21. NGUYỄN VĂN PHÚ
Tranh luận về tập thơ Việt Bắc:
Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ
Việt Bắc
L.T.S. -
Về cuộc tranh luận chung quanh tập thơ
Việt Bắc
chúng tôi đã nhận được trên hai mươi bài tham gia ý kiến. Ở nhiều điểm, các bài
trùng nhau mà khuôn khổ tờ báo không cho phép chúng tôi sử dụng vào vấn đề này
quá ba trang mỗi kỳ.
Bởi vậy, chúng tôi chia các bài gửi đến ra làm ba loại:
1. Sẽ đăng toàn bài (có tước bớt ít nhiều câu thừa);
2. Sẽ trích đăng một, hai đoạn ngắn có ý mới và cần thiết đối với trọng tâm tranh luận;
3. Sẽ chuyển đăng ở các báo khác.
Chắc các bạn cũng thông cảm mà vui lòng ưng thuận.
Ngoài ra bắt đầu từ số sau chúng tôi sẽ tường thuật tổng hợp các cuộc hội nghị
phê bình tập thơ
Việt Bắc
do Hội Văn nghệ tổ chức tại trụ sở Hà Nội.
[1]
*
Bàn về tập thơ
Việt Bắc
của Tố Hữu, Hoàng Yến đã đánh giá khả năng hiện thực về phương diện nội dung
tình cảm. Hoàng Cầm cũng đồng tình với Hoàng Yến về mặt đó và cho là thơ Tố Hữu
thiếu ít chất sống thực tế.
Tôi cũng đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm, nhưng tôi không phê bình thơ Tố Hữu
về nội dung chính trị. Nội dung chính trị của tập thơ
Việt Bắc
theo ý tôi nói lên đầy đủ mọi điều cần nói, không chê trách vào đâu được. Tôi
chỉ đứng vào phía nghệ thuật để tìm hiểu xem nghệ thuật thơ Tố Hữu đã thành công
hay chưa? Và đã trả lời nổi nội dung hiện thực xã hội chủ nghĩa chưa?
Tiêu chuẩn nghệ thuật không phải là chính yếu, nhưng là một tiêu chuẩn quan
trọng. Tôi cho rằng nghệ thuật thơ Tố Hữu chưa được phong phú cho lắm nên có ảnh
hưởng đến nội dung chính trị, muốn sâu sắc mà không đạt được.
Theo Mác-xim Goóc-ki, "văn chương là nghệ thuật lấy chữ và hình ảnh tạo nên
những điển hình, những nhân vật để phản chiếu cuộc đời, phản chiếu thực tế cùng
với mọi cảnh vật, mọi tâm tình". Thơ lại là một thứ nghệ thuật sử dụng hình ảnh
và tiếng nói cực kỳ công phu, vì nếu hình ảnh và tiếng nói không có sức truyền
cảm kỳ diệu vào tâm tư của con người thì không có gì là chất thơ nữa.
Tâm trạng là những thực thể trừu tượng mà văn chương phải biểu hiện ra bằng
những hình ảnh cụ thể. Hình ảnh nếu chỉ được vẽ lên dưới trạng thái tự nhiên
hoặc không điển hình thì nó chỉ gợi lên cảm giác mà thôi, do đó người ta muốn
xúc cảm thế nào thì xúc cảm.
Với quan niệm như trên, tôi phân tích nghệ thuật thơ Tố Hữu trong tập
Việt Bắc.
Bài thơ “Cá nước” có đoạn như sau:
Một
thoáng lặng nhìn nhau
Mắt đã
tìm hỏi chuyện
Ðôi bộ
quần áo nâu
Ðã âm
thầm thương mến
Hình ảnh được nêu lên là hình ảnh hai người mặc quần áo nâu giản dị, mới gặp
nhau, đứng lặng nhìn nhau, mắt thương mến, âm thầm, kín đáo. Trước hết đôi bộ
quần áo nâu không phải là nét điển hình về hình ảnh của anh bộ đội và anh cán bộ.
Nếu không có đoạn kể rõ ở trên:
Anh là
Vệ quốc quân,
Tôi là
người cán bộ
thì đố ai hiểu hai bộ quần áo nâu ấy chỉ rõ ai. Dù nó có gợi lên cho ta thấy cái
bề ngoài giản dị chăng nữa, ta cũng không rõ nguyên nhân vì sao mà lại "âm thầm
thương mến" nhau.
