41.
TRƯƠNG CHÍNH
Chung quanh tập thơ
Việt Bắc:
Ý kiến của các bạn văn nghệ
L.T.S.
- Tiếp theo ý kiến một số bạn đọc, chúng tôi trích đăng ý kiến của những anh chị
em văn nghệ. Ban Văn của Hội Văn nghệ Việt Nam sẽ có một bản nhận định về tập
thơ
Việt Bắc
công bố trên báo này.
[1]
Có điều này ai cũng phải công nhận là cách điệu của tập
Việt Bắc
khác hẳn tập
Thơ
xuất bản năm 1946. Trong tập
Thơ
1946, tình cảm của Tố Hữu sục sôi, quằn quại, mãnh liệt, lời thơ ran nóng, hăng
say, khi tức tối, uất ức thì gào thét lên, lồng lộn lên, khi vui thì điên loạn
lên như trong bài “Huế tháng Tám” là bài kết thúc một giai đoạn và mở đầu một
giai đoạn mới trong đời Tố Hữu, sát theo một giai đoạn mới của Cách mạng Việt
Nam.
Nhưng từ đó về sau, thơ Tố Hữu êm ả hơn, ngọt ngào hơn, trong sáng hơn. Tâm hồn
Tố Hữu lắng xuống như làn sóng biển sau cơn bão táp:
Anh về
cối lại vang rừng
Chim
reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về
sáo lại ái ân
Ðêm
trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
hay là:
Suối
dài xanh mướt nương ngô
Bốn
phương lồng lộng thủ đô gió ngàn
Ngay trong những bài như
“Hoan hô chiến
sĩ Ðiện Biên”,
cũng đột nhiên có những câu rất lắng lại:
Mường
Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ
lại trắng, vườn cam lại vàng
Theo ý tôi thì tuy cách điệu của hai tập thơ có khác nhau, nhưng nội dung tình
cảm vẫn không hề thay đổi. Ta không thể nói Tố Hữu, trước ngày giải phóng, thì
cách mạng hơn, căm thù giặc hơn, giàu tinh thần chiến đấu hơn là trong thời kỳ
kháng chiến.
Sở dĩ cách điệu khác nhau là hai tập thơ làm trong hai thời đại khác nhau. Tâm
hồn nhà thơ cũng là tâm hồn của thời đại và thay đổi theo thời đại.
Cái thuở còn trong vòng xiềng xích, địch mạnh ta yếu, địch có nhà tù, mũi súng,
lưỡi lê, mà ta chỉ có hai bàn tay không và tinh thần cách mạng, thì không có
cách nào hơn là:
Giương
mắt chĩa vào quân thù ác độc
Những
ánh lửa xanh lè và hằn học
Hận
trào lên khinh cái chết kề bên...
Và la ó, chửi mắng, gào thét, và gào thét nữa:
Tôi chỉ
gào và chỉ nhớ còn tôi
Tôi cố
thét, sao vẫn còn nhỏ quá!
Những
tức tối, trời ơi! không thể hả,
Như một
con chó dại bỗng lên cơn,
Tôi
lồng lên, tôi cố thét to hơn
Ðể căm
giận trút ào trong tiếng phổi
(“Tranh
đấu”
- Thơ trước 1945).
Chỉ có như thế mới hả được nỗi uất hận trong lòng, mới động viên được mình và
động viên được người khác. Cho nên không thấy làm lạ thơ của Tố Hữu hồi đó - "Trào
lên những giòng thơ hừng hực, đỏ rực căm thù" (Hoàng Yến).
Một khi đã được giải phóng rồi, tuy còn phải kháng chiến trường kỳ gian khổ mới
đến thắng lợi ngày nay, nhưng chúng ta được ngang nhiên dùng súng và đạn thật để
trả lời địch, để tiêu diệt địch, không cần phải nghiến răng gào thét nữa. Nỗi
uất hận phải biến thành hành động. Và ở Tố Hữu, cũng như ở tất cả những người
kháng chiến, đã biến thành hành động. Hò hét bây giờ chỉ thêm ồn và có thể làm
giảm mất một phần sinh lực.
Một mặt khác, chúng ta vừa kháng chiến vừa kiến thiết, tương lai đã nằm trong
lòng hiện tại, đỏ rực lên chứ không còn "le lói như ánh sao xa" trong câu thơ
ngày nọ. Chúng ta kháng chiến gian khổ, nhưng nghĩ đến tương lai thì lại phấn
khởi ngay. Cũng vì thế mà, giữa lòng kháng chiến, vẫn có những vần thơ hiền hòa,
lạc quan, lành mạnh.
Cách điệu thay đổi còn là vì Tố Hữu đã chuyển từ thơ tự thuật sang thơ gợi cảm.
Trừ một số bài rất ít như “Bắn”, “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”, v.v... Tố Hữu
thường ghi cảm xúc của mình, không kể lể, không diễn tả, không lý luận như hồi
trước nữa. Có khi anh không nói thành lời, mà để người đọc tiếp tục cảm xúc cái
cảm xúc của mình. Chính vì thơ anh gợi cảm, cho nên vai trò của người đọc trong
việc thưởng thức thơ rất quan trọng. Người đọc cũng phải tích lũy được trong tâm
hồn mình một số cảm xúc nào đó, một số tình ý, một số hình ảnh nào đó, nghĩa là
người đọc cũng phải có một quá khứ, một lịch sử, thì mới góp được phần của mình
trong việc xây dựng bài thơ. Người ta thường bảo "hương gây mùi nhớ", nhưng cùng
một mùi hương, có người nhớ đến việc này, có người nhớ đến việc kia và có người
không nhớ gì cả, là vì thế.
Trong tập
Việt Bắc,
có nhiều câu thơ chỉ toàn là những tên đất ghép lại, mỗi tên đất đều gợi lên một
sự kiện lịch sử, một kỷ niệm của cuộc kháng chiến, một tình yêu đối với non sông
đất nước. Nhà thơ nhắc lại, thấy đầy đủ lắm rồi, không còn phải nói thêm. Nói
thêm là thừa.
Thơ cũng có một sức mạnh gợi cảm như hội họa, như âm nhạc, như kịch tuồng. Nhưng
một bài thơ không lợi dụng được thị giác như một bức họa, không lợi dụng được
thính giác như một bài nhạc, không lợi dụng được thị giác và thính giác như một
màn kịch. Thơ chỉ đánh được vào tình cảm. Ðó là yếu điểm
[2] mà
cũng là nhược điểm
[3]
của thơ. Nếu không nắm vững điều đó thì có thể thấy bài thơ nào cũng "bất lực",
cũng chưa "sôi nổi", chưa "dựng" được cái này, cái nọ.
Một tác phẩm khi xuất bản ra mọi người đều có quyền khen hay chê, mà chính tác
giả cũng muốn người ta khen và cả chê nữa. Ðành rằng khen hay chê không nhất
thiết lúc nào cũng phải cho đúng. Nhưng cần phải thận trọng. Bởi vì, người ta
sáng tác mà mình phê bình cũng giống như người ta hát mà mình đánh nhịp. Ðánh
nhịp thì phải thành tâm và thận trọng, nếu không, mình đánh nhịp sai, thì người
hát vững cũng dễ lạc điệu!
Nguồn:
Văn nghệ,
số 73 (1.6.1955)
[1]Ðây
là lời tòa soạn báo Văn nghệ (NST).
[2]Yếu
điểm: chỗ trọng yếu (important point).
[3]Nhược
điểm: chỗ thiếu sót, chỗ yếu ớt (theo Ðào Duy Anh, Hán-Việt từ điển).