49. HOÀNG TRUNG THÔNG
Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ
Việt Bắc
Viết theo ý kiến của Ban Văn Hội Văn nghệ Việt Nam và đã được Ban Văn thông qua
Cuộc thảo luận về tập thơ
Việt Bắc
là cuộc phê bình rộng lớn đầu tiên trong phong trào văn nghệ nước ta. Ðã mấy
tháng nay nhiều cuộc họp trong trường học, trong xí nghiệp, trong đơn vị bộ đội,
thảo luận về thơ Tố Hữu. Hàng trăm bài phê bình từ khắp nơi gửi về báo
Nhân dân
và báo
Văn nghệ.
Ðã đến lúc chúng ta có thể rút ra những nhận định chính về tập thơ
Việt Bắc
đồng thời đánh giá những ưu khuyết điểm của cuộc phê bình vừa qua.
I. NHẬN ĐỊNH VỀ TẬP THƠ
VIỆT BẮC
Yêu
nước trên cơ sở giai cấp:
Lòng yêu nước là tình cảm nổi bật trong thơ Tố Hữu ngót hai chục năm nay từ khi
anh mới bước chân vào con đường cách mạng và con đường thơ ca.
Trong tập thơ
Việt Bắc,
lòng yêu nước mạnh mẽ đó có những phát triển mới. Ðó là giai đoạn thơ Tố Hữu đi
sâu vào đời sống thực của quần chúng lao động. Lòng yêu nước trong thơ anh có
một nội dung giai cấp rõ rệt.
Nhận định này về căn bản trái ngược với ý kiến một số bài phê bình cho rằng bản
chất thơ Tố Hữu là bản chất tiểu tư sản cách mạng, chủ nghĩa ái quốc trong tập
thơ
Việt Bắc
là chủ nghĩa ái quốc lãng mạn tiểu tư sản.
Ðây là điểm mấu chốt của bao nhiêu ý kiến khác nhau. Con người mới hay không mới,
thực hay không thực, tình cảm yếu đuối hay lành mạnh, tư tưởng sai hay đúng, tất
cả bấy nhiêu vấn đề của một số bài phê bình nêu ra đều xoay xung quanh vấn đề
lập trường giai cấp.
Qua tập thơ
Việt Bắc,
ta nhận thấy rõ lòng yêu nước và lòng yêu nhân dân là một.
Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người lao động và
chiến đấu của đất nước. Hầu hết những nhân vật được biểu hiện lên trong tập thơ
đều là những người nông dân lao động, từ anh bộ đội nghỉ chân trên lưng đèo Nhe,
anh pháo binh vác voi ra trận, bà mẹ trên nhà sàn Việt Bắc đến bà bủ nằm ổ chuối
khô, hay chị phụ nữ phá đường. Ngay từ đầu kháng chiến, trong khối toàn dân đoàn
kết giết giặc, Tố Hữu đã nhận rõ nông dân là lực lượng trụ cột. Anh đem hết
nhiệt tình biểu hiện họ lên thành những nhân vật chủ yếu của thơ anh.
Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo.
Tình cảm của nhân vật thơ anh được biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời
sống thực.
Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ
Việt Bắc
chính là người nông dân nghèo khổ
Bữa đói
bữa no
Chạy ăn
chẳng đủ
Ngày
hai bát ngô
Lên
rừng đào củ
Vào bộ đội được sự rèn luyện của Ðảng của giai cấp công nhân, những người nông
dân mặc áo lính đó chan chứa tình yêu nước, yêu nhân dân. Quyền lợi giai cấp và
quyền lợi dân tộc nhất trí, đời họ gắn chặt với cách mạng và kháng chiến. Từ
nhân dân mà ra, họ anh dũng vì nhân dân mà chiến đấu.
Gian khổ bao nhiêu cũng quyết tâm vượt qua. Càng gian khổ càng hăng hái tin
tưởng.
Con
đường gieo neo
Là
đường Vệ quốc
Tha hồ
đèo dốc
Ta hò
ta reo
Chỉ có một quân đội như thế mới lấy thân làm giá súng đầu bị lỗ châu mai, anh
dũng hy sinh không bờ bến.