Nhưng nét vẽ lên bằng tiếng: "lặng nhìn", "mắt hỏi", "âm thầm", cho ta cảm giác
hai người quen nhau, thầm nhận nhau rồi thương nhau. Có thế thôi, rồi một mối
buồn man mác bao trùm lên lòng người, gợi lên bởi những tiếng "lặng", "âm thầm".
Hình ảnh và lời thơ chỉ gợi lên được cái cảm giác bên ngoài, tự nó không nói lên
được cái mặn nồng giữa hai người, cái rung động của lòng người đọc. Người đọc có
cảm thông gì với anh không? Có yêu hai anh không? Tùy ý! Sức sống không toát lên
được. Hoàng Cầm cảm thấy bài thơ êm êm rồi thoáng tan đi, chính vì vậy.
Cũng bài ấy, hình ảnh ở một đoạn khác như sau:
Giọt
giọt mồ hơi rơi
Trên má
anh vàng nghệ.
Hình ảnh mồ hôi rơi giỏ giọt, má anh bộ đội vàng như nghệ, gợi lên cho ta cái
cảm giác anh đội
[2]
mệt, khó nhọc, ốm yếu. Còn người đọc có cảm thông gì với anh bộ đội thì tác giả
nói lên hộ bằng lời, sau hình ảnh trên:
Anh Vệ
quốc quân ơi!
Sao mà
yêu anh thế!
Hình ảnh gợi cảm giác bề ngoài, bất lực, không nói lên được sức sống tình cảm
bên trong lòng người Vệ quốc, người cán bộ, người đọc, người nghe.
Ăng-ghen có viết: "Khuynh hướng phải do tình thế và hành động mà bật ra, không
nên nói trắng ra một cách bộc lộ".
Ở đây hình ảnh không tự nói lên được mà toàn là phải dựa vào lời của tác giả:
Anh
người đâu, tôi đâu
Gần
nhau là thân thiết
...........
Ðã âm
thầm thương mến
............
Chắc có
lúc lòng anh
Nhớ nhà,
anh nhớ lắm.
Nếu thơ mà cứ phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần những lời "thân thiết", "thương
mến", "yêu anh", "lòng anh nhớ nhà", "anh nhớ lắm" v.v... mà không để hình ảnh,
hành động tự nó nói lên thì sức truyền cảm của thơ kém hẳn đi. Lời nói chỉ
truyền cảm được khi nào chính bản thân lời nói có hình ảnh hoặc hoạt động.
Rồi câu kết luận của bài thơ:
Rồi lát
nữa chia đôi,
Anh về
xuôi, tôi ngược.
Lòng
anh và lòng tôi
Mang
nặng tình cá nước
vẽ ra cảnh chia ly, kẻ xuôi người ngược, gợi một nỗi buồn man mác. Hai câu sau,
"lòng
anh và lòng tôi mang nặng tình cá nước",
không vớt lại được cái dư âm buồn để lại phút cuối cùng sau khi đọc xong bài thơ.
Trong một bài thơ khác, bài “Phá đường” cũng có những cách cấu tạo hình ảnh chỉ
gợi cảm giác và dùng lời nói hộ tình cảm như vậy.
Ðoạn mở đầu:
Rét
Thái Nguyên rét về Yên Thế
Gió qua
rừng Ðèo Khế, gió sang
Hình ảnh gió, rét, ở chiến khu Việt Bắc. Rét thế nào, có ai cảm thấy không? Tác
giả phải vận dụng cảm giác bằng óc liên tưởng cho những ai đã từng sống ở Thái
Nguyên, Yên Thế, Ðèo Khế. Rét thế nào cảm giác chưa rõ lắm thì cảm xúc chắc là
không có.
Em là
con gái Bắc Giang
Rét thì
mặc rét, nước, làng em lo
Ðã không biết rét đến mực độ nào thì chữ "mặc" dùng ở đây cũng không có tác dụng
lắm. Hãy lắng tai nghe người phụ nữ Bắc Giang kể lể:
Nhà em
phơi lúa chưa khô,
Ngô
chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em
con bế, con bồng
Em cũng
theo chồng đi phá đường quan.
Ta thấy có những hình ảnh gì? Lúa, ngô, sắn bề bộn khắp nơi. Con bế, con bồng
ríu rít. Người đọc cảm thấy cái cảnh neo đơn, một thân một mình của người đàn bà
nông dân. Nhưng cũng lại cảm thấy rằng nhà đủ ăn, không đau khổ, chỉ bận rộn
thôi. Ngoài cái cảm giác ấy ra, còn cảm thông gì với người phụ nữ nữa không,
cũng là tùy sự suy luận của người đọc. Nhà đủ ăn, nhưng bận rộn tíu tít, thế mà
"em
cũng theo chồng đi phá đường quan".
