47.
NGUYỄN ĐÌNH THI
Nhà thơ lớn lên với thời đại
Nay hòa bình, kháng chiến thắng lợi, những người kháng chiến chào Việt Bắc về
xuôi. Cái ý nghĩa của tất cả lời chào ấy theo tôi cũng ở mấy câu, như một nút
động thứ hai của bài thơ, khi nhìn về tương lai.
Mình về
thành thị xa xôi
Nhà cao
còn thấy núi đồi nữa chăng
Phố
đông còn nhớ bản làng
Sáng
đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng...
Hòa bình tới, chiến tranh đã chấm dứt, "từ thôn quê chuyển về thành thị" đời
sống sẽ thay đổi, nhưng chúng ta không muốn để cho phai nhạt mất những cái quý
báu mà Việt Bắc đã rèn luyện cho mỗi con người trong kháng chiến: cái đạo đức
giản dị, trong sạch, cái tinh thần chiến đấu gian khổ, tự lực cánh sinh. Ngay từ
lúc ấy nhà thơ đã nhìn thấy phải đấu tranh với cái mệt mỏi, muốn nghỉ ngơi,
hưởng lạc, nó sẽ có thể nẩy ra trong lòng mỗi người, khi về giữa "nhà cao, phố
đông, đèn sáng". Nhưng không, nhà cao chẳng khuất non xanh, ta về nhưng lòng ta
vẫn ở với Việt Bắc. Ta nhớ bà mẹ trên nương vẫn còn cháy lưng vì nắng, ta nhớ em
gái hái măng, em phải được sống một cuộc đời mới. Chỉ có phấn đấu nữa, ra sức
xây dựng đất nước mới của chúng ta, cho Việt Bắc trở nên giầu có sung sướng, ta
mới làm cho lòng thương nhớ Việt Bắc thành sức mạnh. Nhận ra được phương hướng
đó, bản hợp tấu khi thiết tha, khi hùng tráng, khi thánh thót, khi sôi sục, đã
kết thúc bằng những âm thanh trong sáng chan hòa.
Nhớ ông
cụ mắt sáng ngời
Áo nâu
túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ
Người những sáng tinh sương
Ung
dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ
chân Người bước lên đèo
Người
đi rừng núi trông theo bóng Người
Hồ Chủ tịch rời Việt Bắc để đưa dân tộc ta tới những ngày mới.
Tư
tưởng phải bám chắc lấy thực tế:
Tôi đã phải trích dẫn nhiều, và nhắc lại những câu thơ mà bạn đọc đã nghe nhiều
người giải thích mỗi người một cách. Và chính tôi khi trích dẫn hoặc phân tích
cũng thấy rằng được mặt này thì thiếu mặt kia. Ðó là vì trong những câu thơ ấy
đã có những con người, những sự việc, những tình cảm, ý nghĩ có thực của một
giai đoạn lịch sử còn đang nóng hổi trong mỗi chúng ta. Khi có dấu vết sự sống,
thì tác phẩm nghệ thuật cũng mang được cái dồi dào của sự sống, nó làm cho mọi
phân tích đều vẫn cứ chưa nói hết được.
Nhưng tôi đã không ngại bỏ sót nhiều điểm khác mà nhằm theo dõi những bước cố
gắng của Tố Hữu để làm cho thơ anh lớn lên về tư tưởng. Vì tôi nghĩ đó là một
điều còn hiếm trong văn nghệ chúng ta ngày nay. Chúng ta còn ít suy nghĩ quá
trong cuộc sống và trong sáng tác. Mỗi người làm nghệ thuật còn chưa nhận hết
trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân. Nghệ thuật mới của chúng
ta phải là nghệ thuật có những suy nghĩ sâu sắc, những tình cảm lớn lao. Phục vụ
đối với người nghệ sĩ nghĩa là đem hết sức suy nghĩ, và đem hết tâm hồn vào cuộc
đấu tranh của quần chúng.
Nhưng sự suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ phải luôn luôn bắt nguồn và nhào
nặn trong thực tế quần chúng, nó đổi mới và phát triển không ngừng. Và rút lại
đến cùng, quyết định cho sự sáng tác, chính là thực tế cuộc sống. Tác phẩm nghệ
thuật xét đến gốc vẫn là một phản ảnh của cuộc sống. Ðiều đó không làm giảm sút
giá trị suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ mà trái lại nó bảo đảm cho sự suy
nghĩ và rung cảm ấy không bao giờ cạn.