Những tình cảm người bộ đội trong thơ Tố Hữu không phải máy móc, một chiều chỉ
biết đạn lửa chiến trường, một đi không trở lại. Khi Tố Hữu nói:
Chắc có
lúc lòng anh
Nhớ nhà
anh nhớ lắm
là Tố Hữu đã thấu hiểu nỗi lòng người chiến sĩ. Tình cảm đó diễn tả sâu sắc
trong bài “Bầm ơi!” Ở đây tình yêu gia đình, yêu đồng chí, yêu nước đã quyện lấy
nhau. Phải chăng đó là "những tình cảm nhỏ bé của những nhân vật bộ đội nhỏ bé?"
hay chính là những nét tình cảm sâu sắc cao quý của người chiến sĩ Việt Nam đã
được biểu hiện rõ rệt trong thơ Tố Hữu.
Những bà mẹ lao động Việt Nam cũng được Tố Hữu biểu hiện lên với lòng kính yêu
đằm thắm. Ðó là những bà mẹ nông dân nghèo khổ, cần cù, chất phác, thắt lưng
buộc bụng nuôi con. Ðó là những bà mẹ ở hậu phương lòng luôn luôn hướng về tiền
tuyến, theo rọi từng bước chân của những đứa con đi giết giặc. Bà mẹ Việt Bắc,
bà bầm, bà bủ, những hình ảnh bà mẹ nông dân nghèo khổ đã được vẽ lên bằng những
nét đậm đà không thể nào phai nhạt.
Chính vì biểu hiện lòng yêu nước thiết tha của những người lao động nghèo khổ mà
lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu thật vững chắc và có sức rung động mạnh mẽ.
Lòng yêu giai cấp và lòng yêu nước đó kết hợp chặt chẽ trong lòng yêu lãnh tụ.
Tố Hữu đã viết nhiều về Hồ Chủ tịch và đã gợi lên những tình cảm sâu sắc của
nhân dân đối với lãnh tụ. Bà mẹ Việt Bắc thiết tha yêu kính Cụ Hồ là vì Cụ Hồ mở
nước, chia thóc cho dân. Anh chiến sĩ Ðiện Biên ra trận lòng hướng về Bác là vì
biết rằng: Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày. Người dân Hà Nội đêm đêm nhìn ảnh
Cụ, mặt Người nhìn ấm lòng, và:
Ở đâu u
ám quân thù
Nhìn
lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Hồ Chủ tịch là
quả tim lớn
lọc trăm dòng máu nhỏ, lời của Bác là lời non nước, tiếng ngày xưa và cả tiếng
mai sau.
Người đã gắn chặt với lòng chị dân công tải đạn, anh thợ má vàng thuốc pháo và
anh chiến sĩ xung kích diệt đồn. Lãnh tụ từ quần chúng mà ra, kết tinh cao nhất
trí tuệ thông minh của quần chúng. Những hình ảnh về lãnh tụ trong bài “Sáng
tháng Năm” có khi còn trừu tượng, khó khăn chưa biểu hiện được những tình cảm
kính yêu giản dị mà thắm thiết của quần chúng. Nhưng không phải vì vậy mà cho
rằng lãnh tụ ở đây đã bị "thần thánh hóa", "tách rời ra khỏi quần chúng", "làm
cho quần chúng bé nhỏ đi". Cũng như nói Bác Hồ
ung dung yên
ngựa bên đường suối reo
không phải là "đẩy lùi lãnh tụ vào quá khứ".
Lòng yêu nước và yêu giai cấp, yêu lãnh tụ trong thơ Tố Hữu nhất định không thể
là lòng yêu nước của giai cấp tiểu tư sản, mà chính là lòng yêu nước của giai
cấp công nhân.
Nhưng một số anh em lại cho rằng: Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu căn bản là đúng,
"thật khó mà tìm thấy một khuyết điểm về ý nghĩa chính trị", thơ Tố Hữu "tuyên
truyền chính sách tốt" thật, nhưng đó chỉ mới là đề tài, là chính sách, là chính
trị. Một người "tiểu tư sản cách mạng" cũng có thể viết đúng về nông dân, về
lãnh tụ, về quốc tế v.v... Cũng những anh em đó nói: Ðiều quan trọng là phải xét
xem cái "hồn thơ" cái "điệu tâm hồn" của thi sĩ đã là của giai cấp chưa? Ðó mới
thật là cốt tủy của thơ, là chỗ rung động sâu kín nhất mà nhà thơ không thể tự
dối mình hay dối người được. Ðó là sự chân thành của người cầm bút. Thực tế
khách quan (chính sách, chính trị) có thể tốt đúng, nhưng điệu tâm hồn của nhà
thơ vẫn có thể yếu đuối lệch lạc như thường. Ðiệu tâm hồn mới thật quyết định
nội dung tình cảm của nhà thơ.