Hình ảnh đi phục vụ chưa có hào hứng vì hai chữ “theo chồng” và chưa được quyết
tâm bởi chữ "cũng" gượng gạo.
Với tám câu mở đầu kể lể: Nào rét, nào lo việc nước, nào bề bộn việc nhà, nào hy
sinh, hình ảnh chỉ tả bên ngoài không tự nó gợi lên được cho người đọc cái tình
cảm sâu sắc của người đàn bà nông dân căm thù giặc, quyết tâm khắc phục khó khăn,
quyết tâm hy sinh. Chính bản thân người đọc, người nghe, cũng không có xúc cảm
gì thấm thía trước hình ảnh ấy.
Hì hà
hì hục
Lục cục
lào cào
Anh
cuốc em cuốc
Ðá lở
đất nhào
Nào anh
bên trai
Nào em
bên nữ
Ta thi
nhau thử
Ai nào
hơn ai!
Tác giả sử dụng những âm thanh bắt chước tự nhiên diễn đạt cảnh lao động khó
nhọc, có tiếng thở, có tiếng cuốc, có tiếng đất rơi, đá lở. Diễn tả cái cảnh lao
động khó nhọc bằng những âm thanh bắt chước đúng sự thực như vậy là một kỹ thuật
của chủ nghĩa tự nhiên, bởi vì chính âm thanh không gợi cảm xúc gì cả.
Mác-xim Goóc-ki nói: "Chủ nghĩa tự nhiên ghi chép một cách máy móc, nó giữ
nguyên những sự việc. Chủ nghĩa tự nhiên là nghề chụp ảnh, thí dụ người thợ chụp
ảnh có thể chụp bộ mặt của một người với nụ cười ta cho là buồn chẳng hạn, đến
khi hắn ta muốn có một bộ mặt ấy với nụ cười chế nhạo hoặc vui tươi, thì hắn
phải chụp một cách khác. Tất cả đều là sự thực ít hay nhiều, nhưng là sự thực
một giây phút của con người sống buồn rầu hay giận dữ, vui tươi. Còn nói đến
trình bày sự thực của con người trong sự sống phức tạp, thì cả người thợ ảnh lẫn
nhà văn theo chủ nghĩa tự nhiên đều không thể làm được".
[3]
Tám câu thơ sử dụng kỹ thuật âm thanh và nhịp điệu rất khéo léo bắt chước tự
nhiên chỉ là chụp được cái cảnh đông người đang cuốc, đào, khó nhọc, vui tươi,
hăng hái. Trước cảnh ấy, ai muốn cảm xúc thế nào cứ cảm xúc theo chủ quan của
mình.
Tôi nghĩ rằng hình ảnh phá đường ghi theo lối chụp ảnh như vậy có thể là hình
ảnh phá đường, đắp đường ở bất cứ một thời gian nào, một giai đoạn lịch sử nào,
nếu nó không được giải thích bằng mấy câu nói ở cuối cùng bài thơ:
Thằng
Tây mà cứ vẩn vơ
Có hố
này chờ chôn sống mày đây
Ớ anh ớ
chị nhanh tay
Nhanh
tay ta cuốc chôn thây quân thù
Tình cảm thực của người nông dân phá đường giết giặc trong giai đoạn kháng chiến
phòng ngự chưa được hình ảnh tự nó làm nổi bật hẳn lên. Nguyên nhân chính của sự
thất bại trong bài này là thiếu chất sống cho nên phải dùng hình ảnh tự nhiên,
không hồn.
Hai câu kết luận:
Ðêm nay
gió rét trăng lu
Rộn
nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường
nêu lên hình ảnh đêm khuya, rừng núi, gió rét, trăng mờ cộng với âm điệu êm êm
của văn lục bát gợi lên một nỗi buồn man mác. Một tiếng "rộn" không thể đủ đem
lại cái vui tươi phấn khởi cho lòng người sau khi đọc.
Những cách cấu tạo hình ảnh gợi lên cảm giác bên ngoài và cách dùng lời nói hộ
tình cảm rải rác rất nhiều trong tập thơ
Việt Bắc,
nhất là những bài nói về nông dân, bộ đội đang hoạt động.
