4.
XUÂN DIỆU
Ðọc tập thơ Việt
Bắc
Tập thơ thứ hai của Tố Hữu,
Việt Bắc,
xuất bản trong những ngày tưng bừng rầm rộ nhân dân ta, giữa thắng lợi hòa bình,
kỷ niệm ngày toàn quốc kháng chiến cách đây tám năm, kỷ niệm 10 năm thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam; riêng ở thủ đô mới giải phóng, lại thêm không khí
nhân dân thủ đô cuồn cuộn dự lễ chào mừng Hồ Chủ tịch và Chính phủ trở về Hà Nội.
Trong những ngày lớn lao ấy của dân tộc, có hòa chen một ngày lớn của thơ Việt
Nam.
Chín năm thơ của Tố Hữu, từ Tổng khởi nghĩa, trải qua kháng chiến, đến hòa bình,
đã được tuyển lựa thành tập thơ
Việt Bắc.
Mới nhìn qua, đó chỉ là một bìa sách sáng tươi, trang nhã giữa bao nhiêu bìa
sách khác, nhưng tập sách gọn gàng kia quả là đánh dấu một việc lớn của văn
chương Việt Nam. Những bài thơ tám chín năm nay tác chiến trên mặt trận tinh
thần, khi ào ạt "sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp", khi rì rầm trong nghìn
vạn lòng người, khi tươi nở theo bài hát, điệu ngâm, những bài thơ làm công tác
quần chúng một cách sâu sắc, vững vàng, nay hợp thành sách cho ta yêu mến, ngẫm
nghĩ lâu dài, cho ta cân nhắc và định giá. Chúng ta cần đọc đi đọc lại, xem kỹ,
thảo luận, phê bình, để hoàn toàn tiếp lĩnh sự cống hiến của Tố Hữu vào cái vốn
chung, để nâng niu xứng đáng những tâm huyết của người làm thơ, và người ấy đã
cho ta hơn cả sự sống của người ấy, cho ta những tinh chất ngày đêm lọc ra từ
hồn, từ óc, từ trái tim, mạch máu của người làm thơ.
Cách
mạng và thơ:
Con đường ngót 20 năm nay Tố Hữu đã đi là một con đường vinh quang kỳ diệu. Chỗ
kỳ diệu lớn lao là nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ, và thơ rất
thành công. Cái vinh quang của văn nghệ Việt
Nam là đã có một nhà thơ con đẻ của cách mạng, lớn lên với cách mạng và kết tinh
cuộc cách mạng. Cả cuộc đời của Tố Hữu đến nay là một thủy tinh trong sáng; từ
tuổi thiếu niên đi học đã hoài bão phản phong, phản đế; tuổi thanh niên là bao
nhiêu năm tù đày, vượt ngục; tuổi tráng niên mải miết dựng xây, thực hành lãnh
đạo; cái say mê vui thú của Tố Hữu là làm cách mạng; cái hơi thở tự nhiên của
tâm hồn Tố Hữu là chiến đấu, hy sinh. Thơ Tố Hữu hay, vì cuộc đời và tâm hồn của
Tố Hữu đẹp. Cuộc đời Tố Hữu là một bài thơ cách mạng rồi.
Thơ Tố Hữu từ cuộc đời cách mạng của thi sĩ và từ phong trào cách mạng của nhân
dân mà phát ra, trở lại góp sức đẩy cho cách mạng lớn mạnh. Cách mạng càng ngày
càng thắng lợi, càng to lớn, đồng thời cũng đưa tài thơ của Tố Hữu nở dần đến
chỗ tròn đầy, lộng lẫy. Ðó là sự tương quan mật thiết giữa hành động và văn
chương và Tố Hữu là điển hình đẹp nhất.
Nhà
thơ của thời đại:
Từ 1932 đến 1945, trong khi các nhà thơ khác đắm chìm trong phong trào "thơ mới"
mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong, hát những bài ca tranh đấu.
Tập thơ của Tố Hữu ra sau Tổng khởi nghĩa (1946)
[1]
tập hợp 10 năm thơ cách mạng đã là tiếng thơ tiến bộ nhất của thời đại; có thể
nói: một mình Tố Hữu đã giương cao lá cờ chiến đấu của thơ, tô thắm cho nó và
giữ thắm cho nó trong suốt một thời kỳ nghiêng nghèo, tối tăm, để đưa nó ra tung
bay dưới mặt trời rực rỡ của cách mạng tháng Tám.
Từ đó Tố Hữu tiếp tục hát ca những tình cảm chính của thời đại, từ sau Tổng khởi
nghĩa, trải qua 8 năm kháng chiến; đến hòa bình. Tố Hữu là một nhà thơ thời sự.
Nhưng cái thời sự của Tố Hữu không giống cái thời sự của Tú Mỡ. Cố nhiên tôi
không thể so sánh một nhà thơ trào phúng với một nhà thơ trữ tình
[2] mà
chỉ đem so sánh hai tính chất thời sự thôi, vì theo ý tôi, Tố Hữu và Tú Mỡ là
hai nhà thơ thời sự nhất. Tú Mỡ viết báo bằng thơ trào phúng, viết rất hợp thời
và "có ngay", nhưng đây mới chỉ là cái thời sự của tin tức và sự việc, cái thời
sự làm cho người ta vui thích mà chưa đi sâu thực hiện "nhà thơ là một kỹ sư của
tâm hồn". Còn thơ Tố Hữu là cái thời sự tình cảm của thời đại, không nhất thiết
phải kịp hàng tuần, hàng tháng, không nhất thiết việc gì cũng phải nói đến,
nhưng những ý tình lớn của con người cách mạng và kháng chiến, Tố Hữu đã nói lên
thấm thía, những chuyển biến lịch sử, Tố Hữu đã kết đọng lại thành tâm tình.