Nhìn lại thơ Tố Hữu trong giai đoạn về sau, bên sự trưởng thành về tư tưởng,
chúng ta cũng phải nhận thấy có một thiệt thòi rất lớn nó giới hạn sự sáng tác
của nhà thơ và làm cho sự sáng tác ấy chật vật thêm rất nhiều: là nhà thơ không
có nhiều điều kiện (hay là anh chưa cố gắng tạo cho mình thêm điều kiện?) sống
hàng ngày giữa thực tế quần chúng, ở những nơi đấu tranh điển hình nhất, − như
là ngày đầu kháng chiến. Do đó, cái phần "tươi mới", cái tính chất còn ròng ròng
sự sống của thơ Tố Hữu về sau này không được như trước. Những hình ảnh đạt nhất
mà anh tạo ra là những hình ảnh có tính chất so sánh và tổng quát (Ðêm
lịch sử Ðiện Biên sáng rực,
v.v...), ít những hình ảnh dựng ngay lên một con người, một hành động, một phong
cảnh cụ thể đang sống trước mắt chúng ta. Thơ Tố Hữu về sau thiếu cái luồng rung
động trong giây phút mà còn lâu mãi của bài
“Cá nước”,
hay “Lượm”,
thiếu cái nhuần nhụy tự nhiên của những cái đang sống, của con người đi lại, nói
cười, của ngọn lúa có hạt mưa phùn rơi, của cái đêm đông có gà gáy sáng.
Tôi có cảm tưởng nhiều khi nói đến chiến sĩ ngoài mặt trận, hay chị dân công
trên đèo, nhà thơ phải dùng sức tưởng tượng mà bồi đắp cho những hình ảnh về
thực tế mà anh đã thâu lượm được từ trước. Có lúc sự bồi đắp ấy thành công vì
cái vốn cũ của nhà thơ đủ dồi dào, nhưng cũng nhiều lúc, sự bồi đắp đó đuối sức,
vì thực tế đã vượt lên những trình độ mới mà không sức tưởng tượng nào có thể
đuổi kịp và giúp ta biểu hiện lên được. Những khi ấy, hình ảnh trong thơ trở nên
chung chung, làm cho ý của câu thơ bị phơi trần ra, không sống lên linh động
được. Ví dụ như những câu tả chiến sĩ Ðiện Biên:
Chiến
sĩ anh hùng
Ðầu
nung lửa sắt
Năm
mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt
Máu
trộn bùn non
Gan
không núng
Chí
không mòn,
v.v...
Nhưng cái ảnh hưởng rõ rệt và thiệt thòi nhất của sự thiếu thực tế đó là nhà thơ
chưa sáng tác được về cải cách ruộng đất. Vì thực tế của cải cách ruộng đất là
một thực tế vĩ đại và mới mẻ, nó làm cho nông thôn và người nông dân có một biến
đổi về chất lượng, đang từ một thời đại lịch sử này sang một thời đại lịch sử
khác, đang từ một cuộc sống kéo dài từ hàng nghìn năm sang hẳn một cuộc sống mới.
Bản thân nhà thơ vốn đã không sống cuộc đời bị địa chủ áp bức bóc lột, mà bây
giờ lại không được tham gia trong một phần nào vào thực tế cuộc đấu tranh của
nông dân đang lật nhào giai cấp địa chủ, thì tôi nghĩ thật khó tạo ra hình ảnh
gì cho sống, cho thực về cuộc đấu tranh đó. Cái vốn cũ của nhà thơ về nông thôn
và nông dân, tới cuộc cải cách ruộng đất, đã bị vượt quá xa. Và thiếu thực tế ấy,
thì sự suy nghĩ, tình cảm, ý thức giai cấp của nhà thơ, cũng còn thiếu hẳn một
phần căn bản, và không nẩy nở đến mức có thể của nó, cũng như mũi tên còn giương
trên nỏ mà chưa có đủ sức để bắn đi và chưa thật rõ đích để bắn đúng.
[Thực ra đây không thể gọi được là một khuyết điểm. Nhưng tôi nghĩ rằng cái ánh
sáng của cuộc cải cách ruộng đất chưa soi lên thơ Tố Hữu một cách mạnh mẽ như
ánh sáng của kháng chiến. có ánh sáng mới ấy thì dù làm thơ nói về đề tài gì
khác, trong thơ cũng sẽ có cái gì mới hơn nữa.][1]
Con
đường của thơ Tố Hữu:
Thơ Tố Hữu còn đang tiến và có những thành công làm cho chúng ta thấy được rằng
nó sẽ còn tiến xa. Theo tôi nghĩ, thơ Tố Hữu chưa phải đã phản ảnh được đầy đủ
cuộc kháng chiến và thời đại vĩ đại của chúng ta, có thể nói nó phản ảnh còn
nhiều thiếu sót lớn nữa. Nhưng điều căn bản là con đường mà thơ Tố Hữu vạch ra
đã rõ, và là con đường đúng: đó là con đường phục vụ lợi ích của quần chúng, bám
chắc lấy cuộc đấu tranh của quần chúng và không lúc nào rời ánh sáng chính sách
của Ðảng. Ðó là con đường đi hẳn vào thực tế, và đem hết sức suy nghĩ và tình
cảm để tìm hiểu và soi sáng thực tế ấy.
Con đường tiến lên của thơ Tố Hữu sẽ do thực tế cuộc đấu tranh của dân tộc của
giai cấp làm cho rõ nét, và nẩy nở thêm. Tôi chỉ có mấy ý kiến, cũng như những
đề nghị còn chưa được chắc chắn, cần suy nghĩ và bàn thêm.
