30.
HOÀNG CẦM
Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ
Việt Bắc
Cần thống nhất với nhau về thái độ phê bình:
Tôi sẽ không nói đến những lời gay gắt thiếu bình tĩnh hoặc giọng tán tụng lấy
được của một vài bạn trong cuộc tranh luận này. Tôi sẽ nói đến một vấn đề quan
trọng hơn.
Tìm tòi, tranh luận về một khía cạnh nào của một nhà thơ hay một tập thơ không
phải để phân ngôi thứ trong làng thơ. Bởi vậy không nên hỏi rằng "thế bây giờ
thì thơ ai hiện thực nhất?" Nếu thơ Tố Hữu chưa hiện thực thì nói là chưa hiện
thực, chứ không nên vì "hiện nay cũng chưa có thơ ai được hoan nghênh như thơ Tố
Hữu, thì ta cứ cho là thơ Tố Hữu hiện thực nhất".
Ðọc thơ, nếu không tỉnh táo ta dễ rơi vào thói quen "tán" thơ, tỉa tót từng câu
từng chữ, suy luận ra hàng nghìn ý nghĩa sâu xa. Ðó là lối chơi núi non bộ, thấy
hòn non bộ giông giống một cảnh đời thì liền cho nó là cảnh đời, và vui thú với
cảnh "đời" nhỏ mọn đó. Chính vì vậy mà hòn non bộ vẫn hấp dẫn, an ủi được những
tâm hồn già yếu, bất lực trước cuộc sống vĩ đại.
Nếu đó chỉ là vấn đề thưởng thức văn nghệ của một số cá nhân thì sự tai hại còn
ít. Nhưng nếu đó lại là thái độ phê bình văn nghệ mà người ta đem phổ biến thì
thật nguy hiểm vô cùng.
Người phê bình văn nghệ, nhất là ở trường hợp tranh luận về một khía cạnh của
tác phẩm như chúng ta đang làm đây, phải có cách nhìn sâu vào cuộc đời, vào thực
tại khách quan, mới có thể đem ngòi bút phê bình hướng cho văn nghệ đi lên. Nếu
chỉ thỏa mãn ở cảnh non bộ, tức là bắt văn nghệ đứng một chỗ, tức là lùi.
Hồn
thơ và lập trường:
Tiêu chuẩn phê bình văn học là chủ nghĩa hiện thực mới. Nhân dịp phê bình tập
thơ
Việt Bắc
chúng ta cùng nhau đem ánh sáng của chủ nghĩa hiện thực mới soi rọi vào tập thơ
đó và cùng nhau học tập, luyện chắc ngòi bút phục vụ cách mạng và nhân dân.
Lần này, bổ sung ý kiến mà tôi đã phát biểu, tôi chỉ muốn nói đến hồn thơ của
thi sĩ, là một mặt trong chủ nghĩa hiện thực mới.
Thái độ của thi sĩ trước cuộc đời, Ðảng tính, chiến đấu tính, tư tưởng tính,
nghệ thuật tính, dân tộc tính v.v... đều gồm ở hồn thơ của thi sĩ.
Nhưng hồn thơ là gì? Nó vô hình chăng? Hồn thơ là ở thực tế sinh hoạt xã hội, ở
giai cấp của bản thân thi sĩ, ở cách nhìn cuộc đời nhìn con người của thi sĩ.
Cho nên hồn thơ gồm hai yếu tố thống nhất lại: đó là thực tế xã hội mà thi sĩ đã
sống và đang sống và cách nhìn của thi sĩ vào thực tế ấy. Nhiều khi, thi sĩ có
yếu tố thực tế mà cách nhìn sai lạc thì hồn thơ cũng hỏng. Nhiều khi có cách
nhìn đúng mà thiếu thực tế thì thơ cũng không có hồn, hoặc chỉ là cái "hồn" rất
riêng của bản thân thi sĩ tách rời thực tế, không ích lợi gì cho thời đại.