Một số bài thơ không in lại trong tập
Việt Bắc
này, người đọc vẫn nhớ: “Huế tháng Tám” (1946) gợi lại mối tình đầu của đất Thần
kinh phong kiến đối với cuộc Cách mạng của nhân dân; “Tình khoai sắn” (1946)
ngợi ca phong trào tăng gia sản xuất khi mới nhóm; “Nhớ người chị phương Bắc”
(1946), là lời tỏ tình thứ nhất của Cách mạng tháng Tám với Cách mạng tháng Mười
(lời tỏ tình thứ hai là Bài ca Tháng Mười,1950).
Cuộc kháng chiến bùng nổ. Bài thơ xuất sắc đầu tiên trong giai đoạn này của Tố
Hữu là bài “Cá nước”. Tôi còn nhớ năm 1947, khi bài thơ này xuất hiện trên tạp
chí Văn
nghệ
số 1. "Bóng tre trùm mát rượi" không những lưng đèo Nhe, mà trùm mát rượi cả bài
thơ. Anh Vệ quốc quân kháng chiến lần đầu vào trong thơ, trong sáng lạ thường.
Nhìn anh trong bài thơ, cả nước Việt
Nam đồng lòng đọc lên hai câu thơ của Tố Hữu giản đơn như không có gì, mà thực
ra mạnh mẽ như một chân lý:
Anh Vệ
quốc quân ơi
Sao mà
yêu anh thế!
Tình cá nước xưa kia, theo điển tích, có nghĩa là tình chồng vợ, thì đến nay,
dựa theo một câu của Giải phóng quân Việt Nam trong thời kỳ bí mật: "Dân là nước,
du kích là cá", Tố Hữu đã lấy sức mạnh của thơ làm cho tình "cá nước" thành hẳn
điển hình của một tình cảm mới lớn lao của thời đại: tình quân dân.
Một bài thơ khác được truyền tụng đến thành bài thuộc lòng của dân chúng, là bài
“Phá đường” (1947). Giai đoạn phòng ngự của kháng chiến được lột tả độc đáo
trong một sự việc; đường hiện nay đã đắp liền lại rồi, mà bài thơ ghi tạc không
phai cái công sức phá đường của nhân dân vào lịch sử.
Tố Hữu đã mến yêu rất mực bà Mẹ Việt Nam, bà mẹ đẻ những người Vệ quốc quân, bà
mẹ nuôi các anh cán bộ, bà mẹ mà tấm lòng yêu thương như biển cả là một nguồn ủi
an, khuyến khích vô hạn cho lũ con. Tố Hữu đã ca ngợi bà mẹ đó trong hình ảnh bà
mẹ Việt Bắc ngồi kể "chuyện nhà chuyện cửa" bên bếp lửa, trên nhà sàn; trong
hình ảnh "bà bủ nằm ở chuối khô" nhớ con đi bộ đội:
Năm xưa
cơm củ ngon chi
Năm nay
cơm gié nhà thì vắng con
Trong hình ảnh bà bầm suốt đời thắt lưng buộc bụng, vì tuyệt vời hy sinh tận tụy,
nên mới sinh ra những đứa con bộ đội anh dũng tuyệt vời:
Con đi
trăm núi ngàn khe
Chưa
bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi
đánh giặc mười năm
Chưa
bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Tố Hữu đã tạo ra được điển hình chú Lượm tượng trưng cho các cháu tươi vui và
anh dũng của Bác Hồ:
Cháu bé
loắt choắt
Cái xắc
xinh xinh
Cái
chân thoăn thoắt
Cái đầu
nghênh nghênh
Ca lô
đội lệch
Mồm
huýt sáo vang
Như con
chim chích
Nhảy
trên đường vàng.
Qua một bài thơ nhỏ “Em bé Triều Tiên”, Tố Hữu đã tỏ cảm tình của dân tộc ta với
dân tộc bạn đau thương, anh dũng đang kháng chiến như mình.
Sta-lin mất, những giòng nước mắt của nhân dân ta đã chảy thành những câu thơ
“Ðời đời nhớ Ông” của Tố Hữu.
Và tôi suy nghĩ: nhà thơ ca ngợi Hồ Chủ tịch vĩ đại của chúng ta trong nhiều
trường hợp hơn cả, và bằng những lời sâu xa hơn cả cũng là Tố Hữu của chúng ta.
(“Sáng tháng Năm” và nhiều đoạn thơ khác).
