39.
TRẦN ĐỘ
Chung quanh tập thơ
Việt Bắc:
Vài cảm tưởng của một độc giả thông thường
Tôi muốn phản ảnh một vài ý kiến thiết thực của một độc giả thông thường, đó là
một cán bộ xuất thân là học sinh vào ở bộ đội từ Hà Nội... biên giới cho đến
Ðiện Biên, đã qua nhiều nơi ở Việt Bắc. Chắc chắn độc giả này không đại diện
được tất cả nhưng cũng đại diện được một phần nào.
Trong tập thơ
Việt Bắc,
trừ những bài dịch, có hai loại bài. Một loại bài nói về từng người hay việc cụ
thể, nhỏ bé (như “Cá nước”... “Lượm”). Và một loại bài nói về những vấn đề lớn.
Tôi đọc thấy có những bài thích lắm và có những bài không thích, hoặc chán nữa.
Những bài thích như: “Cá nước”, “Phá đường”, “Bà mẹ Việt Bắc”, “Lượm”, “Sáng
tháng Năm”, “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”, “Ta đi tới”, “Việt Bắc”. Tôi không có
lý luận văn nghệ, tôi thích vì những lẽ sau đây:
1) Thi sĩ đã nói hộ tôi những tình cảm sâu kín, tôi cũng mang máng có mà không
biết nói ra thế nào cho được. Khi thấy anh bộ đội (tuy tôi cũng là bộ đội) hiền
lành mà gian khổ anh dũng, tôi cũng chỉ biết thì thầm "Anh
Vệ quốc quân ơi! sao mà yêu anh thế".
Tôi cũng thấy "má
anh vàng nghệ"
là đáng yêu thật chứ chả có gì là tồi tàn xấu xí cả.
- Lại như đối với “Việt Bắc”, có người bảo tình cảm lê thê đi xuống, hiu hắt, là
tôi không chịu. Tôi thấy hay lắm. Sống ở Việt Bắc mấy năm kháng chiến, qua gốc
đa lần nào gặp Bác, dự Hội nghị, đi hành quân đêm, ngủ nhà sàn, ăn sắn nướng,
v.v... Tôi thấy âu yếm thấm thía lắm. Khi xa Việt Bắc quả thấy một nỗi nhớ kiểu
nhớ quê hương sâu và thấm lắm. Nhớ nó man mác, nó buồn, nghĩ đến những làng bản,
có cô gái đan nón, có em bé hái măng, có trám bùi, v.v... mà thực tế sau này ít
có dịp gặp lại. Nhưng chỉ biết hẹn thầm bao giờ các cụ về Thủ đô chơi, hy vọng
sau này giao thông thuận lợi mọi nơi đều sầm uất.
Những câu:
Mình về
rừng núi nhớ ai
Trám
bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi
có nhớ những nhà
Hắt hiu
lau xám, đậm đà lòng son
có người chê là buồn. Không, tôi đọc đến đấy tôi thấy nhớ lại những cảnh chặt
trám, hái măng vui vẻ, của bộ đội và cơ quan. Nay không còn nữa trám rụng, măng
già, một nét rất ý vị sâu sắc. Sự thực còn buồn hơn nhiều: có thể là: "Ðường
đi để rậm, xóm thôn cọp về",
tôi đã gặp lại mấy đồng chí ở chợ Chu kể thế. "Hắt
hiu lau xám, đậm đà lòng son"
thì có gì là buồn. Những làng bản lẻ tẻ dưới chân núi, trông cô đơn thật, nhưng
vào đến nhà, lửa lúc nào cũng đỏ bếp, nước chè ngon sẵn sàng nghi ngút, điếu cầy
kêu vang. Không buồn gì đâu, đằm thắm và ấm cúng lắm. Tôi cho rằng buồn là tùy
người. Ðọc bài thơ “Việt Bắc”, từng lời từng điệu cứ như thấm vào người, nhưng
nó chỉ làm cho tôi yêu đất nước tươi đẹp thêm, yêu những người dân Việt Bắc hồn
hậu thêm, tin tưởng vào tương lai, kiêu hãnh với kháng chiến, với lòng yêu nước
của nhân dân thêm. Tôi chả thấy buồn thỉu đi, hay buồn đi xuống gì cả. Tôi cho
là bài “Việt Bắc” hay lắm. Tôi không tin rằng tôi là tiểu tư sản mà thích lệch.
