24.
LÊ QUANG THÀNH
(Hà Đông)
Góp ý kiến thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Những ý kiến của chúng tôi xếp thành ba vấn đề:
Trong ba vấn đề trên, chúng tôi có nêu một số điểm đồng ý hay không đồng ý với
các bạn Hoàng Yến, Vũ Ðức Phúc, Hoàng Cầm.
Tập
thơ Việt Bắc có hiện thực không?
Trước hết qua các bài phê bình tập thơ Việt Bắc, chúng ta đã thống nhất với nhau
thế nào là những tình cảm lớn của thời đại chúng ta. Ðó là tình cảm số lớn quần
chúng cách mạng đông đảo (chủ yếu là công, nông, binh) đứng lên đấu tranh đánh
đổ đế quốc và phong kiến, giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ.
Trong 8,9 năm qua, tình cảm đó là lòng yêu nước, chí căm thù, ý chí bất khuất
bất cứ trước một sức mạnh tàn bạo nào, tình thương yêu giai cấp, tình thương yêu
đồng chí, tình quân dân, tình cán bộ với quần chúng, tấm lòng kính mến Ðảng,
kính mến lãnh tụ, tình yêu nhân loại cần lao. Tóm lại là tình cảm cách mạng.
Tập thơ
Việt Bắc
của Tố Hữu là tập thơ làm trong thời kỳ kháng chiến, và trong đó có một số ít
bài làm sau khi hòa bình đã được lập lại. Ở đây, chúng tôi đồng ý với Hoàng Yến
về cách đặt vấn đề: tập thơ
Việt Bắc
có nói lên được tình cảm của thời đại chúng ta không? Mà không đồng ý với Vũ Ðức
Phúc cho Hoàng Yến là chủ quan, gò ý nghĩa tập thơ theo ý của mình. Vì thực tế
là phần lớn các bài thơ trong tập thơ
Việt Bắc
làm trong kháng chiến, phản ánh những việc và tình cảm của kháng chiến.
Ðó là điểm căn bản để đánh giá tính chất hiện thực trong tập thơ
Việt Bắc.
Ðiểm thứ hai là những tình cảm lớn đó biểu hiện như thế nào? Tình cảm đó khi thì
bộc lộ, khi thì kín đáo, âm thầm, nhưng nói chung đều sâu sắc, thắm thiết.
Hoàng Yến nói: "Một thi phẩm phản ánh được thời đại phải trào lên những dòng thơ
hừng hực chiến đấu, đỏ rực căm thù, có mãnh lực động viên, kích thích hàng triệu
người ra mặt trận đấu tranh". Không nhất định như thế. Chúng ta cần có những
thiên anh hùng ca thật mạnh, dồn dập, lôi cuốn. Nhưng cũng cần có những bài thơ
kín đáo, ý nhị, giản dị và thấm vào lòng người đọc, mà không kém phần sâu sắc.
Nếu hai cách diễn đạt ấy mà đều phản ánh đúng sự thật, nói đúng nội dung và tình
cảm của chúng ta, chúng ta đều hoan nghênh, và hai cách diễn đạt đều có tác dụng
động viên tinh thần quần chúng. Vả lại, như đồng chí Trường Chinh nói: cuộc
chiến tranh ái quốc của chúng ta là một cuộc chiến tranh toàn diện. Chúng ta
không những chiến đấu ở ngay mặt trận, mà cả ở hậu phương, không cứ ở bộ đội, mà
còn ở mọi ngành, không những trên mặt trận quân sự mà còn ở các mặt trận chính
trị, kinh tế, văn hoá, không phải chiến đấu với kẻ thù hữu hình, mà còn phải
chiến đấu với kẻ thù vô hình, tức là những tư tưởng sai lầm của chúng ta nữa.
Trong 8,9 năm kháng chiến cũng cần phải soát lại những giá trị cũ, phải nhìn lại
xem những tình cảm lạc hậu nào đã rơi đi, và những tình cảm tiến bộ, mới mẻ nào
đã xuất hiện, như quan niệm sống và chết, tình gia đình, tình mẹ con, chồng vợ,
v.v...
Dựa trên hai điểm đó, chúng ta cùng thảo luận đánh giá tính chất hiện thực trong
tập thơ
Việt Bắc.