Ðến năm 1954! Kháng chiến lớn mạnh phi thường. Những sự việc tiệm tiến bao lâu,
nay bỗng chốc lớn lao vượt bực! Tháng Năm 1954: Chiến thắng Ðiện Biên Phủ nổ như
một tiếng sấm chấn động địa cầu. Bước mạnh của lịch sử lúc này đã nhìn thấy Tố
Hữu thật xứng đáng là nhà thơ của thời đại. Như một cánh buồm kỳ diệu kịp giương
lên với gió lớn, bọc lấy gió lớn trong thân mình và rướn lên mạnh mẽ, tài thơ
của Tố Hữu theo tiếng gọi kích thích của lịch sử, cũng từ chỗ tiệm tiến vượt lên,
nở ra, rộng tỏa, chín thơm. Liên tiếp mấy bài thơ lớn sinh ra. Bài “Hoan hô
chiến thắng Ðiện Biên” đúc kết những chuyện hy sinh chiến đấu hàng ngày của quân
và dân ta, khoét sâu cái nhục nhã của địch và nghiêm khắc cảnh cáo bè lũ chúng
nó. Rồi quân địch phải nhận đình chiến. Bài “Ta đi tới” khí thơ hùng mạnh, tương
xứng với bước đi không có gì ngăn nổi của dân tộc ta. Hồ Chủ tịch, Trung ương
Ðảng và Chính phủ sắp sửa về thủ đô: Tố Hữu vẫy chào và hứa hẹn với căn cứ địa
Việt Bắc trong một bài thơ thật đẹp. Những ngày đầu tiếp quản, nhân dân Hà Nội
đã được đọc bài “Lại về” trên báo
Nhân dân.
Cho đến khi tập
Việt Bắc
đã in và phát hành rồi, đón một lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Trước kia ta
mới có rừng núi, có đêm, ngày nay ta có thêm biển, thêm ban ngày...", Tố Hữu đã
ghi câu nói lịch sử, sự kiện lịch sử, và ngày, tháng, năm lịch sử (1-1-55) trong
những vần thơ đúng, sát:
Cảm ơn
người Hồ Chí Minh vĩ đại
Bốn
nghìn năm ta lại là ta
Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà
Hôm nay
mười tuổi cầm hoa tặng người
Như vậy, chúng ta thấy Tố Hữu đã nói được những tình cảm lớn của thời đại; chúng
ta thấy ở mỗi bước lịch sử của Cách mạng, của Dân tộc, hồn thơ của Tố Hữu đã có
những tiếng ngân vang xứng đáng, kết tinh được thời gian và không gian cụ thể đó
và truyền mãi tiếng thơ về sau... Chúng ta tưởng như tâm hồn Tố Hữu là một cái
kho luôn luôn sẵn, đầy, có đủ hình ảnh, nhạc điệu, ý tình để âu lo, vui sướng,
ngợi ca với toàn dân tộc. Cái kho quý báu đó, chính cuộc đời cách mạng của Tố
Hữu đã tích lũy cho Tố Hữu. Tính cách thời sự của thơ Tố Hữu quyết không phải là
một bộ máy tốt để bắt vần, mà là một sự sáng tạo tươi mới luôn, bằng tinh lực
của tâm trí. Hoa trái ngày nay thơm, tốt, nhưng rễ thì đã mọc sâu từ hai mươi
năm. Rễ nuôi bằng tư tưởng, lập trường của chiến sĩ, rễ sống bằng tơ lòng, mạch
huyết của thi nhân. Tố Hữu chân chính là nhà thơ của thời đại.
Tính
cách quần chúng:
Rất nhiều người làm thơ trong bao nhiêu năm đã đi tìm cái mới. Có người đã tưởng
cái mới ở trong những câu thơ lý luận biện chứng pháp; có người tưởng cái mới ở
trong những tiếng địa phương, những tiếng dùng của nông dân cho vào thơ; có
người đã sáng kiến ra: mới là làm thơ không vần; hiện nay cũng còn những người
tưởng thơ mình mới nhất vì cách tạo hình ly kỳ, nhịp thơ khúc khuỷu, điệu thơ âu
tây...
Cho đến năm 1951-52, nhiều bạn thơ vẫn còn tìm đường, trong khi đó thì từ 1947,
48, Tố Hữu đã đi con đường đúng, con đường mới. Bài “Phá đường” in ra, trăm
miệng một lời đều yêu thích, ai cũng cảm cái thi vị bao la của những câu:
Rét
Thái Nguyên rét về Yên Thế
Gió qua
rừng đèo Khế gió sang
Ai cũng thấm thía hình ảnh người phụ nữ Việt Nam:
Em là
con gái Bắc Giang
Rét thì
mặc rét, nước làng em lo
Nhà em
phơi lúa chưa khô
Ngô
chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em
con bế con bồng
Em cũng
theo chồng đi phá đường quan.
Chưa bao lâu, rất nhiều người đã thuộc, và ở xã, các bà mẹ, các chị đã hát ru em...
Bài “Phá đường” là thành công hoàn hảo đầu tiên của thơ kháng chiến; nó bỏ xa
lắc xa lơ cái điệu thơ mệt nhọc, cũ kỹ của một số nhà thơ đang vẫn nặng mang quá
khứ; thật không còn một chút tăm hơi bóng dáng gì của điệu thơ cũ, nó thật là
mới, nó thật là trẻ, gân cốt thanh xuân, nó đi thoăn thoắt, lời thơ trong như
nước suối, điệu thơ nhanh nhẹn, vui tươi. Cái mới, cái xuân ấy ở đâu ra? Ở nơi
quần chúng mà ra. Tố Hữu đã tìm thấy điệu thơ mới, điệu thơ của thời đại không
phải ở đâu xa, không đợi ở chốn nào hiểm hóc, lạ lùng, mà ở ngay trong đất nước
nhà, trong bà con thôn xóm hàng ngày, trong những người lao động, trong quần
chúng.