Ta đã từng nghe, đọc trên báo chí vùng tạm chiếm trước đây một số bài thơ "ngụy"
cũng hô hào yêu nước, diệt xâm lăng, cũng thương xót nòi giống, nhưng toàn là
những tiếng hão, không có hồn, vì hồn người làm thơ đã xa lìa quần chúng, xa lìa
cả đến ý nghĩa của những tiếng kia rồi. Không có rung động thực, nhất định thơ
sẽ khô khan hoặc giả tạo. Thi sĩ rung động thế nào thì thơ toát ra như thế.
Hồn thơ tóm lại chính là lập trường, là tâm hồn của thi sĩ. Trong một bài thơ,
cái hồn đúc lại do lời, do hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu. Nó toát ra ngoài những
tiếng, những chữ, tưởng như nó vô hình nhưng chính nó mới là sức tác động tâm
hồn người đọc, người nghe.
Trở
lại cái yếu đuối của hồn thơ Tố Hữu:
Bài trước, tôi nói thơ Tố Hữu thường phảng phất buồn. Tôi không phản đối tất cả
những bài thơ buồn, vì ta không thể bắt thi sĩ phải làm thơ vui khi thi sĩ muốn
diễn tả cái buồn có thật trong lòng mình và trong cuộc đời. Nhưng thơ Tố Hữu
phảng phất cái buồn vô duyên cớ, cái buồn tiểu tư sản chứ không phải cái buồn
đau xót thấm thía đưa đến căm thù và phấn đấu. Hướng đi lên của thời đại của
nhân dân là khỏe: vui khỏe, nhớ khỏe, buồn khỏe, căm giận khỏe, yêu thương khỏe.
Vui buồn yêu ghét của nhân dân cách mạng đều có cái đặc tính là khỏe khoắn, chắc
nịch. Những bà mẹ có con đi bộ đội rất nhớ con, nhưng sâu sắc lành mạnh, thấy
đứa con mình ra người, chứ không yếu đuối như bà bủ của Tố Hữu. Bà cụ này không
còn sinh lực, loanh quanh với cái nhớ u ám trên ổ chuối khô. Ở bài “Bà mẹ Việt
Bắc”, bà cụ này tương đối khoẻ hơn bà bủ và anh bộ đội trong nhiều bài khác, thế
mà hồn thơ Tố Hữu vẫn cứ cài vào cho bằng được cái yếu đuối trong ba dòng lục
bát:
Phên
nan gió lọt lạnh lùng
Ngọn
lửa bập bùng, mé khóc rưng rưng
Nghẹn
ngào chuyện cũ nửa chừng...
Ðó, cái hồn yếu đuối của nhà thơ. Ðó, cái tiểu xảo của tác giả dùng để khêu gợi
một cảnh heo hắt rất không cần thiết cho bài thơ.
Tố Hữu đã bắt cái thực tế (bà bủ, bà mẹ Việt Bắc) nhịp theo cái yếu đuối, cô độc
của tâm hồn mình. Nếu nói bà bủ tiêu biểu hay đại đa số bà bủ (nông dân) thì
trằn trọc suốt đêm là vì căm thằng địa chủ cướp mất ruộng, vì mừng một tin chiến
thắng, vì phải tính chuyện sản xuất thế nào, v.v... Còn đứa con đi bộ đội, nhớ
nó nhưng không bao giờ chỉ nhớ loanh quanh với toàn những hình ảnh khổ cực như
thế mà mất cả một đêm. Thi sĩ lại bắt ngọn lửa, phên nan ở trên nhà sàn cũng hiu
hắt theo chiều tâm hồn vắng lạnh của mình chứ không theo thực tế. Vì thực tế là
cảnh nhà sàn đêm khuya, dù bên trong có ôn lại chuyện đau khổ ngày xưa, đối với
người dân Việt Bắc cũng như đối với cán bộ kháng chiến không hề có vẻ thê lương
ảm đạm. Ðó, cách thi sĩ nhìn vào cái nhớ, cái thương của những bà mẹ trong cách
mạng, trong kháng chiến. Theo ý tôi, cách nhìn đó là cách nhìn tiểu tư sản.