Ở đây khả năng và trình độ chúng tôi có hạn, chỉ xin đi vào một vài hình ảnh nổi
bật nhất trong tập thơ
Việt Bắc.
Hình ảnh anh bộ đội:
Ai cũng nhận thấy rằng Tố Hữu đã để một phần tình cảm quan trọng của mình vào
anh bộ đội. Kể từ cách mạng tháng Tám thành công cho đến năm đầu kháng chiến,
hình ảnh anh bộ đội chưa xuất hiện trong thơ ca, hay hiện ra một cách không đúng,
không đầy đủ.
Năm 1947, trong bài “Cá nước”, Tố Hữu cho ta thấy rõ anh bộ đội chiến đấu vô
cùng gian khổ nhưng cũng vô cùng anh dũng và rất mực hiền lành:
Tôi
nhích lại gần anh
Người
bạn đường anh dũng
Anh
chiến sĩ hiền lành
Tỳ tay
trên mũi súng
Anh bộ đội của ta chỉ là người nông dân mặc áo lính:
Bố đi
đánh giặc còn lâu
Mẹ mày
cày cấy ruộng sâu tối ngày
Hoàng Cầm muốn hỏi Tố Hữu từ nguồn gốc sâu xa nào anh cán bộ và anh bộ đội gặp
nhau mà trở nên thân thiết. Nhưng Tố Hữu chỉ cần nhìn thấy bộ đội đối với nhân
dân ta là một hình ảnh vô cùng thân thiết, gặp nhau là thương yếu, quý mến nhau:
…Anh
người đâu, tôi đâu
Gần
nhau là thân thiết
Một
thoáng lặng nhìn nhau
Mắt đã
tìm hỏi chuyện
Ðôi bộ
quần áo nâu
Ðã âm
thầm thương mến
Hình ảnh anh bộ đội ngày càng nổi bật rất rực rỡ trong bài “Hoan hô chiến sĩ
Ðiện Biên”:
Những
đồng chí thân làm giá súng
Ðầu bịt
lỗ châu mai
Băng
mình qua núi thép gai
Ào ào
vũ bão
Những
đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát
thân, nhắm mắt, còn ôm
Những
bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất
định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Tố Hữu thật đã tổng kết được những nét điển hình nói lên sự anh dũng phi thường
của bộ đội ta trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Tố Hữu nhìn thấy khi xông lên giết
giặc, anh bộ đội dũng mãnh như hổ như báo, ý chí giải phóng Ðiện Biên vững như
đá:
… Nghe
trưa nay tháng 5 mồng 7
Trên
đầu bay, thác lửa hờn căm!
Trông
bốn mặt, lũy hầm sập đổ
Tướng
quân bay lố nhố cờ hàng
Trông,
chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực
trời đất Ðiện Biên toàn thắng
Nếu ta theo dõi hình ảnh anh bộ đội từ bài “Cá nước” qua các bài “Bầm ơi”, “Bắn”,
“Voi”, rồi đến “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”, ta sẽ thấy rõ anh đội viên thường
của chúng ta ngày càng trưởng thành, tình cảm của anh ngày càng phong phú. Hình
ảnh anh bộ đội lúc mới xuất hiện đã đáng yêu, thì ngày càng đẹp và càng đáng yêu
hơn nữa.
Trong bài “Bắn”, Hoàng Yến có nhận xét hình ảnh "ngon
như một đĩa thịt bò tươi"
xa lạ với chiến sĩ, người nông dân mặc áo lính, ít khi được thấy "đĩa thịt bò
tươi". Chúng tôi thấy nhận xét như thế hơi quá đáng. Bộ đội ta chiến đấu trong
hoàn cảnh thiếu thốn, gian khổ, nhưng không đến nỗi không thấy thịt bò tươi bao
giờ, nhất là không hiểu nổi ý "ngon như thịt bò tươi" trong thơ Tố Hữu. Không
đồng ý với Hoàng Yến, Vũ Ðức Phúc phân tích: "Thực tế người ta thèm thuồng những
cái gì ít khi được hưởng thụ. Chính vì ít khi anh bộ đội được ăn thịt bò tươi,
anh thèm thịt, nên ví cái đồn địch như một đĩa thịt bò tươi là rất đúng", và kết
luận: "Cái cảm giác đó cũng có tính chất hiện thực mới. Vì anh bộ đội hay ao ước
"chất" nhất, mà "chất" nếu không là thịt lợn thì thường là thịt bò". Theo chúng
tôi, phân tích như vậy sẽ đi đến nhận xét lung tung (chúng tôi xin tạm dùng chữ
lung tung vì chưa tìm được chữ nào cho gọn) bất cứ một cái gì cũng cho là có
tính chất hiện thực mới cả. Mà hiện thực mới của chúng ta phải là nêu cho được
những người và việc điển hình trong xã hội đang đi tới.