Bài “Phá đường” năm 1948 là một sáng tạo. Tác giả không làm bài thơ của một văn
nghệ sĩ mô tả, suy luận về công tác phá hoại, mà làm bài thơ của một phụ nữ đi
phá đường, bài thơ của người chủ lực, của quần chúng. Bài thơ ngọt như một bài
ca hát, tươi tắn như người vừa làm việc, vừa cười vui, thiết thực, giản đơn, ý
nhị; tiếng cuốc phá đường ở Bắc Giang, ở khắp Việt Bắc hòa vào khung cảnh mênh
mông gió rét trăng lu.
Thơ làm theo phương pháp ấy nhất định là mới, là trẻ. Vì cái mới, cái trẻ của
thời đại chúng ta then chốt nằm ở trong những lực lượng mới, trẻ của quần chúng
vĩ đại; trên sân khấu của lịch sử, họ là những vai chính mới, trẻ. Căn bản cái
mới, cái hay của thơ Tố Hữu, theo ý tôi, là tính cách quần chúng của thơ ấy.
Một nhà thơ nào khác muốn ngợi ca căn cứ địa Việt Bắc có lẽ đã làm một bài thơ
rắc rối, tham lam; Tố Hữu lấy lời của một bà cụ hiền lành:
Ðêm nay
trên sàn
Bập
bùng ngọn lửa
Mé kể
nguồn cơn
Chuyện
nhà chuyện cửa.
Câu chuyện từng đoạn, từng đoạn, chậm rãi
[3]
thấm vào lòng người, và đến câu thơ cuối cùng, người nghe chỉ còn tự kết luận:
Ðấy là Việt Bắc anh dũng, thuần túy, thiêng liêng...
Năm 1948, Tố Hữu đi với pháo binh, viết tặng pháo binh những bài thơ mà các anh
chiến sĩ nâng niu, thuộc lòng, vì chính những nỗi lòng mình đã được nhà thơ nâng
niu, hiểu, thuộc. Trong kháng chiến, bao nhiêu con xa mẹ, bao nhiêu mẹ xa con mà
không yêu mến, cảm tạ nhà thi sĩ đã viết những câu thấu tận nhân tình như:
[4]
Bầm ơi
có rét không bầm,
Heo heo
gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra
ruộng cấy, bầm run
Chân
lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non
bầm cấy mấy đon
Ruột
gan bầm lại thương con mấy lần
Mưa
phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao
nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu...
Người ta tự hỏi: Sao người thi sĩ có thể hiểu biết sự vật, hiểu biết lòng người
đến như vậy? Ðó là những câu thơ chảy nước mắt, cái nước mắt không bi thảm, mà
là cái nước mắt sung sướng của tâm hồn khi được nghệ thuật động tới chỗ cao sâu.
Cả bài thơ vào nằm trong lòng người và ở luôn trong đó như một suối ngọt ngào,
một niềm an ủi. Bài “Bầm ơi” thật xứng đáng với tình mẹ con muôn đời.
Phần lớn những bài thơ Tố Hữu đều có một dáng dấp hiền lành như thế. Tố Hữu diễn
tả tình cảm bản thân của quần chúng, nhân vật trong thơ là quần chúng tự nói,
cách nói cũng là cách nói của quần chúng. Sta-lin mất, bao nhiêu nhà thơ chân
thành đau đớn, nhưng chỉ diễn tả từ trong bản thân ra, nên sự truyền cảm cũng
hẹp đi; Chế Lan Viên còn viết:
Nhớ bài
thơ Nê-ruy-đa cũ
[5]
Ca ngợi
đêm khuya phòng điện Krem-lanh
[6]
Cách dùng điển tích mới như vậy thực ra chỉ có một thiểu số hiểu. Chỉ riêng Tố
Hữu, với cái quan điểm quần chúng đã hầu như một thiên tính trong người chiến sĩ
cách mạng lâu năm, làm ngay lời của một người mẹ nói với con nhỏ:
Bữa
trước mẹ cho con xem ảnh
Ông
Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông
trắng giữa mây hồng
Mắt Ông
hiền hậu, miệng Ông mỉm cười.
Và bài thơ “Ðời đời nhớ Ông” cũng là bài thơ khóc Stalin phổ biến hơn cả, khả dĩ
nói được nỗi lòng của đa số người.
Bộ đội, nông dân, công nhân, các cán bộ xã, các bà mẹ, các chị rất dễ gần với
thơ Tố Hữu; họ không thấy xa xa, khác khác, ngại ngại như đọc những giọng thơ
thông thái, khó khăn. Tố Hữu và quần chúng gặp nhau là thoải mái liền; thi sĩ
nói giọng người nhà, lời thì thân mật, nôm na nhưng tứ thơ lại rất bao la, thấm
thía:
...Bác
kêu con đến bên bàn
Bác
ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ...