Mới nghe thì lý luận đó có vẻ tinh tế và cũng dễ xuôi tai. Nhưng đi sâu mới thấy
đó là một lý luận chủ quan, siêu hình nấp sau những danh từ "hồn thơ" "điệu tâm
hồn" rất bóng bảy, rất kêu, dễ choáng tai, nhưng rất lầm lạc.
Thứ lý luận này đã lấy điệu cảm xúc riêng của mỗi thi sĩ (hừng hực, bừng bừng...)
thay thế cho lập trường và quan điểm giai cấp. Nó tách rời hiện thực khách quan
phản ảnh trong tác phẩm với tình cảm chủ quan của thi sĩ, và coi tình cảm chủ
quan là quyết định. Hoàng Cầm cho rằng: "thật khó mà tìm thấy một khuyết điểm về
ý nghĩa chính trị trong tập thơ Việt Bắc" nhưng lại cũng cho rằng "hồn thơ Tố
Hữu là hồn thơ yếu đuối".
Chúng ta càng khó hiểu khi Lê Ðạt cho rằng thơ Tố Hữu "giải thích chính sách tốt"
(tức là nguyện vọng cao nhất của công nông) biểu hiện "chính sách có rung cảm"
và "được số đông trong quần chúng hoan nghênh" mà lại là không phải là thơ công
nông, chỉ là mức tiểu tư sản cách mạng!
Ðối với các đồng chí đó, thì có lẽ chính trị, chính sách, và thực tế đều chỉ là
cái vỏ mà tất cả các thi sĩ đều có thể biểu hiện lên giống nhau. Ðiệu tâm hồn
mới thật là tình cảm thực của thi sĩ. Mà điệu tâm hồn của Tố Hữu là "rơi rớt
nhiều tính chất ngậm ngùi buồn buồn ít hành động". Bản chất thơ Tố Hữu vì thế là
bản chất tiểu tư sản cách mạng.
Các đồng chí đó đã cắt đứt chính sách với tình cảm, lập trường tư tưởng với tâm
hồn, lấy ngọn làm gốc, lấy hiện tượng làm bản chất.
Từ sai lầm căn bản đó một số bài phê bình càng ngày càng đi xa hơn: Bà mé vừa kể
chuyện vừa khóc rưng rưng cũng là tiểu tư sản, cảnh phá đường giữa đêm gió rét
trăng lu cũng là tiểu tư sản. Rồi “Việt Bắc”, “Lại về” và cả “Ta đi tới” nữa
cũng đều là những cuộc hẹn hò, những lời gặp gỡ, những tình cảm lạc quan tiểu tư
sản!
Bản chất tiểu tư sản là gì? Dù là tiểu tư sản cách mạng đi nữa thì bản chất giai
cấp tiểu tư sản vẫn là bấp bênh, dao động, khi thuận chiều thì bốc anh hùng rơm,
khi khó khăn thì nghiêng ngả, buồn nản hoài nghi; Cái gốc của nó vẫn là tự do.
Chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy quần chúng, lấy cái lợi ích của cá nhân
mình mà đánh giá cả thế giới.
Phải chăng thơ Tố Hữu chứa đựng bấy nhiêu yếu tố của bản chất tiểu tư sản?
Trái lại, từ căn bản giai cấp công nhân đang lãnh đạo cách mạng, Tố Hữu đã nhìn
người nhìn cảnh sâu sắc. Những nét hình ảnh của quê hương đất nước được Tố Hữu
biểu hiện lên, nhất là trong bài “Ta đi tới” và “Việt Bắc”, đều mang sức sống
mãnh liệt của dân tộc, của những người lao động làm ra lịch sử. Những con người
trong tập thơ
Việt Bắc
đều luôn luôn lo lắng đến vận mạng của giai cấp và dân tộc, gắn chặt quyền lợi
của giai cấp và dân tộc, đời sống riêng và vận mệnh chung trong một tình cảm tin
tưởng và lạc quan cách mạng.