Cũng trong bài này, tôi đồng ý với anh Vũ Ðức Phúc là trong phút chờ đợi phát
lệnh bắn, Tố Hữu đã diễn tả được căm thù phẫn nộ trước lúc bắn cháy đồn giặc.
Nhưng tôi không đồng ý với chỗ anh Vũ Ðức Phúc lập luận: "Một người đã vào sinh
ra tử trong bao nhiêu năm trời, nếm đủ mọi mùi tàn ác của đế quốc, một người như
Tố Hữu phải đâu là người không cảm thông được nỗi căm hờn giặc, dù chỉ là nghe
chuyện mà hình dung ra việc. Một người như vậy, nếu ta kết luận là "tổng kết
việc trên tài liệu" thì cũng nên suy nghĩ một chút". Chúng tôi thấy lập luận như
thế chưa đúng hẳn. Ai cũng biết Tố Hữu là một thi sĩ cộng sản. Nhưng không nên
chỉ căn cứ vào đó mà đánh giá thơ của anh câu nào cũng đúng, cũng hay, hễ muốn
nói căm thù là y như biểu lộ được căm thù. Vì như thế dễ sinh ra quá rộng rãi,
hoặc thành kiến hẹp hòi đối với một tác phẩm nghệ thuật.
Tình cảm phá đường:
Nhận xét về bài “Phá đường” của Tố Hữu, Hoàng Yến cho rằng tình cảm trong bài
thơ đó là thứ tình cảm chung chung. Anh viết: "Tôi tự hỏi như thế thì tình cảm
của con người phá đường trong kháng chiến với tình cảm đắp đường trong hòa bình
khác nhau ở chỗ nào?" Và: "Tinh thần và tình cảm ấy không những riêng cho công
việc phá đường mà nó biểu hiện trong mọi công tác phục vụ khác, bất cứ ở đâu và
lúc nào…"
Nhưng Hoàng Yến quên một điều khá quan trọng: Hoàn cảnh phá đường khi Tố Hữu tả
là ở Bắc Giang về mùa rét, trong thời kỳ đầu của giai đoạn phòng ngự, chứ không
phải là tất cả mọi hoàn cảnh phá đường trong toàn quốc trong suốt hai giai đoạn
phòng ngự và cầm cự. Cũng không phải là "cảnh lao động thông thường chung chung
mà người ta thường bắt gặp bất kỳ ở hậu phương hay tiền tuyến, trong công tác
phá hoại hay kiến thiết", mà đấy là nông dân một thôn, một xã theo lời kêu gọi
của Chính phủ, đi phá đường cái quan để chặn xe cơ giới địch, chuẩn bị phá tan
tấn công thu đông năm 1947 của địch lên Việt Bắc. Sở dĩ Hoàng Yến thấy lưỡi cuốc
phá đường giống lưỡi cuốc đắp đường bởi vì Hoàng Yến chỉ nhìn thấy lưỡi cuốc,
chỉ thấy "hì
hà hì hục - lục cục lào cào"
- hoặc : "anh
tài thì em cũng tài,”
v.v… mà không chú ý toàn bộ bài thơ, không chú ý phần đầu tả không gian, thời
gian cụ thể:
Rét
Thái Nguyên rét về Yên Thế
Gió qua
rừng Ðèo Khế gió sang
Em là
con gái Bắc Giang...
Ðể nêu lên lòng yêu nước của nông dân Việt Nam, vẽ lên cảnh chuẩn bị, náo nức
của một địa phương phá tan tấn công của giặc, Tố Hữu đưa ra một người phụ nữ
nông thôn, với những hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, cũng gác bỏ việc nhà đi
phục vụ lợi ích kháng chiến. Lợi ích cá nhân, gia đình phục vụ cho lợi ích dân
tộc. Người phụ nữ nông thôn đó đã đấu tranh và giải quyết được mâu thuẫn đó một
cách vui vẻ, công tác với một tinh thần thi đua phấn khởi. Chúng tôi cho như thế
chính là hiện thực, bởi vì đã "biểu hiện xác đáng những tính chất điển hình
trong những trường hợp điển hình" (Ăng-ghen).