...Bàn
tay con nắm tay Cha
Bàn tay
Bác ấm vào da vào lòng
Bác
ngồi đó, lớn mênh mông
Trời
xanh biển rộng ruộng đồng nước non
(“Sáng tháng Năm”)
Như vậy, chúng ta không lấy làm lạ, một số bài thơ của Tố Hữu, trước khi công bố
lên mặt báo chí, trong khi tác giả còn cân nhắc thêm và sửa chữa, người ta đã
tay nọ chuyền tay kia chép vào sổ tay; chúng ta không lấy làm lạ người mới thông
quốc ngữ cầm bài thơ Tố Hữu đọc từng dòng một; chúng ta không lấy làm lạ các anh
bộ đội đi hành quân, buột mồm lấy thơ Tố Hữu làm thơ của mình; bài “Em bé Triều
Tiên”, bài thơ dịch “Ðợi anh về” đem phổ thành bài hát.
Tình
thương mến:
Ðọc thơ Tố Hữu, người ta cảm thấy một dấu hiệu riêng như nét mặt của những bài
thơ, làm cho thơ Tố Hữu không trộn lẫn được với thơ người khác, cảm thấy một thứ
nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ, nhiều khi thành một thứ "thi
tại ngôn ngoại"
[7]
của Tố Hữu. Cái nền nhạc đặc biệt đó, theo ý tôi, là lòng thương mến. Có thi sĩ
lấy tình yêu tha thiết làm nét chính của hồn thơ; có người lấy sự suy tưởng làm
nét chính, có người nét chính là sự quan sát tỷ mỷ, sự phân tách tinh vi v.v...
và có rất nhiều người làm thơ mà chưa có một nét chính gì đặc biệt của tâm hồn.
Tình thương mến đặc biệt trong thơ Tố Hữu là một sự cảm hòa với người, với cảnh;
một lòng thân yêu, yên ấm với chung quanh. Ðây không phải là người tình nhân của
cuộc đời, không phải sự yêu đương sôi nổi, say sưa, nhìn ngoại cảnh thành những
cảm xúc vào xương thịt. Ðây là người bạn chí thân của người, của cảnh, người bạn
chân thành một lòng, một dạ, cảm thông sâu sắc những nỗi khổ, an ủi xác đáng
những niềm đau. Thơ Tố Hữu không say mê, mà ngọt ngào; không xôn xao, mà thấm
thía. Người thi sĩ cán bộ gặp anh Vệ quốc quân trên lưng đèo Nhe, chưa nói với
nhau lời nào mà đã hiểu, đã yêu:
Một
thoáng lặng nhìn nhau
Mắt đã
tìm hỏi chuyện
Ðôi bộ
áo quần nâu
Ðã âm
thầm thương mến
Nét bút Tố Hữu vẽ anh bộ đội trong bài “Lên Tây Bắc” cũng thương mến như vậy:
Anh về
cối lại vang rừng
Chim
reo quanh mái, gà mừng dưới sân,
Anh về
sáo lại ái ân
Ðêm
trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
Nhìn khẩu đại bác của pháo binh, Tố Hữu nhìn ngay bằng con mắt của Vệ nhìn pháo,
thân mật, chăm chút, mến thương; Tố Hữu yêu pháo, và càng yêu Vệ pháo:
Ta bế
ta bồng
Voi lên
ta vác
Vai ta
vai sắt
Chân ta
chân đồng
Hoan hô
voi ta
Hoan hô
Vệ pháo
Yêu voi
cởi áo
Lau cho
voi nhà
Các em thiếu niên, thiếu nhi, nhi đồng được lòng thương yêu trìu mến của Tố Hữu.
Không ai quên được chú Lượm của Tố Hữu; không ai không thắt lòng khi Tố Hữu hạ
xuống hai chữ:
Ra thế
Lượm ơi!
và tả chú đồng chí nhỏ đi liên lạc trúng đạn của quân thù. Em bé hy sinh rồi mà
như vẫn sống, như em bé trong giấc tươi đẹp:
Cháu
nằm trên lúa,
Tay nắm
chặt bông
Lúa
thơm mùi sữa
Hồn bay
giữa đồng
Trong tưởng tượng, Tố Hữu cúi xuống bế em bé Triều Tiên đang lạc giữa tuyết, ủ
ấp cho em, hôn em, dỗ em:
Em bé
Triều Tiên ơi
Mẹ của
em đâu rồi
Tìm đâu
mẹ của em...
Tình thương mến kia, Tố Hữu hòa vào cả trong phong cảnh, câu thơ khi nói đến đất
nước cũng hóa ra êm đẹp, mượt mà. Một sáng tháng 5, đi giữa chiến khu Việt Bắc,
Tố Hữu vẽ nét suối đi, tả chiều gió thổi rất mịn, rất trong:
Suối
dài xanh mướt nương ngô
Bốn
phương lồng lộng thủ đô gió ngàn
Khi hoan hô chiến thắng Ðiện Biên, Tố Hữu đã cảm mến vô cùng cảnh đẹp của Tây
Bắc, một phong cảnh đầm ấm, nuôi người:
Mường
Thanh, Hồng Cúm, Him Lam,
Hoa mơ
lại trắng, vườn cam lại vàng
Con mắt nhìn của Tố Hữu bao trùm cả loài vật, nhìn em bé như chim bồ câu:
Cái mồm
thơm sữa xinh xinh
Như con
chim của hòa bình trắng trong;
nhìn chim bồ câu như một em bé:
Con bồ
câu trắng ngây thơ
Nó đi
tìm thóc nhởn nhơ quanh nhà
Cái niềm thương mến đó của thơ Tố Hữu do sự công tác quần chúng lâu năm bồi
dưỡng; nó là hương vị của thơ Tố Hữu, nó toát lên thơm tho, dịu ngọt; nó là đạo
đức cách mạng; nó làm nên cái sức hấp dẫn của thơ Tố Hữu, một hồn thơ gần gũi
với con người, chí tình với con người.
