-mua, dịch âm tiếng Anh, tức tiếng Pháp là humour. Chữ này có nghĩa như là
"trào phúng" nhưng không đúng hẳn. Cho nên Trung Quốc cũng chỉ dịch âm, không có
chữ để dịch nghĩa cho đúng được.
(4) Văn tiểu phẩm là lối văn viết những bài ngắn ngắn nói về tình cảm hứng thú
gì của cá nhân, không đụng chạm đến việc nước, việc chính trị.
(5) ám chỉ người Anh. |