Cũng trong bài này Hoàng Cầm hỏi: "Tại sao lại gió rét? Gió rét có gợi ra được
cái gian nan, vất vả của việc phá đường không? Tuyệt nhiên là không?" Có chứ.
Ngay anh em cán bộ chúng ta, khi Chính phủ chưa phát áo trấn thủ, nhớ lại những
đêm đông rét lạnh ở chiến khu, chúng ta cảm thấy thấm thía cái rét đó lắm. Huống
hồ người nông dân chưa được chia ruộng đất, đời sống còn thiếu thốn, giữa đồng
rộng đêm khuya gió hút, áo quần phong phanh làm sao không gian nan,vất vả vì gió
rét được.
Hình ảnh Hồ Chủ tịch:
Theo Hoàng Cầm, hình ảnh Hồ Chủ tịch trong thơ Tố Hữu "mới là một đôi chút bề
ngoài của Hồ Chủ tịch. Còn những giờ Người ra tiền tuyến, đến bên cạnh dân công,
bộ đội; Người ở nông thôn, bàn bạc, chuyện trò với các phụ lão nông dân…", Hoàng
Cầm cho rằng "cách ca ngợi lãnh tụ như thế chưa phải là tình cảm toàn dân đối
với Hồ Chủ tịch".
Theo chúng tôi hiểu nếu tả lãnh tụ mà tả tỉ mỉ những khi Người làm việc này, khi
làm việc khác, tả từng hành động của Người… thì không thể nào tả hết được. Mỗi
một lời nói, mỗi hành động của Người đều có tác dụng giáo dục, động viên quần
chúng, đều gây nên những ý nghĩ mới mẻ, tươi đẹp cho chúng ta. Nếu đi theo Người
để tả đúng, tả hết những hành động của Người thì sẽ để lấp "cái gì lớn lao sau
những chi tiết vụn vặt", chi bằng mang cái máy ảnh mà chụp còn hơn. Nhà văn
Tôn-stôi nói: "Công việc của nghệ sĩ trong giai đoạn lịch sử này là khai thác ở
trong thực tại cái gì điển hình, cái gì độc giả có thể nhìn bao trùm được, ta
liên kết những sự kiện, những ý tưởng, mâu thuẫn vào một hình ảnh sinh động…"
Hành động của Hồ Chủ tịch là hành động lãnh đạo, là chỉ rõ đường đi của cách
mạng Việt Nam đến thắng lợi, bao trùm tất cả mọi mặt, mọi ngành… Làm thế nào nói
lên được cái đó, đồng thời nói lên được tình cảm lớn lao của dân tộc ta đối với
Người, và Người đối với dân tộc.
Những câu của Tố Hữu như:
…Các
anh chị, các em ơi có phải
Mỗi khi
lòng ta xao xuyến rung rinh
Môi ta
thầm kêu "Bác Hồ Chí Minh!"
Và mỗi
trận mỗi mùa thu thắng lợi
Ðôi mắt
Bác hiện lên cười phấn khởi
Ta lớn
cao lên bay bổng diệu kỳ
Trên
đường dài, hai cánh đỡ ta đi…
đã nêu được sự tin tưởng sắt đá vào lãnh tụ của chúng ta, và dưới sự lãnh đạo
của Người, chúng ta đã trưởng thành mau chóng trong chiến đấu.
Hoặc tả sự thông cảm của Hồ Chủ tịch với nhân dân:
Hồn
biển lớn đón muôn lời thủ thỉ
Lắng
từng câu, từng ý chưa thành
Người
là Cha là Bác là Anh
Quả tim
lớn lọc trăm dòng máu nhỏ…
Ðọc những câu trên, chúng ta càng cảm thấy Hồ Chủ tịch lúc nào cũng ở bên cạnh
mỗi một chúng ta, lắng nghe tâm sự của chúng ta, an ủi, khuyên răn khi ta vấp
ngã, chỉ đường cho chúng ta đi...