Rất đẹp
hình anh lúc nắng chiều
Bóng
dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi
không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy
trang reo với gió đèo
Hình ảnh của anh bộ đội thật là đẹp: Anh đang hăm hở trèo lên dốc, không ngại
nhọc mệt, nắng chiều, bóng dài, đỉnh cheo leo, vai vươn tới, gió reo...
Nhưng cái đẹp bên trong lòng anh lúc đang trèo hăng hái lên dốc như vậy lại
không được diễn tả bằng một hình ảnh cụ thể nào. Những lời nói "dốc cheo leo", "không
đè nổi", "vai vươn tới", "reo với gió" dù ý nghĩa súc tích, tế nhị đến đâu cũng
không gợi lên được tình cảm bên trong lòng người bộ đội. Vật giới và tâm giới
chưa hoà được vào nhau. Cái đẹp của cảnh vật tự nhiên chỉ mô tả được cái đẹp
bóng dáng bề ngoài của con người mà thôi.
Anh đi
tìm giặc, tôi tìm anh
Ðọc xong câu đó, tôi tự hỏi tác giả đi "tìm" anh bộ đội để ngắm, để yêu ư? "Tìm
anh" và "tìm giặc", hai sự việc, hai tình cảm khác nhau một trời một vực mà lại
chung nhau một tiếng "tìm" gọn lỏn, khô khan. "Tìm" giặc thì thực là yếu ớt. Sao
không "giết" giặc, "lùng" giặc, "săn" giặc mà lại "tìm" giặc? Tiếng "tìm" không
làm cho người nghe căm thù giặc và cái quyết tâm tiêu diệt giặc một chút nào.
Lại
những ngày đi vắt với sương
Ngô
bung xôi nhạt, nước lưng bương
Ðêm mưa
rình giặc, tai thao thức
Mùa lại
mùa qua, rét nhức xương
Bốn câu này gợi lên hình ảnh gian khổ, nào vắt, nào sương, nào ngô bung, nào
nước bương, nào đêm rình giặc, rét nhức xương. Toàn thấy khổ là khổ, còn anh bộ
đội nghĩ gì, cảm gì, không có. Người đọc cảm thông ra sao, cái đó cũng lại tùy.
Ðoạn cuối bài này có hình ảnh:
Anh nằm
sưởi nắng mắt lơ mơ
Nhưng hình ảnh ấy làm cho người đọc không mến mà cũng không phục anh bộ đội. Vì
mặc dầu trong thực tế lúc nghỉ ngơi anh có quyền lơ mơ, nhân dân vẫn không thích
anh hiện lên trong văn nghệ với cái vẻ lơ mơ như vậy.
Ðọc “Em bé Triều Tiên”, người ta thấy nhiều hình ảnh rùng rợn quá:
Xác ai
nằm ngổn ngang
Bãi
tuyết lặng quanh làng
Phố đổ
nhà hoang vắng
...............
Cái
thân trắng lắc lư
Ðầu
giây treo lủng lẳng
..............
Cái đầu
lâu rũ tóc
Máu
chảy dài thân cọc
Tuy ở những đoạn dưới có nêu lên những hình ảnh dân công, cứu thương, anh "chí
nguyện quân", đồng hoa, bãi lúa, v.v... nhưng người ta vẫn không quên được cái
cảm giác rùng rợn đó. Nhưng lại có người thấy cảm giác đó đưa đến tình cảm căm
hờn giặc. Thành ra cái đó cũng lại tùy.
Ðến đây, chúng ta không thể không so sánh những chỗ thành với những chỗ bại của
nghê thuật gợi cảm trong tập thơ
Việt Bắc.
Trong tập thơ
Việt Bắc,
nếu hình ảnh và chữ nhiều khi không diễn tả được tình cảm khỏe của người nông
dân, người bộ đội trong kháng chiến mà phải dựa vào lời nói thường, thì trái lại,
hình ảnh và chữ đã thành công trong những đoạn diễn tả tình cảm yếu của bà mẹ
già, của người vợ trẻ, của đồng bào ở hậu phương.
Cái hình ảnh "Mưa
phùn ướt áo tứ thân"
gian khổ quyện vào hình ảnh bầm chân lội bùn vừa cấy vừa run, gợi lên tình
thương vô hạn. Hình ảnh áo chàm, cầm tay nhau, quyện vào những chữ bâng khuâng,
bồn chồn, truyền một nỗi buồn ngậm ngùi vào lòng người.
Hình ảnh "trám bùi để rụng, măng mai để già" gợi lên tình cảm quyến luyến, nhớ
nhung đến tái tê trước cảnh biệt ly hầu như tuyệt vọng. Hình ảnh trong câu "hắt
hiu lau xám, đậm đà lòng son"
tự nó đã gợi lên cái buồn, cái thắm thiết, không cần một lời nào nói hộ.