"Ta
đi tới" và "Việt Bắc":
Trong bài “Sáng tháng Năm” ca ngợi Hồ Chủ tịch (1951) Tố Hữu đã viết:
Ta lớn
cao lên bay bổng diệu kỳ
Trên
đường dài hai cánh đỡ ta đi
Hai câu thơ thấy trước đà lớn mạnh của kháng chiến Việt Nam và cũng mang mầm cái
thơ lớn, rộng về sau của Tố Hữu. Cái mầm thơ lớn, rộng, mạnh, sắc đó cũng đã có
từ trong “Bài ca Tháng Mười” (1950):
Hoan hô
Sta-lin
Ðời đời
cây đại thọ
Rợp
bóng mát hòa bình
Ðứng
đầu sóng ngọn gió
Hoan hô
Hồ Chí Minh
Cây hải
đăng mặt biển
Bão táp
chẳng rung rinh
Lửa
trường kỳ kháng chiến
Sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ của ta, quân địch phải ký kết đình chiến; trước
biến chuyển lịch sử lớn lao: chúng ta chiến thắng dành được hòa bình và từ nông
thôn trở về thành thị, cái mầm thơ rộng lớn đã tiềm tàng từ trước vụt xuất hiện
trong hai bài thơ hay nhất của Tố Hữu: “Ta đi tới” và “Việt Bắc”. “Ta đi tới”
mạch thơ cuồn cuộn, câu thơ đi ào ạt như thác chảy, như quân đội nhân dân của ta
tiến bước, như dân tộc ta nghìn triệu người đạp băng tất cả những trở lực để đi
tới hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nhà thi sĩ đã mở hồn thơ mình theo
kích thước của Tổ quốc, trong một tấm lòng đã ủ ôm bao nhiêu tên đất, tên nước,
tên tỉnh, tên khu; trong một cái nhìn đã gợi lại mười mấy năm khởi nghĩa, đấu
tranh cách mạng; mắt ngắm "rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt", tai nghe
tiếng hát trên sông, nhìn xuống thấy con đường rộng mới làm, ngẩng lên là trời
thu xanh lồng lộng! Ðó là cảm tưởng của dân tộc ta làm chủ đất nước, làm chủ
lịch sử, làm chủ gân cốt, sức lực của mình, nhất định "ta đi tới". Tôi muốn
trích những câu hay trong bài ra, nhưng câu nọ liền dính với câu kia, đoạn nào
cũng đáng thuộc. Những câu thơ quyện vào trí nhớ của tôi; khi đi giữa những đại
lộ của thủ đô, cảm thấy lực lượng vững vàng của chúng ta, tôi bỗng đọc:
Ðường
ta rộng thênh thang tám thước.
Dự buổi diễn của Ðại hội Văn công Toàn quốc, giữa hàng vạn đồng bào quanh mình,
xem màn "các dân tộc về Ðại hội", thấy các lối y phục, các điệu âm nhạc, các màu
sắc, ca vũ giàu có lạ thường, cũng bỗng đến trong trí tôi câu thơ Tố Hữu:
Ðẹp vô
cùng Tổ quốc ta ơi!
Những bài thơ cách mạng của Tố Hữu từ trước đến nay đều mang một chiến đấu tính
mạnh mẽ, nhưng đến bài “Ta đi tới”, khí thơ mới thật là khoái trá, tràn đầy,
mãnh liệt:
Ta đi
tới trên đường ta bước tiếp
Rắn như
thép, vững như đồng
Ðội ngũ
ta trùng trùng điệp điệp
Cao như
núi, dài như sông
Những câu thơ trong bài là ý nghĩ của mọi người, là lời mọi người muốn nói mà
chưa nói ra, đó là bài thơ mà giai đoạn lịch sử đang chờ đợi; nên khi công bố
bài thơ đó, nhà thi sĩ như châm mồi lửa thần diệu làm rực cháy muôn lòng người
đọc đang bừng bừng.
Ðến bài thơ “Việt Bắc”, lại là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. Với bài
này, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu chín rộ. Chúng ta cũng vẫn thấy cái
giọng thơ thân mật, ấm cúng từ xưa đến nay của Tố Hữu, ngợi ca Việt Bắc bằng lời
tiễn đưa nhau của một đôi lứa tượng trưng cho miền ngược và miền xuôi; lời hỏi,
lời đáp; lời nói ra, lời đồng vọng; lời dặn dò, lời hò hẹn; nhờ sáng tạo ra cảnh
"ngược xuôi đôi mặt một lời song song" như vậy, tác giả mới nói được hết ân tình.