Các bài khác như bài “Ðiện Biên”, “Ta đi tới”, cũng thế. Có người bảo nó "chính
trị", không phải, đánh ở Ðiện Biên Phủ, chúng tôi nghĩ tới Bác Hồ, nghĩ tới anh
Ðồng, nghĩ đến Hội nghị Giơ-ne-vơ ghê lắm. Thắng xong, muốn nhảy lên, muốn kêu
lên nói ngay cho Bác biết, cho anh Ðồng biết. Có một anh dân công về nói chuyện
với người làng còn bịa ra: "Ðánh xong một cái, tôi thấy anh chỉ huy Ðại đoàn gọi
ngay ra-đi-ô sang Giơ-ne-vơ cho Phó Thủ tướng".
Vậy thì đó là tình cảm của quần chúng trong thời đại mới không phải là chuyện
chính trị khô khan. Tôi cũng rất thích bài đó vì nó nói hộ cái vui mừng phấn
khởi của tất cả chúng tôi, v.v...
2) Những bài thơ đó đều ghi lại một hình ảnh sâu sắc của mỗi thời kỳ đấu tranh
của ta.
Ví dụ bài
“Phá đường”,
tôi nhớ mới đầu kháng chiến có ai đeo ba-lô đi lại nhiều ở đèo Khế, Cao Vân,
Quảng Nạp thì mới thấy "rét
Thái Nguyên, rét về Yên Thế, gió qua rừng đèo Khế gió sang..."
là thấm thía. Ai bảo đó là hình ảnh khổ sở? Không, đó là nghị lực đấu tranh, đó
là sự thử thách, và đó cũng là những kỷ niệm sâu sắc. Bài thơ này hay, nhưng
chưa hay lắm vì tình cảm nó chưa đầy đủ, nói chưa hết, chưa sâu, và kết luận hơi
yếu!
Lại như bài “Lượm”, biết bao nhiêu là Lượm đã hy sinh như thế. Có những Lượm đã
hy sinh ngay ở đồn giặc nữa. Có những Lượm hiện tại đã là cán bộ Ðại đội, Tiểu
đoàn, đều xuất thân từ liên lạc như thế, đều như con chim chích nhảy trên đường
vàng. Bài thơ đó đã ca tụng một lớp thiếu niên trong trẻo anh hùng của đất nước
một cách tài tình.
Bài “Voi” tả rất đúng tâm trạng chúng tôi khi mới có vài khẩu pháo nhỏ, khênh ỳ
à ỳ ạch; đúng là "con đường Vệ quốc". Chúng tôi cũng thấy những câu ấy đọc một
lần là nhớ ngay và nó cứ ngân vang mãi, lắm lúc tưởng như mình cũng làm câu thơ
như thế.
Bài “Ta đi tới” cũng hay lắm, nó đúng vào lúc ta đang làm đường rộng thênh thang.
Sau khi đình chiến chúng tôi hành quân ban ngày, thấy các chị đi chợ, các em đi
học, thuyền buồm căng trên sông, trời có mây bay, v.v... Sau bao nhiêu năm chỉ
sống kiểu "con vạc", những ngày tháng 8-54 thật là rộn ràng ý nghĩa, muốn ghi
lại... Nhưng nhà thơ Tố Hữu đã ghi hộ.