Có thể trích ra rất nhiều hình ảnh và chữ thành công như thế, nhưng phần đông
chỉ là gợi lên cái tình buồn, tình yêu thương thắm thiết mà thôi. Nếu nghệ thuật
sử dụng hình ảnh chỉ đạt được về phương diện gợi lên tình buồn mênh mông, tình
thương yêu nhớ nhung buồn buồn mà không đạt được về phương diện gợi lên lòng căm
hờn, vui tươi, hăng hái bừng bừng sức sống mạnh mẽ đang tiến lên, thì nội dung
hiện thực (cách mạng) hiển nhiên là ít và những rơi rớt lãng mạn tiểu tư sản
cũng không ai chối cãi được.
[4]
Một yếu tố trong vấn đề sáng tác là cấu tạo tứ thơ, dàn xếp ý niệm để xây dựng
văn phẩm. Cấu tứ là một phương diện độc đáo của nghệ thuật. Một là nhà thơ có
thể căn cứ theo lý luận mà phân tích, mô tả tình cảm. Hình ảnh và tứ thơ được
dàn xếp theo trật tự lý luận minh bạch rõ ràng, nhưng rất dễ rơi vào chỗ công
thức khô khan.
Hai là nhà thơ đứng hẳn trên cơ sở tình cảm mà xây dựng thi phẩm. Thực tế tự
nhiên, cảnh vật phải đượm màu sắc của tâm tình, của lòng người. Lý trí ở đây
phải nhường bước cho tình cảm, và áng thơ dễ trở nên lâm ly, lãng mạn tiểu tư
sản.
Ba là nhà thơ không thả lỏng tâm tình chủ quan, cũng không đưa lý luận ra để bắt
tình cảm phải gò ép phụ thuộc. Nhà thơ phối hợp lý tính và cảm tính. Chất sống
chính là ở nơi hình ảnh và tứ thơ được cấu tạo trên cơ sở thống nhất giữa lý
tính và cảm tính.
[5]
Ðứng trên quan điểm thứ ba, tôi tìm hiểu cách cấu tạo tứ thơ của tập
Việt Bắc
xem đã đạt được như thế nào?
Tôi lấy thí dụ bài “Phá đường”. Theo ý tôi bài này đã xây dựng trên cơ sở lý
tính như sau:
Vấn đề nhân vật, thời gian, khung cảnh như vậy thì tứ thơ phải làm nổi bật lên
mọi hình ảnh hy sinh, quyết tâm phá đường, vui vẻ thi đua, hăng hái, phấn khởi,
căm thù giặc.
Nhưng lúc cấu tạo tứ thơ, thì các hình ảnh và chữ không đạt được như trên đã nói.
Tất cả tâm trạng của người phụ nữ nông dân chỉ được diễn tả hời hợt bên ngoài.
Các tình cảm rời rạc, riêng rẽ từng đoạn không quyện vào nhau. Cảm giác lại
nhiều hơn tình cảm. Mãi đến gần cuối mới nói lên mấy lời căm thù, nếu không thì
nội dung chính trị rất yếu. Hai câu kết luận gợi lên một dư âm buồn man mác, làm
cho bài thơ không đạt được kết quả.
Lý luận một đằng nhưng lại cấu tạo tứ thơ bằng những hình ảnh bên ngoài nên các
tình cảm tích cực, tình cảm thực đương lên trong lòng người nông dân không nổi
bật lên được. Lý tính và cảm tính không thống nhất. Bài thơ trở nên khô khan, vì
nặng về khái niệm, có tính cách chung chung, không nêu được khía cạnh cá tính
trong điển hình, khía cạnh con người trong một nội dung chính trị đầy đủ. Căn
bản là thiếu tính chất sống thực.
[6]
Tôi lấy thêm thí dụ bài “Việt Bắc” mà Xuân Diệu cho là hay nhất trong tập thơ.
Bài “Việt Bắc” được cấu tạo tứ thơ trên cơ sở tình cảm. Trong bài này tình nhớ
thương Việt Bắc làm chủ đề. Tất cả mọi sự vật, mọi hành động đều phải được biểu
hiện trong nỗi niềm thương nhớ ấy, Việt Bắc, lòng người Việt Bắc, lòng người ra
đi, nhớ lúc hoạt động đánh giặc, nhớ Chính phủ, nhớ Trung ương, nhớ Bác, trở về
xuôi với trăm nghìn cảnh tươi vui miền xuôi mà không quên Việt Bắc, hẹn hò ngày
gặp người Việt Bắc ở thủ đô tưng bừng, dự tưởng Việt Bắc mậu dịch với các nơi,
nhớ và biết ơn Bác đời đời. Nhớ nhưng không buồn, từ giã nhau vui vẻ.