Nhưng hòa hợp với cái thân mật ấm cúng kia, chúng ta còn thấy bài thơ lộng lẫy,
nhiều đoạn tuyệt đẹp; không phải một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều ngọn
bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn
chương cách mạng, văn chương nói chiến đấu, gian khổ, quyết tâm cũng lại là cái
văn chương chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc; cái văn chương
mà có người sợ dễ khô khan, lại là cái văn chương nhuần nhị bậc nhất. Con người
cách mạng trong bài thơ “Việt Bắc” là người tình nhân mặn nồng, người chồng
chung thủy, người con hiếu thảo, người bạn thiết cốt, người cán bộ tận tụy, là
con người mang cái tình mến yêu của Tố Hữu đến cao độ, những lời nói ra làm cho
mọi người khóc được, cười được, xúc động gan ruột người ta.
Lên đến một điểm cao của tâm hồn, nhà thi sĩ nhìn được bao quát cả Việt Bắc
trong thời gian, qua mười lăm năm, "nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh",
trong thời tiết sương sớm, nắng chiều; trong các mùa cỏ hoa thay đổi; tổng hợp
bao nhiêu cảnh cơ quan, quân đội, dân công, xe cộ, đường sá. Một cuộc họp của
Hội đồng Chính phủ trong một hang núi, từ tính cách chính trị, tác giả gợi thành
cái thi vị bao la, to rộng của sự lãnh đạo:
Nắng
trưa rực rỡ sao vàng
Trung
ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều
quân chiến dịch thu đông
Nông
thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê,
phòng hạn, thu lương,
Gửi dao
miền ngược, thêm trường các khu
Khi làm vì lợi ích của nhân dân, mỗi việc đều nên thơ tất cả, và như vậy, Cụ Hồ
là nhà thơ vĩ đại cao nhất, vì Người tạo ra cái hay, cái tốt, cái đẹp cho toàn
dân tộc ta.
Trong bài “Việt Bắc” này, sự xúc cảm của nhà thơ đã tới chỗ thấu đáo, tinh vi;
tác giả từ bao nhiêu năm trời cặn kẽ trông nhìn đồng bào miền núi, mến thương
từng hành động của họ; đã bao nhiêu mùa ngắm nhìn phong cảnh, thuộc các mùa hoa
của núi rừng:
Nhớ
người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con
lên rẫy bẻ từng bắp ngô...
...Rừng
xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao
nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày
xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ
người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu
rừng phách
[8] đổ
vàng
Nhớ cô
em gái hái măng một mình
Ðể đề cao tình thủy chung sau trước của miền xuôi miền ngược, sự khăng khít giao
lưu của người về kẻ ở, Tố Hữu chuyển những sự kiện kinh tế tài chính thành những
tình cảm sâu xa; lâm thổ sản và tiểu công nghệ đều nói lên thi vị của đất nước
và tình nghĩa của nhân dân; mà chính vì những thứ đó quan thiết đến đời sống
nhân dân, nên lại càng đậm đà, gắn bó:
Nâu này
nhuộm áo không phai
Cho
lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình
Trâu về
xanh lại Thái Bình
Nứa mai
gài chặt mối tình ngược xuôi...
...Muối
Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa
Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về
mua vại Hương Canh
Ai lên
mình gửi cho anh với nàng
Chiếu
Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ
Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông...
Mọi sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, địa dư, nhân chủng đều hòa
thành một "tiếng hát ân tình thủy chung"; cả bài như một buổi chiều vàng mùa thu
trong đẹp, mà mỗi gốc cây, mỗi hòn đá đều vang ngân lên để cuộc tiễn đưa đầy cả
ân tình. Cho đến cái lặng im cũng đầy ý vị.
Ngòi bút của Tố Hữu tiến lên nối tiếp truyền thống của các nhà thi hào cổ điển
của ta; bút pháp đã tinh, nên khêu gợi nhiều hơn diễn tả; chữ đúc lại với nhau
("Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai", "Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay").
Có những câu đẩy đưa, người bộp chộp sẽ tưởng như là cũ càng, nhưng thực ra biểu
hiện tình cảm rất man mác:
Tiếng
ai tha thiết bên cồn
Bâng
khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
áo chàm
đưa buổi phân ly
Cầm tay
nhau biết nói gì hôm nay...
Có những câu tình tứ như những câu thơ tình ái xưa nay:
Nhớ gì
như nhớ người yêu
Trăng
lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ
từng bản khói cùng sương
Sớm
khuya bếp lửa người thương đi về
Và bức tranh cuối bài “Việt Bắc”, theo ý tôi, là của một danh họa. Trong mấy nét,
lột được phong thái cao quý lớn lao của Hồ Chủ tịch; khi Người đi qua, rừng núi
cũng như học theo tác phong của Hồ Chủ tịch, con ngựa của Người cưỡi như cũng
nhịp bước chân cho hợp với cái bình tĩnh ung dung của Người; qua sáu câu thơ có
một bản nhạc tấu lên và Người đi rồi, nhạc hãy còn văng vẳng:
Nhớ Ông
Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu
túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ
Người những sáng tinh sương
Ung
dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ
chân người bước lên đèo
Người
đi rừng núi trông theo bóng Người...
Những nhược điểm:
Những ưu điểm của thơ Tố Hữu bao trùm thành cái chính; nên tôi không muốn nói về
những khuyết điểm lặt vặt, là những cái phụ. Theo ý tôi, bất tất phải chiếu lệ
cho đủ hai mặt khen chê. Chúng ta không thể đòi bài thơ nào của Tố Hữu cũng phải
như “Ta đi tới” và “Việt Bắc”. Nhưng có một điều chắc, là bài thơ nào của Tố Hữu
cũng đem tới một cái gì cho tư tưởng và tình cảm; nếu chưa lộng lẫy, tuyệt diệu,
thì cũng đủ ý vị, và bao giờ cũng có ít nhiều sáng tạo.