Bà bủ
nằm nhớ con suy nghĩ:
Năm xưa
cơm củ ngon chi
Năm nay
cơm gié nhà thì vắng con
là đã hiểu sự khác nhau giữ hai chế độ cũ và mới mặc dầu nông thôn chưa phát
động.
Anh bộ đội ra trận diệt thù:
Con đi
đánh giặc mười năm
Chưa
bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
đã hiểu rằng giết giặc cũng là đập tan được một ách nặng đè trên đầu giai cấp.
Ðến người mẹ trong bài “Ðời đời nhớ ông”:
Ngày
mai dân có ruộng cày
Ngày
mai độc lập ơn này ơn ai
Thì ý thức giai cấp đã rõ rệt. Ruộng đất và độc lập gắn chặt vào nhau trong tình
cảm người nông dân lao động.
Chính từ căn bản giai cấp đó mà trong toàn bộ tập thơ
Việt Bắc
toát lên một tinh thần tự hào dân tộc rất cao. Lòng tự hào dân tộc đó biểu hiện
sảng khoái nhất trong hai bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” và “Ta đi tới”. Ðó
không thể là lòng tự hào của tiểu tư sản mà nhất định là lòng tự hào của một
giai cấp đang giữ chắc được đất nước và cầm chắc vận mạng của mình.
Giai cấp tính và đảng tính trong thơ không phải chỉ là có một số bài thơ nói về
công nhân hay về Ðảng. Chúng ta rất yêu cầu các nhà thơ viết về công nhân và
Ðảng. Nhưng điều trước tiên, điều cần thiết là tư tưởng tình cảm trong thơ phải
có lập trường của giai cấp và của Ðảng.
Tố Hữu chưa có một bài thơ về công nhân, nhưng tư tưởng công nhân đã chỉ đạo cho
tình cảm thơ ca của Tố Hữu. Tư tưởng công nhân đã soi rọi cho tư tưởng, tình cảm
của những nhân vật trong thơ Tố Hữu.
Trong tập thơ
Việt Bắc
thỉnh thoảng còn một ít tình cảm bùi ngùi (“Bao giờ hết giặc”), heo hút (“Lên
Tây Bắc”), lạnh lẽo (“Những thành phố trụi”) v.v... Những tình cảm này một phần
nào đã hạn chế bản chất hiện thực của thơ anh, nhưng nó không đến độ làm cho tập
thơ biến chất thành tiếng nói của tình cảm "tiểu tư sản cách mạng".
Cái khuyết điểm chủ yếu của tập thơ
Việt Bắc
là ở chỗ cuộc đấu tranh chống phong kiến chưa được biểu hiện lên rõ, nhất là
trong những bài thơ sau này của Tố Hữu.
Tố Hữu nhìn thấy sâu sắc cuộc đời của người nông dân dưới ách đế quốc và lòng
yêu nước thiết tha của họ. Nhưng trong thực tế cách mạng Việt Nam, cuộc đấu
tranh chống phong kiến không thể nào thiếu sót được trong đời sống của người
nông dân lao động. Tố Hữu hiểu nhiều cảnh đời đói cực của người nông dân nhưng
chưa thông cảm hết nỗi khổ của người nông dân trong cái tròng tô tức.
Anh thấy kẻ thù đế quốc rất rõ và anh đã tập trung ngọn lửa căm thù vào nó.
Nhưng đối với giai cấp địa chủ anh chưa nhìn thấy rõ hình thù và chưa đập thẳng
vào nó.
Không phải chúng ta đòi hỏi Tố Hữu phải có những bài thơ về cải cách ruộng đất
từ những ngày đầu kháng chiến. Nhưng đến một giai đoạn phát triển của cách mạng,
khi vấn đề tô tức đặt ra, nhất là khi có cuộc phát động quần chúng cải cách
ruộng đất thì lòng căm thù đế quốc và căm thù địa chủ gắn chặt vào nhau trong
thực tế tình cảm những người nông dân lao động Việt Nam.
Tố Hữu biểu hiện những người chiến sĩ Ðiện Biên ngày đêm anh dũng hy sinh không
dựa trên cơ sở tình cảm đó, là một thiếu sót. Ngay cả trong bài “Việt Bắc” là
bài thơ Tố Hữu gửi gắm nhiều tình cảm thiết tha mặn nồng nhất của mình với người
nông dân lao động miền núi, những hình ảnh, những tình cảm về cải cách ruộng đất
cũng không có. Ðó là khuyết điểm chủ yếu của tập thơ
Việt Bắc.