Còn cách nhìn hòa bình của Tố Hữu thế nào? Ðường rộng, cảnh đẹp, đi những bước
ung dung đến thống nhất. Bài “Ta đi tới” có một không khí nhẹ nhàng thoải mái,
đường mở rộng thênh thang từ Bắc đến Nam. Nó không diễn tả được cái thực chất
bước đi của dân tộc sau khi hòa bình lập lại. Chỗ nào giặc còn tạm đóng, nơi ấy
còn đe dọa, còn máu, nước mắt. Hòa bình không dễ dàng. Cái mừng hòa bình gắn
ngay với lo âu, với căm thù, phấn đấu: Nạn đói đe dọa, địch cưỡng ép di cư, tan
cửa nát nhà vì đế quốc Mỹ và bè lũ hiếu chiến. Gió mát hòa bình gắn ngay với mồ
hôi kiến thiết, đường sắt, đập, kè, ruộng hoang, nhà máy. Vì vậy bài “Ta đi tới”
chỉ có tác dụng trong một lúc bàng hoàng vui sướng khi hiệp định Giơ-ne-vơ vừa
ký xong. Nó rất hợp với những tâm hồn xa thực tế đấu tranh, coi hòa bình như cơn
gió mát, không còn giặc, không còn máy bay, được đi giữa ban ngày hưởng thắng
lợi hòa bình, rồi đi đến thực hiện thống nhất một cách thực ngon lành. Cách nhìn
hòa bình thống nhất của tác giả là cách nhìn lạc quan tiểu tư sản, không phải
cái lạc quan cách mạng xây dựng trên một lòng tin sắt đá, cụ thể vào từng bước
đấu tranh gay go, gian khổ, nhưng vững chãi, quyết thắng.
Khi hòa bình rồi, chính phủ về thủ đô, thi sĩ thấy ngay cảnh biệt ly man mác (“Việt
Bắc”).
Người ở lại Việt Bắc mất hút vào rừng vào núi, người về xuôi cũng mất hút vào
phố phường đông đúc. Bài thơ này trái với cách nhìn cách mạng: Việt Bắc, thủ đô,
toàn quốc là một. Vui chung hòa bình, lo chung phấn đấu. Sao tác giả lại chia
Việt Bắc và thủ đô ra làm đôi, chia người ở, kẻ về ra làm đôi, cố tình chia cho
thành đau khổ để rồi an ủi, hứa hẹn - hứa hẹn rất nhiều mà vẫn bi.
Chia tay Việt Bắc rồi, khi gặp lại Hà Nội, thi sĩ thật là một khách du, đi xa
tám năm nay gặp lại một người tình cũ. Hai người nói với nhau vài câu cửa miệng,
nhưng không thực bụng yêu nhau:
Người
đi kháng chiến tám năm giời!
Người dân của Hà Nội ở lại thủ đô, từ sau khi lực lượng vũ trang của ta tạm rút
ra ngoài, đã cùng với nhân dân toàn quốc, cùng với bộ đội tạo nên ngày
10-10-1954, ngày mà thi sĩ "lại về" Hà Nội. Vùng tạm chiếm, vùng tự do đã "gặp"
nhau trong trường kỳ kháng chiến từ tám năm rồi. Tại sao lại cách biệt đến thế?
Có người về, kẻ đợi thật đấy, nhưng sự thực điển hình vẫn là khối thống nhất đã
tạo nên ngày lịch sử đó.
Từ giã Việt Bắc, thấy xa Việt Bắc, mang tâm tình bàng quan của một khách du đi
kháng chiến tám năm trở lại Hà Nội, cũng hời hợt, ít thắm thiết với Hà Nội, đó
là một điệu tâm hồn của thi sĩ đã hiện ra ngoài lời thơ.
Thành ra từ bài “Ta đi tới” đến bài “Lại về”, tôi thấy hiện ra cái hồn thơ thoải
mái nhẹ nhàng, yếu ớt, chênh vênh của thi sĩ. Hồn thơ ấy lạc lõng bên cạnh một
sự thật vĩ đại của một thời kỳ lịch sử.