Trong bài “Sáng tháng 5” cũng như nhiều câu thơ trong các bài thơ khác của Tố
Hữu, còn nhiều đoạn ca ngợi Hồ Chủ tịch và hình ảnh Hồ Chủ tịch lúc nào cũng vĩ
đại, cũng bao trùm tình cảm chúng ta và cũng đi sâu vào lòng chúng ta.
Chúng tôi cho rằng hình ảnh lãnh tụ trong tập thơ
Việt Bắc
là thành công nhất.
Hai bài thơ làm sau khi hòa bình lập lại:
Hoàng Cầm nhận xét: "Bài ‘Ta đi tới’ giống như một vại nước to, đầy tràn, pha
loãng một màu sữa. Loãng quá. Tôi thêm
[6]
một cốc dù nhỏ thôi, nhưng chan chứa những chất sống nuôi dưỡng tâm hồn. Theo ý
tôi, giá trị thơ không phải là ở chỗ đầy đủ, mạch lạc về một vấn đề chính trị.
Thơ phải đi sâu vào từng góc cạnh của tâm hồn từng lớp người đang xây dựng thời
đại mới".
Chúng tôi quan niệm khác Hoàng Cầm.
Không nhất định "muốn nói tất cả phải đi sâu vào một khía" mà có thể tổng hợp
lại thành những nét điển hình chung, tiêu biểu nhất và giá trị của thơ cũng
chính là ở chỗ nói đầy đủ, mạch lạc một vấn đề chính trị. Còn vấn đề chính trị
đó lớn hay nhỏ, rộng hay hẹp, nông hay sâu lại là vấn đề khác. Một bài thơ mà
thiếu sót hoặc sai lầm về chính trị là bài thơ chưa đầy đủ giá trị hay hỏng, bị
quần chúng phản ứng ngay. Thắng lợi hòa bình là một thắng lợi vĩ đại, là một
bước ngoặt lịch sử của dân tộc ta. Sau khi hòa bình lập lại trên đất nước, toàn
thể nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc, gái trai, già trẻ, đủ mọi tầng lớp, đều
cảm thấy một niềm vui dạt dào, phấn khởi; chúng ta tưng bừng đón chào thắng lợi
mà sau suốt 8, 9 năm chiến đấu gian khổ mới giành được. Ðúng như lời anh Xuân
Diệu, bài thơ “Ta đi tới” đã diễn tả kịp thời và đúng những tình cảm lớn đó.
Ta đi
giữa ban ngày
Trên
đường cái ung dung ta bước
Cái ung dung đi giữa ban ngày trên đường cái, chúng ta cảm thấy rất thấm thía.
Ðã hết rồi, bóng dáng những chiếc máy bay giặc lồng lộn bắn phá trên đường giao
thông. Ðã hết rồi những đêm trường lặn lội trên con đường dài dặc. Bây giờ ta
ung dung đi giữa ban ngày. Bầu trời trong xanh của chúng ta cũng không còn bóng
dáng tên giặc nào cả:
Mây của
ta, trời thắm của ta
Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nông thôn ta sau 8, 9 năm chiến tranh tàn phá, trở lại cảnh sống hòa bình, cây
cối lại tốt tươi, hàng đàn trâu bò thong dong gậm cỏ ở đồng rộng thênh thang,
trẻ em đi học được yên tĩnh khỏi bị máy bay giặc đe dọa hàng ngày. Bà mẹ Việt
Nam, đã từng chịu nhiều đau xót chia ly tang tóc của chiến tranh, nhưng cũng là
những bà mẹ anh hùng, hy sinh rất nhiều cho kháng chiến, giờ đây cũng vui mừng
đón hòa bình:
Mẹ ơi
lau nước mắt
Làng ta
giặc chạy rồi
Nửa nước ta đã hoàn toàn giải phóng. Nhưng chúng ta không bao giờ quên hiện nay
nửa nước ta còn khổ cực dưới chế độ thực dân và phong kiến. Tấm lòng nhân dân ta
ở miền Nam luôn luôn hướng về Hồ Chủ tịch về Trung ương, miền Bắc luôn luôn nghĩ
đến miền Nam; tấm tình Nam Bắc là máu chảy ruột mềm, dù mưu ma kế quỷ đến đâu,
kẻ thù cũng không bao giờ chia cắt được đất nước ta, cắt đi nửa khúc ruột của
chúng ta. Ý chí thống nhất sắt đá không gì lay chuyển nổi đó đã biểu lộ trong
bốn câu bình dị mà vô cùng thắm thiết:
Dù ai
nói ngả nói nghiêng
Lòng ta
vẫn vững như kiềng ba chân.