Chính sách và nghệ thuật:
Tố Hữu tha thiết đem nghệ thuật thơ ca phục vụ chính sách của Ðảng.
Chính sách không phải là những mệnh lệnh chính trị ngăn cản người nghệ sĩ nói
lên tình cảm chân thực của mình và thực tế của cuộc sống. Chính sách vừa là lý
trí nhưng cũng vừa là tình cảm. Chính sách là đường lối kết tinh lại từ nhiều
mặt của sự sống.
Nhà thơ không phải tự khép chặt mình trong những khẩu hiệu của chính sách mà
biết nhìn thấy chính sách trong cuộc đấu tranh dồi dào và sâu sắc của quần chúng.
Ðọc thơ Tố Hữu người ta ít nghĩ đến chính sách, nhưng thực tế thì tư tưởng của
chính sách, tình cảm của chính sách vào sâu trong chúng ta. Cuộc đời của bà mẹ,
hình ảnh chị phá đường hay em bé liên lạc, những cảnh vác voi ra trận hay cuộc
chiến đấu anh dũng trên chiến trường đều là những nhân vật, sự việc và hình ảnh
biểu hiện lên từ sự sống.
Những con người thực, việc thực đó đã lần lượt hiện lên trong tập thơ
Việt Bắc,
có máu có thịt, và có suy nghĩ, có tâm hồn. Cuộc sống cơm áo, mồ hôi nước mắt
của quần chúng lao động không còn là những danh từ trừu tượng khô khan, mà đã
thành những hình ảnh rất thực. Bàn tay cấy mạ, tiếng hát ru con, ổ chuối khô,
vạt áo tứ thân phai bạc, những tiếng nói câu cười, nỗi đau thắt ruột hay niềm
tin tưởng vui tươi cùng với những khóm tre, bụi lúa, con đường gốc đa, tất cả
những hình ảnh thực của cuộc sống đã được nhào nặn lại để sáng tạo nên những bài
thơ chứa chan tình cảm: “Cá nước”, “Bầm ơi”, “Phá đường”, “Lượm”, “Voi”... Tố
Hữu không từ chính sách suy luận ra nhân vật và sự việc. Anh từ cuộc sống dựng
lên những con người, những sự việc tự nó bật lên những tư tưởng, tình cảm có
chính sách.
Nhiều bài phê bình đều nói thơ Tố Hữu giàu tình cảm: Mến thương và thắm thiết.
Giàu tình cảm, thực chất cũng là giàu sự sống.
Ngay cả những bài thơ sau này của Tố Hữu “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”, “Ta đi
tới”, “Việt Bắc”, mà nhiều người cho là những bài thơ có nhiều tư tưởng tính
đánh dấu sự lớn lên của thơ Tố Hữu, thì tính chất trữ tình cũng rất mạnh rất sắc.
Có thể nói những bài thơ đó mang nhiều tư tưởng tính mà ít sự sống được không?
Có thể nói những bài thơ tổng hợp nhiều mặt của sự sống rồi nâng lên trình độ tư
tưởng rộng lớn là kém hiện thực hơn những bài thơ nói một góc cạnh của tình cảm
hay một mẩu của cuộc đời không? Không nên so sánh như vậy và cũng không nên coi
đó là một khuyết điểm của người làm thơ. Vấn đề chính là tìm xem từ trong những
bài thơ đó sự sống đã được biểu hiện lên đến mức độ nào, cảm xúc, tình cảm, tư
tưởng của bài thơ có bắt nguồn từ thực tế cuộc sống hay không, hay chỉ là những
khẩu hiệu chính trị.
Thơ trữ tình không phải chỉ gợi lên những tình cảm trong phạm vi đời sống bình
thường. Ngày nay trong cuộc đấu tranh chính trị gay gắt chúng ta còn cần có
những bài thơ thay cho những bài diễn văn bốc lửa. Chúng ta vừa muốn có những
bài thơ đi sâu vào một mẩu nhỏ của cuộc sống, chúng ta vừa thèm đọc những bài
thơ rộng rãi bao la "có những cái vỗ cánh hùng mạnh của tư tưởng".
Tập thơ
Việt Bắc
đã có cả hai phương diện đó.