Nói tóm lại tình cảm ấy được sắp xếp theo một trật tự lý luận từ tình người Việt
Bắc đến tình người cán bộ ra đi, từ tình của Việt Bắc đến tình của trung châu,
từ tình của cảnh vật đến tình của lòng người, từ tình của nhân dân đến tình của
Trung ương, Chính phủ, của Bác, và cái mức độ của nó là từ quyến luyến nghĩa là
có hơi buồn đi đến phấn khởi, vui tươi.
Tình xưa nghĩa cũ nhắc đi nhắc lại từ đầu đến cuối bằng những hình ảnh khêu gợi
nhớ thương và hứa hẹn thủy chung, rất thành công. Trái lại tình cảm vui tươi,
phấn khởi, qua nỗi nhớ thương và lời hứa hẹn ấy không làm nổi bật lên được: một
không khí chia ly bao trùm cả bài thơ và cái ngậm ngùi tràn ngập lòng người đọc.
Hai câu cuối:
Cầm tay
nhau hát vui chung
Hôm sau
mình nhé, hát cùng thủ đô.
vẫn còn thấy bịn rịn, "vui là vui gượng kẻo mà" đấy thôi.
Lý tính ở đây không thống nhất với cảm tính và đã hoàn toàn nhường bước cho cảm
tính. Những đoạn nói về Chính phủ và Trung ương Ðảng Lao động, nói về mậu dịch
tuy lý luận dài dòng nhưng nôm na, khô khan, gò ép nên bất lực không cứu vãn nổi.
Nếu đứng về phương diện nghệ thuật của toàn bộ bài thơ này mà xét chứ không
"rung đùi" về một số câu điêu luyện hay từng đoạn thắm thiết, tinh vi thì phải
nói là, về căn bản, Tố Hữu đã thất bại.
[7]
Còn về âm thanh và nhịp điệu, tôi nghĩ rằng thơ hiện nay tìm nguồn tài liệu
trong thơ ca bình dân xưa, nhưng không phải là giữ nguyên âm thanh và nhịp điệu
như vậy. Âm thanh và nhịp điệu ấy phải được cấu tạo theo với sức sống mới đương
lên cuồn cuộn của thời đại chúng ta ngày nay.
Ai cũng biết lập trường vững chưa đủ, còn cần phải có nghệ thuật. Phần nghệ
thuật tuy không phải là tiêu chuẩn chính yếu nhưng nó tạo ra sức gợi cảm và do
đó quyết định tác dụng của nội dung chính trị trong thơ.
Trong tập thơ
Việt Bắc,
nội dung chính trị có nhiều ưu điểm, nhưng nội dung ấy chưa thật thấm vào xương
máu, thớ thịt, đường gân của người đọc, người nghe. Chính là vì sức sống mạnh mẽ,
dạt dào của thời đại chúng ta ngày nay chưa thể hiện đầy đủ bằng hình ảnh, tứ
thơ âm thanh và nhịp điệu của tập thơ, nghĩa là chưa nhập vào tâm hồn Tố Hữu.
Giá trị hiện thực của tập thơ vì vậy bị hạn chế rất nhiều.
[8]
Vấn đề này liên quan chặt chẽ với vấn đề giai cấp tính (tiểu tư sản) trong thơ
Tố Hữu mà kỳ trước, ở đây, Lê Ðạt đã phân tích rất rõ.
6-4-55
Nguồn:
Văn nghệ,
số 69 (21.4.1955)
[1]Ðây
là lời tòa soạn báo Văn nghệ.
[2]Có
lẽ đúng ra là “anh bộ đội”; bản gốc in thiếu từ “bộ” (?)
[3]Thư
gửi Grosman ngày 7-10-32 (nguyên chú).
[4]Ðoạn
này bản gốc in chữ nét đậm (NST).
[5]Câu
này bản gốc in chữ nét đậm (NST).
[6]Ðoạn
này bản gốc in chữ nét đậm (NST).
[7]Ở
bản gốc đoạn này in chữ nét đậm (NST).
[8]Ở
bản gốc đoạn này in chữ nét đậm (NST).