Tôi có thể tóm tắt cách nhìn của Tố Hữu như sau:
Ðó là cách nhìn tiểu tư sản rất có hệ thống trong suốt tập
Việt Bắc.
Nội dung thơ Tố Hữu có nhiều đức tính gần thời đại, gần con người. Nhưng những
ưu điểm của thơ Tố Hữu chưa đủ chất lượng của một ngòi bút hiện thực mới.
Thơ Tố Hữu
mới gần thời đại, gần con người mới, chứ chưa phải là thời đại và con người mới
đã hiện lên trong thơ Tố Hữu.
[1]
Thơ Tố Hữu có tình yêu nước trong sáng, thiết tha nhưng thiếu cụ thể. Tình yêu
nước của thơ Tố Hữu nhẹ quá, dễ bay thoảng.
Vì vậy đa số các bài thơ trong
Việt Bắc
có tác dụng động viên tuyên truyền, nhưng chưa đến một trình độ tư tưởng và nghệ
thuật sâu sắc.
Do cách nhìn tiểu tư sản của thi sĩ, nhiều bài có xúc động với thực tế, có dụng
ý rất tốt (như bài “Việt Bắc”) bỗng trở nên không đúng. Ví như tác giả gạt đi
những đoạn thơ lai láng biệt ly (kiểu Nguyễn Du, Tản Ðà) ở bài “Việt Bắc”, giữ
lại những đoạn rung động nhiệt thành với thực tế, thì chúng ta có được cả mối
tình nhớ Việt Bắc đằm thắm, thân mật. Ta sẽ có mươi lăm dòng ý vị ngọt ngào làm
cho ta nhớ Việt Bắc, tác dụng ấy tốt hơn là để người đọc thấy chia ly ngậm ngùi,
heo hút, lê thê hàng trăm câu.
Tôi rất đồng ý với nhiều bạn cho rằng thơ Tố Hữu làm ta thêm yêu nước, yêu bộ
đội, yêu nhân dân, yêu chiến thắng, yêu hòa bình. Ðó là ưu điểm của Tố Hữu.
Nhưng nhược điểm của Tố Hữu là những tình yêu đó còn yếu ớt, chưa vững chắc, cụ
thể, chưa toát ra ngoài bài thơ thành một sức mạnh truyền cảm mãnh liệt. Ðó là
một sự thực khách quan chứ không là tưởng tượng do cái "bệnh thời đại trong văn
nghệ" mà bạn Vũ Ðức Phúc đã gán cho tôi.
Kết
luận:
Tôi tin chắc chính Tố Hữu, và một số đông các bạn cũng như tôi, chưa thỏa mãn về
những ưu điểm của thơ Tố Hữu. Chúng ta đòi hỏi ở các người làm thơ:
Tôi mượn mấy câu ca dao cũ để chứng dẫn sự đồng tình của tôi đòi hỏi một sức
sống mạnh, một tiếng hát cao, hướng dẫn cho cuộc sống con người phát triển.
Có hát
thì hát cho bổng, cho cao,
Cho gió
lọt vào cho chúng chị nghe;
Chị còn
ngồi võng ngọn tre,
Gió đưa
kĩu kịt chẳng nghe tiếng gì.
Rất nhiều bài thơ của anh, của tôi, của các bạn chúng ta là tiếng hát thấp quá,
quần chúng đang "ngồi võng ngọn tre" gió thổi lộng trời, quần chúng không nghe
thấy.
Khi
sức sống trong văn thơ thấp bé hơn sức sống quần chúng thì chưa thể đi tới hiện
thực xã hội chủ nghĩa được.
[2]
Thơ hiện thực là thơ mang trọn vẹn những tư tưởng mới. Tư tưởng và con người
thời đại không ở chữ ở câu này câu khác mà ở sức mạnh của bài thơ, ở hơi thở
trong bài thơ toát ra.
Nguồn:
Văn nghệ,
số 70 (1.5.1955)
[1]Ở
bản gốc câu này in chữ đậm (NST).
[2]Câu
này ở bản gốc in chữ nét đậm (NST).