Dù ai
rào dậu ngăn sân
Lòng ta
vẫn giữ là dân Cụ Hồ.
Nội mấy câu trên, Tố Hữu đã nêu lên được khẩu hiệu đấu tranh trước mắt của toàn
dân ta hiện nay: đấu tranh đòi thực hiện thống nhất đất nước. Ðồng chí Trường
Chinh trong bản báo cáo về "Chủ nghĩa Mác với vấn đề văn hóa Việt Nam", có nói "Tuyên
truyền cao tới một mức nào đó thì trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực
tới một mức nào thì nghệ thuật có tính chất rõ rệt tuyên truyền… Một điều chắc
chắn là nếu nhà văn nghệ đó thiết thực và trung thành với thời đại thì tác phẩm
của họ, nghệ thuật càng cao, càng có ý nghĩa tuyên truyền mạnh."
Chúng tôi xin lấy câu trên để nhận xét bài “Ta đi tới” của Tố Hữu.
Ðến bài “Việt Bắc”. Về căn bản chúng tôi đồng ý với Xuân Trường, Xuân Diệu, bài
thơ nói lên tình nghĩa mặn nồng của người cán bộ cách mạng đối với quê hương
cách mạng, nơi đã dựng nên chế độ dân chủ cộng hòa của chúng ta. Chúng tôi xin
thêm: bài “Việt Bắc” lại nói lên được tương lai của mối quan hệ tốt đẹp giữa
nông thôn, thành thị, nói cách khác là tình thân yêu vững chắc đằm thắm giữa
công nhân và nông dân.
Chúng tôi hiểu chủ đề của bài thơ là như thế. Do đó chúng tôi cho rằng Hoàng Yến
đi lạc chủ đề đó, là chủ đề mà thi sĩ định nói, để nêu lên một chủ đề khác là: "Cái
việc từ Việt Bắc tiến về thủ đô là một sự kiện lịch sử lớn lao, đánh dấu bước
thắng lợi vĩ đại của dân tộc…" và "tôi quan niệm cái việc tiến về thủ đô là cả
một khí thế xuất sơn tiến về đồng bằng, cái khí thế "Nam hạ" mạnh mẽ, bừng bừng
không sức gì cản nổi". Hoặc"...Chưa dựng được trong lòng ta cái Việt Bắc tôn
kính, khởi điểm của cách mạng, chủ não của kháng chiến, miếng đất lịch sử đã ghi
những chiến thắng lịch sử quyết định bước chuyển biến của cả một giai đoạn chiến
tranh".
Sau khi dựng lên cái khuôn như thế, Hoàng Yến lắp bài thơ “Việt Bắc” vào mà nhận
xét là không đạt được, hay chỉ đạt được ở chỗ tả tình "thương người mến cảnh
nồng nàn thủy chung".
Chúng tôi cho rằng mọi người có thể có một cách đặt vấn đề, một cách nhìn các
khía cạnh tình cảm khác nhau, miễn là đạt được yêu cầu chung: phản ánh được sự
thật khách quan, những nét điển hình của nó và quá trình tiến lên của nó.
Nhìn một cảnh phá đường, Hoàng Yến thấy cái khía "đau xót đào con đường thân yêu
của mình", nhưng Tố Hữu lại nhìn vào khía "gian khổ, vất vả và vui lao động tập
thể" của tình cảm phá đường, nhưng cả hai đều nói lên được: lòng yêu nước của
người nông dân Việt Nam, ý thức chấp hành chính sách của Ðảng của nhân dân ta.
Hoàng Yến còn tách riêng "tình thương mến nồng nàn thủy chung" với "quê hương
cách mạng".