Nhưng trong một số bài thơ của Tố Hữu sự sống còn nghèo, sức rung cảm chưa mạnh,
tình cảm của nhân vật chưa gắn chặt với thực tế cuộc sống. Những bài này đã hạn
chế phần nào tính chất hiện thực của tập thơ
Việt Bắc.
Tình cảm nhớ thương con trong bà bủ rất thực nhưng chưa gắn được với tình yêu
nước mạnh mẽ cũng rất thực trong lòng bà mẹ cố nông. Người chiến sĩ đi lên Tây
Bắc lặng lẽ quá. Hình ảnh anh hiện lên rất đẹp giữa núi rừng. Nhưng tình cảm anh
đối với quê hương đất nước ra sao? - chưa được nhà thơ biểu hiện. Bước chân nhà
thơ vắng vẻ giữa thành phố trụi chưa hòa nhịp được lời ca xây dựng mai sau. Tình
cảm của nhà thơ với nỗi lòng người chiến sĩ trong bài “Bắn” cũng vẫn còn xa nhau
dù hai người cùng đứng bên nòng súng nhằm thẳng vào mặt quân thù.
Những bài thơ phản ảnh bước chuyển vĩ đại của kháng chiến sau này của Tố Hữu đều
là những bài thơ mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Thực tế đấu tranh vĩ đại
bên ngoài đã xô vào thơ Tố Hữu những luồng sóng lớn. Ðó là những bài thơ tổng
hợp sự sống trong những nét tình cảm điển hình. Nhưng nó còn "ít những hình ảnh
dựng ngay lên một con người, một hành động, một phong cảnh cụ thể đang sống
trước mắt chúng ta". Nhất là bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”.
Nhưng không phải vì vậy mà tập thơ
Việt Bắc
đã rơi vào chủ nghĩa công thức nặng nề như một số nhà phê bình đã phân tích.
Những nhà phê bình này muốn thơ phải xuất phát từ thực tế cuộc sống và không rơi
vào lối biểu hiện một chiều. Ðó là một yêu cầu rất đúng. Nhưng từ yêu cầu đó mà
bắt Tố Hữu phải biểu hiện tâm trạng bà bủ từ năm 1947 "trằn trọc suốt đêm là vì
căm thù thằng địa chủ cướp mất ruộng", bắt Tố Hữu làm bài thơ “Ta đi tới” ngay
khi hiệp định Giơ-ne vừa ký kết xong phải biểu hiện được "lòng tin cụ thể vào
từng bước đấu tranh gay go gian khổ" như Hoàng Cầm, thì thật là những yêu cầu
quá xa thực tế.
Hình
thức dân tộc:
Thơ Tố Hữu gần gũi với quần chúng, rung động sâu sắc trong lòng quần chúng vì
nội dung tư tưởng tình cảm của nó, và một mặt nữa, vì ngôn ngữ và nhịp điệu của
thơ Tố Hữu nằm trong truyền thống thơ ca của dân tộc. Cốt cách dân tộc hiện lên
rất rõ. Càng là những bài lấy lời của quần chúng biểu hiện lên tâm trạng và đời
sống của quần chúng, Tố Hữu càng chú ý đến thể thơ dân tộc, âm điệu dân tộc (“Phá
đường”, “Bà mẹ Việt Bắc”, “Bầm ơi”, “Voi”, “Việt Bắc”, “Ðời đời nhớ ông”, v.v...)
Và cũng vì vậy tình cảm thơ Tố Hữu càng chan chứa thiết tha mang được cái giản
dị tự nhiên của tâm hồn quần chúng. Thơ Tố Hữu vì vậy rất dễ vào quần chúng. Và
ai đã đọc thơ Tố Hữu nếu không nhớ cả bài cũng nhớ vài câu. Có những bài thơ đã
thành tiếng hát ru em của các mẹ già, em nhỏ ở nông thôn. Vì thế chúng ta không
ngạc nhiên khi thơ Tố Hữu vang xa trong những làng xóm nhỏ tít mũi Cà Mau hay
những trạm liên lạc xa xôi trên đỉnh núi Cực Nam Trung Bộ. Ở các nông thôn Liên
khu 4 giữa các cuộc nhóm họp cán bộ thường đọc thơ Tố Hữu. Anh du kích ở địch
hậu, anh bộ đội ở đồn biên phòng đều coi thơ Tố Hữu là người bạn chiến đấu.