Tôi cảm thấy Tố Hữu cần đi vào thực tế nhiều hơn nữa. Tôi vẫn không thể quên
những ngày anh ngồi bên ổ chuối của bà bủ nghe bà kể chuyện hoặc đi theo đại đội
pháo binh đầu tiên của quân đội ta. Ngày nay, thực tế quần chúng đã tới một quy
mô khác, và nhà thơ cũng đã ở một trình độ khác. Nhưng dù bằng cách nào, nhà thơ
vẫn cần được thấy đời sống hàng ngày và cuộc đấu tranh của quần chúng ở những
nơi và những mặt điển hình. Ðó vẫn là cái nguồn căn bản của tất cả mọi sáng tác.
Tôi mong nhiều sáng tác của Tố Hữu thuộc về loại kể chuyện hoặc mô tả nhân vật
quần chúng, cùng một dòng với những bài thơ của anh ngày đầu kháng chiến. Vì tôi
thấy những bài đó đã đánh dấu một bước chuyển căn bản trong thơ của anh. Và tôi
nghĩ nhiệm vụ thứ nhất của mọi ngành nghệ thuật, kể cả thơ ca, vẫn là biểu hiện
thực tế cuộc sống, biểu hiện những con người, nhất là những người lao động, là
anh hùng của thời đại chúng ta. Nếu nhìn vào truyền thống thơ ca của dân tộc ta,
từ những bài ca dao nói chuyện con cò đến
Truyện Kiều
của Nguyễn Du, tôi nghĩ truyền thống lớn ấy vẫn là mô tả và biểu hiện con người
và xã hội.
Trong khi biểu hiện cuộc sống, dưới ánh sáng của tư tưởng Mác - Lê-nin, tôi thấy
Tố Hữu cần đi sâu hơn nữa vào cái lao động sáng tạo của con người. Trong đấu
tranh gay go hàng ngày của quần chúng, luôn luôn có sáng tạo của lao động, và có
tất cả những quan hệ tỉ mỉ của đời sống lao động. Có tình yêu, có vợ chồng, con
cái, có bè bạn, xóm giềng, có những vất vả của con người làm ra hạt gạo, miếng
vải. Biểu hiện cuộc đấu tranh của quần chúng mà thiếu những cái đó là thiếu mất
một phần căn bản. Có đi sâu vào đời sống và lao động hàng ngày của quần chúng
mới có thể nói thẳng với lòng người và những tư tưởng mới tới được mức thật và
giản đơn, tước bỏ được mọi hoa hòe hoặc khung khổ không cần thiết.[2]
Tại sao đã bao năm, chưa có một bài thơ của Tố Hữu tả tình yêu của anh chiến sĩ
mà nhà thơ yêu mến hết sức?
Và tại sao chưa có một bài thơ tình yêu của Tố Hữu, hoặc những bài cho ta thấy
rõ đời sống riêng của nhà thơ hơn? Gần đây, bài
“Quê mẹ”
đã có một cái gì mới về phương diện ấy, nhà thơ đã thoải mái và chân thành mà kể
chuyện mình, và câu chuyện riêng của đời anh đã gắn liền với vận mệnh của Huế và
của mọi người. Vì khi nhà thơ biết nhìn sâu sắc và khách quan vào thực tế của
bản thân thì có nhiều khía cạnh thấy được dấu vết của thời đại trong ấy.
Cuối cùng, tôi nghĩ Tố Hữu đã trả về cho chúng ta cái nguồn dân tộc và tiếng nói
dân tộc trong thơ. Câu thơ của anh trong những bài như
“Việt Bắc”,
hay
“Quê mẹ”
đã có dáng dấp câu thơ cổ điển, đồng thời nó mang sự suy nghĩ và cách nói mới
của thời đại chúng ta. Nhưng câu thơ của Tố Hữu còn chưa được đều, có lẽ vì nhà
thơ chưa có công phu gọt rũa hơn. Tôi mong đợi anh chú ý nâng cao tiếng nói và
hình thức dân tộc hơn nữa, và làm cho hình thức ấy không đóng khung lại, mà phát
triển lên. Ðến lúc thơ Việt Nam cần đón lấy những tìm tòi rất lớn hiện nay của
những nhà thơ tiền tiến trên thế giới, nhất là ở các nước bạn. Và nhà thơ Việt
Nam cũng đến lúc có trách nhiệm đem tiếng nói của dân tộc chúng ta góp chung vào
văn nghệ
quốc tế.
Tháng
7-1955
Nguồn:
Văn nghệ, số 79 (28.7.1955)
[1]
Mấy câu đặt trong ngoặc vuông này không có ở bản đăng báo Văn nghệ 1955,
nhưng có trong sách Mấy vấn đề văn học, bản in 1958 (NST).
[2]Chỗ
này bản đăng báo là: “tước bỏ được mọi hoa hòe hoặc khung khổ không cần thiết”;
bản in sách là: “tước bỏ được mọi hoa hòe hoặc công thức” (N.S.T.)