Chúng tôi nghĩ rằng nhớ Việt Bắc chính là nhớ nơi quê hương cách mạng. Nhớ những
đồng bào ở những nơi vắng vẻ nhất, vẫn một lòng nuôi cán bộ. Nhớ phong cảnh,
nhưng chủ yếu là phong cảnh:
Mình về
có nhớ núi non
Nhớ khi
kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi
mình có nhớ mình
Tân
Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Nhớ người, chủ yếu là nhớ những đồng bào nông dân rất nghèo khổ nhưng rất thương
yêu cán bộ, bộ đội:
Ta đi
ta nhớ những ngày
Mình
đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương
nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm
sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ
người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con
lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Trong bài thơ của Tố Hữu những cái nhớ "cách mạng" như thế rất nhiều, đọc lên ai
cũng thông cảm, nhất là những người công tác cách mạng đã từng ở Việt Bắc. Những
chiến công lịch sử kéo qua trước mắt ta: hồi Việt Minh kháng Nhật, Phủ Thông,
Ðèo Giàng, sông Lô, Phố Ràng, Cao Lạng, Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, v.v... làm
ta càng thêm nhớ. Và ta thấy rõ rằng nhân dân Việt Bắc đã góp phần xứng đáng của
mình vào thắng lợi cách mạng. Những hình ảnh đó gắn chặt vào lòng chúng ta.
Không cần phải kể lể nhiều lời, dùng nhiều chữ cho mạnh, oai hùng, mới nói lên
được những chiến công đó, lại càng không cần kể lại tỉ mỉ từng chiến công một.
Cho nên, thơ Tố Hữu đặc sắc ở chỗ nói ít gợi nhiều, dùng chữ giản dị mà tả vẫn
đúng.
Việt Bắc cũng là đất nước chúng ta. Việt Bắc rồi đây cũng sẽ được vui tươi, đầm
ấm trong mối tình giúp đỡ lẫn nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa thành thị
và nông thôn, mối tình công nông ngày càng chặt chẽ. Ðọc bài thơ “Việt Bắc”
chúng ta càng yêu, càng nhớ Việt Bắc và càng muốn sao cho việc giao lưu hàng hóa
giữa thành thị và nông thôn ngày thêm phát triển, để cho đời sống nhân dân lao
động Việt Bắc được tươi đẹp.
Còn như "khí thế xuất sơn, tiến về Nam hạ…" chúng tôi tìm thấy trong bài “Ta đi
tới rồi”.
Do tất cả những nhận xét trên, dựa trên chỗ chúng tôi hiểu về chủ nghĩa hiện
thực đã nêu từ đầu, chúng tôi đi đến kết luận: Nói chung, tập thơ
Việt Bắc
của Tố Hữu có tính chất hiện thực.
Những chỗ thiếu sót của thơ Tố Hữu (tập thơ Việt Bắc):
Tố
Hữu là nhà thơ của thời đại:
Những bài thơ trong tập thơ
Việt Bắc
đã nói lên một phần tình cảm tốt đẹp nhất của con người mới, của một thời đại
mới, dưới một chế độ mới. Cụ thể là: tình yêu tổ quốc, yêu quê hương, lòng yêu
lãnh tụ, yêu nhân loại cần lao và dũng cảm, lòng tin tưởng vững chắc vào thắng
lợi đấu tranh. Thơ Tố Hữu là loại thơ thời sự, phục vụ quần chúng rất kịp thời,
Tố Hữu có công trong việc xây dựng, hướng dẫn tình cảm cho quần chúng tiến lên
theo kịp những biến cố lớn của thời đại, nhất là trong bài “Hoan hô chiến sĩ
Ðiện Biên” và “Ta đi tới”. Thơ Tố Hữu được đông đảo quần chúng ưa thích nhất.
Riêng trong anh em cán bộ chúng tôi, anh nào yêu văn nghệ là y như có ít nhất
một bài thơ Tố Hữu trong sổ tay của mình.
Do những lẽ trên, mặc dầu Tố Hữu còn nhiều thiếu sót nhưng những thiếu sót đó là
chi tiết, phụ thuộc vào bộ phận, mà ưu điểm thì nhiều hơn, lớn hơn, căn bản hơn,
Tố Hữu vẫn là nhà thơ của thời đại, và trong hàng ngũ các nhà thơ Việt Nam, Tố
Hữu vẫn giữa vững vị trí tiền phong của mình.
Nguồn:
Nhân dân,
21.4.1955; 22.4.1955
[1]“Tôi
thêm”: chỗ này báo
Nhân dân
in sai, đúng ra là “Tôi thèm”.