Tố Hữu thường dùng nhiều nhất là thể thơ lục bát mà câu thơ lục bát của anh rất
giàu có. Nó vừa kết hợp được điệu lục bát rất cổ của bình dân
Nhà em con bế
con bồng, Em cũng theo chồng đi phá đường quan
vừa phảng phất lối đối từng vế của những câu thơ cổ điển trong
Kiều
hay
Chinh phụ:
Anh về
cối lại vang rừng
Chim
reo quanh mái, gà mừng dưới sân.
Và đây là một câu thơ mà một chữ "thương" láy đi láy lại tạo nên cái dáng điệu
chỉ thơ ta mới có:
Thương
cha, thương mẹ, thương chồng
Thương
mình thương một thương ông thương mười.
Trừ một số câu thơ kém mà nhiều bạn đã trích trong bài “Lại về” phần lớn là câu
thơ lục bát của Tố Hữu đều uyển chuyển. Những câu thơ lục bát hay nhất của Tố
Hữu tiếp tục được cái truyền thống của ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam.
Trong những thể thơ bốn chữ, năm chữ Tố Hữu cũng có nhiều sáng tạo. “Bà mẹ Việt
Bắc”, “Lượm”, “Voi”, cùng một thể thơ mà mỗi bài có những nhịp điệu khác nhau do
sự việc, hình ảnh và tình cảm của từng bài quyết định. Ðọc những bài thơ đó, ta
phảng phất nhớ lại những bài vè kể chuyện của quần chúng. Nhưng ở đây, Tố Hữu đã
phát triển và nâng cao nhịp điệu và ngôn ngữ lên, làm cho những bài thơ đó còn
giữ hơi vè mà đã thành thơ phong phú, súc tích.
Những bài thơ của Liên Xô, Nam Tư... đã được Tố Hữu Việt Nam hóa thành những bài
thơ rất quen thuộc với nhịp điệu tình cảm của nhân dân ta.
Tuy nhiên, hình thức trong những bài “Những thành phố trụi”, “Hoan hô chiến sĩ
Ðiện Biên” hãy còn lúng túng chưa ổn định. Tố Hữu muốn phá vỡ thể thơ, uốn cho
nhịp thơ rung động theo nhịp tình cảm của mình. Nhưng những bài thơ đó của anh
có nhiều chỗ chưa đạt. Chúng ta mong đợi Tố Hữu cố gắng nâng cao hơn nữa tiếng
nói và hình thức dân tộc trong thơ anh.
Sự chuyển biến về hình thức nghệ thuật dân tộc rất rõ rệt trong thơ Tố Hữu từ
tập thơ trước kháng chiến đến tập
Việt Bắc.
Sự chuyển biến đó chứng tỏ Tố Hữu ngày càng đi sâu vào con đường phục vụ quần
chúng, đi sâu vào con đường hiện thực của thơ ca. Vì nói đến chủ nghĩa hiện thực
không thể không nói đến hình thức dân tộc.
II. VÀI NHẬN XÉT VỀ CUỘC PHÊ BÌNH
Lần đầu tiên chúng ta mở một cuộc phê bình rộng lớn về một tác phẩm văn nghệ.
Cuộc phê bình đã được sự hưởng ứng nhiệt liệt của bạn đọc các nơi và sự tham gia
đông đảo của giới văn nghệ. Trên báo chí, trong các hội nghị, chúng ta cũng đã
đề cao được tinh thần mạnh dạn phát biểu ý kiến.
Chúng ta cũng có thể nói: trong cuộc thảo luận lần này ngòi bút phê bình của
chúng ta lần đầu cũng đã đụng chạm đến những vấn đề lớn của thơ ca: Tập thơ
Việt
Bắc
có hiện thực không? Giai cấp tính trong tập thơ
Việt Bắc.
Nhân vật điển hình trong tập thơ
Việt Bắc,
v.v... Ngòi bút phê bình không còn vờn quanh vấn đề, phát biểu ý kiến hời hợt,
trốn tránh những góc cạnh gay go nữa.
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến phát biểu có khi thống nhất có khi trái ngược nhau
đều có thể giúp cho tác giả và những người làm văn nghệ suy nghĩ thêm được nhiều
vấn đề. Ðó là thắng lợi tốt đẹp của cuộc phê bình.