Hiện thực là gì? Chất sống là gì? Nghệ thuật quần chúng là thế nào? Tôi chưa
phân tích được! Nhưng tôi thấy thơ Tố Hữu (với những bài tôi kể trên) đã nói hộ
những tình cảm của quần chúng, kích thích được những yêu, ghét, nhớ nhung, phấn
khởi của quần chúng đúng lúc và sâu sắc. Tôi không tán thành một vài đồng chí
phê bình cứ nêu lên tình cảm, sức sống của thời đại phải mạnh mẽ, quyết liệt,
hừng hực, băng băng rồi bảo thơ Tố Hữu buồn, hoặc nêu lên sự sống phải thế này
phải thế nọ rồi bảo thơ Tố Hữu chưa sống, hình ảnh trong thơ Tố Hữu còn bàng bạc,
v.v... Tôi cho rằng những nhà phê bình đó không chú trọng đến quần chúng, khinh
quần chúng và chưa gần quần chúng, chưa hiểu quần chúng bằng thơ Tố Hữu đã hiểu,
chính cái "sự sống" cái tình cảm "thời đại" mà các đồng chí ấy nêu lên lại trừu
tượng, xa vời lắm lắm.
Có những bài thơ của Tố Hữu, tôi không thích vì nói không trúng ý, chủ đề nhạt
nhẽo và diễn tả ra gượng gạo. Nhất là bài “Bắn” và bài “Lại về”. Bài “Bắn” tả
tình cảm chả ra của anh pháo thủ, mà cũng chả ra là người xem pháo thủ bắn, chả
ra của cấp chỉ huy, hay của chiến sĩ. Bài “Lại về” gượng gạo quá. Tôi đọc những
bài thơ ấy không thấy rung động.
Về cái buồn tiểu tư sản trong thơ Tố Hữu tôi cũng cảm có, nhưng không phải là có
một cách hệ thống và trầm trọng. - Nó chỉ ở một vài bài, một số câu:
Vườn
hồng ngớt gió mưa qua
Cờ bay
đỏ nắng mái nhà vàng sao.
...............
Biết
bao sung sướng tủi hờn
Trông
nhau mà tưởng như hồn còn mơ
Nhưng tả bộ đội: “Bộ
nó rõ oai - Vai thì đeo súng - Ngực chéo hai quai _ áo thì thắt bụng - Ðầu nó
đội mũ - Có cái sao vàng...”
thì không có chút nào tiểu tư sản cả, mạnh mẽ gọn gàng, đáng yêu, rõ ra hình ảnh
một chiến sĩ thân yêu của nhân dân. Hay nói đến Hồ Chủ tịch mà
Ta bên
Người Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng
lớn ở bên Người một chút
thì từ cán bộ cao cấp đến chiến sĩ, đến người dân thường đều thấy thế thật: phấn
khởi, tin tưởng, thêm nghị lực đấu tranh nhiều lắm.
Về chủ đề. Có người cho thơ Tố Hữu rộng quá. Tôi cho là không phải. Thơ của
Mai-a-kốp-ski còn rộng hơn nhiều nữa kia. Nhưng cố nhiên Tố Hữu còn kém Mai-a-kốp-ski.
Có người bảo Tố Hữu chính đi sâu vào từng khía cạnh của tâm tình. Ðòi hỏi Tố Hữu
một cách theo ý mình thì không được. Lúc nào nhà thơ đi sâu vào thì nhà thơ đã
đi sâu (“Bà mẹ Việt Bắc”, “Lượm"). Còn với điều kiện sống của nhà thơ hiện tại
thì “Ta đi tới”, “Việt Bắc” là sâu sắc và đi vào khía cạnh rồi còn gì?
Trên đây là tôi thành thực phát biểu cảm tưởng, ý kiến của một độc giả thông
thường đối với thơ Tố Hữu. Và cũng nhân danh độc giả đó đề nghị các nhà phê bình:
bớt lý luận dài dòng, phân tích chủ quan, trừu tượng, đôi lúc bộc lộ ý xấu, mà
nên thiết thực hơn, chỉ chỗ hay, vạch chỗ dở một cách rõ ràng có nghiên cứu, vô
tư cho chúng tôi học với, không nên đem một lô danh từ, vấn đề ra mà không giải
quyết được gì cụ thể cả. Xin hiểu cho trình độ và nguyện vọng của những độc giả
thông thường. Xin đừng phủ nhận tất cả thẩm mỹ của quần chúng độc giả thông
thường đó và đừng bắt các độc giả thông thường đó phải là thi sĩ để thưởng thức
thơ.
5-1955
Nguồn: Văn nghệ, số 72 (21.5.1955)