Tuy vậy, cuộc phê bình tập thơ
Việt Bắc
vừa qua bộc lộ nhiều khuyết điểm lớn, mà ban Văn của Hội có nhiệm vụ hướng dẫn
cuộc phê bình phải chịu trách nhiệm chính.
Phê bình văn nghệ tức là đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ, không thể tách rời
khỏi đấu tranh chính trị trước mắt của chúng ta. Trong khi mở ra cuộc phê bình
tập thơ
Việt Bắc
ban Văn đã không nắm vững được nguyên tắc đó để đề ra những mục đích yêu cầu
thích đáng. Cuộc thảo luận kéo dài đã nhiều khi rơi vào những tranh cãi vụn vặt,
chiếm rất nhiều thì giờ và trang báo.
Ban Văn đã không hướng dẫn cho cuộc thảo luận đi vào những ưu điểm và thiếu sót
của tập thơ, trực tiếp giúp ích cho những nhiệm vụ đấu tranh hiện thời của nhân
dân ta.
Bọn đế quốc và tay sai đang muốn thổi vào phong trào văn nghệ của chúng ta một
luồng gió độc: "Văn nghệ tách rời chính trị". - Một số đồng chí chúng ta trong
khi phê bình tập thơ
Việt Bắc
ít nhiều đã rơi vào khuynh hướng đó, ban Văn không kịp thời đề ra và tích cực
đấu tranh lại. Ðó là khuyết điểm chủ yếu của cuộc phê bình.
Ngoài ra còn một khuyết điểm nữa không kém phần quan trọng là: thái độ phê bình.
Thái độ phê bình trong văn nghệ cũng không thể nào khác được thái độ phê bình và
tự phê bình trong đời sống chính trị hằng ngày của chúng ta. Phải biết phân biệt
bạn, thù, kiên quyết đấu tranh chống lại những tư tưởng phản nhân dân nhưng
thành khẩn và ái hộ
[1]
vạch ra những sai lầm của bạn và tìm hết sức biểu dương những cái hay cái đúng.
Cái nguyên tắc căn bản đó, nhiều lúc cuộc phê bình đã bỏ rơi mất. Nhiều bài phê
bình, nhiều ý kiến phát biểu đã rơi vào lối tranh cãi tư sản lỗi thời, có khi đã
dùng những lời độc ác hoặc thô bỉ để mạt sát lại ý kiến của người khác. Ðó không
phải là thái độ xứng đáng của những ngòi bút phê bình văn học của chúng ta.
Thái độ đó đã biểu lộ nhiều lần trong các cuộc phê bình, nhưng ban Văn không kịp
thời uốn nắn và hướng dẫn, tưởng rằng cứ để phát biểu lung tung như vậy mới là
đảm bảo "tự do tư tưởng".
Những khuyết điểm trên đây đã hạn chế nhiều những kết quả tốt đẹp của cuộc phê
bình.
III. KẾT LUẬN
Cuộc thảo luận về tập thơ
Việt Bắc
đã mang lại cho chúng ta những bài học lớn. Bài học đó là con đường đi của thơ
Tố Hữu, con đường phục vụ lợi ích của cách mạng của quần chúng.
Người làm thơ phải đem hết nhiệt tình đi vào thực tế cuộc sống, biểu hiện lên
những con người chính yếu của xã hội, những con người lao động và chiến đấu
trong những tình cảm chân thực và sâu sắc.
Người làm thơ phải nắm vững chính sách của Ðảng, lấy ánh sáng của chính sách
Ðảng soi rọi vào cuộc sống và tình cảm tư tưởng mình.
Người làm thơ phải đi sâu vào hình thức dân tộc, phát triển và nâng cao tiếng
nói và hình thức dân tộc để cho nhịp điệu của thơ mình gần gũi quần chúng, chứa
đựng được nội dung tư tưởng tình cảm của thời đại. Và trong khi đi vào phương
hướng dân tộc, nhà thơ không phải tự xóa mờ mình đi mà chính là để tạo một cá
tính cho mình.
Ðó là con đường hiện thực của tập thơ
Việt Bắc
mà cũng là con đường hiện thực mà thơ ca Việt Nam đã mạnh mẽ đi theo.
Nguồn: -Văn
nghệ,
số 81 (11.8.1955)
-Nhân
dân,
11.8.1955; 12.8.1955
[1]ái hộ: thương yêu và che chở (theo Ðào Duy Anh: Hán Việt từ điển, 1932).