Tôi chỉ muốn nói đến hai nhược điểm mà ý riêng tôi thấy là quan trọng:
Ðiều thứ nhất, là thơ Tố Hữu thiếu hẳn một mảng lớn: nặng về tình cảm xã hội, mà
hầu như không nói đến những tình cảm của cá nhân. Có lẽ vì Tố Hữu nặng lo về
công tác; người cán bộ trong Tố Hữu bao trùm con người thường.
Tập
Việt Bắc
(và cả tập
Thơ
1946) không có một bài thơ về tình yêu. Tôi nghĩ đến Aragon, nhà thơ kháng chiến
của Pháp có những vần sâu sắc về người yêu Elsa; tôi nhớ Maiakovski, nhà thơ
cách mạng Liên Xô, có nói:
"Những
câu thơ xứng đáng với người yêu"
Tôi nhớ đến Victor Hugo, bậc thiên tài mà những câu thơ đấu tranh làm cho bạo
chúa, cường quyền phải khiếp sợ, Victor Hugo cũng là nhà thơ say đắm của những
bản tình ca. Công chúng Việt Nam cũng mong muốn Tố Hữu thêm một giây tình vào
cây đàn mà họ lắng nghe từng tiếng.
Việc người đọc hoan nghênh những bài thơ của Xi-mô-nốp do Tố Hữu dịch chứng tỏ
chỗ thiếu sót của thơ Tố Hữu. Tâm tình của người thi sĩ Liên Xô dám đi vào chỗ
thầm kín của lòng người, coi ái tình là một trong những tình cảm thiết tha sâu
sắc nhất của con người ta, lấy ái tình làm một mãnh lực giục người chiến đấu, hy
vọng:
... Dù
tuyết rơi gió nổi
Dù nắng
cháy em ơi
Bạn cũ
có quên rồi
Ðợi anh
về em nhé...
Người thi sĩ Liên Xô lại nhìn trực diện những tang tóc của chiến tranh, không sợ
rằng nói như vậy làm nhụt lòng người, mà chính nghệ thuật nói những nỗi đau khổ
sâu sắc chừng nào lại càng làm cho người ta yêu dấu con người, và càng thúc đẩy
người ta chống địch chừng ấy. Thơ Tố Hữu chưa có những đoạn như dưới đây:
A-liêu-sa nhớ Bô-ri-xốp
Tiếng
khóc than xé ruột nhà nào
Lệ
người thiếu nữ tuôn trào
Và
người mẹ góa mái đầu hoa râm
Áo tang
trắng lạnh ướt đầm...
... Ta
vui vì mẹ Nga sinh
Vui vì
một sớm chiến chinh lên đường
Có
người vợ rất yêu thương
Hôn ta
ba bận, lệ thường tiễn đưa
Không nói đến tình yêu, Tố Hữu cũng ít nói đến những tình cảm của cá nhân mình.
Tố Hữu chỉ nói đến, khi những tình cảm cá nhân đó mang một tính chất xã hội rõ
rệt hay có tính cách là những tình cảm tập thể (như “Tình cá nước”
[9] và
“Sáng tháng Năm”). Theo ý tôi, thơ là tiếng hát của những tâm hồn và của mỗi một
tâm hồn; những tình cảm của từng cá nhân, khi đã đúng hướng tiến bộ của toàn xã
hội, cần được diễn tả vào sâu đến khía đặc biệt, vì những tình cảm đó đều tiềm
tàng một ý nghĩa xã hội. Người thi sĩ là một cán bộ quần chúng rất hoan nghênh
những bài thơ làm với con mắt nhìn đúng đắn của một cán bộ; nhưng nếu những bài
thơ kia làm với giọng nói của một con người thường, có lẽ quần chúng sẽ cảm thấy
tha thiết hơn lên, gần gũi thêm lên. Những việc xa cách, sum họp, sống chết, yêu
đương, sinh nở, thư từ... được cách mạng hóa đi, nhưng vẫn là những việc thiết
cốt, hàng ngày của con người, nhà thơ cần xông vào đó nghiên cứu, diễn đạt sâu
xa, để có thể đưa những tình cảm đó đi tới.
Do nhược điểm trên đây của Tố Hữu, tôi thấy thêm một nhược điểm thứ hai:
Những năm về sau này, thơ Tố Hữu càng nặng về tổng hợp. Ðó là một ưu điểm; tâm
tưởng nhà thơ càng lên cao, càng nhìn được những nét lớn lao của lịch sử của
thời đại, tiếng hát càng bao quát, rộng xa. Nhưng cũng phải đề phòng một nguy
cơ: sự tổng hợp không nên thành nếp của hồn thơ, vì hơn tất cả mọi ngành nghệ
thuật nào, thơ phải thật cá thể và cụ thể. Nhà thơ thành sử gia của thời đại,
phải đề phòng toàn vẽ bằng nét lớn, nét chung, bỏ mất những nỗi niềm của mỗi một
con người, của mỗi cá nhân trong quần chúng. Tố Hữu phải đề phòng dần dần đi xa
những bài thơ “Cá nước”, “Phá đường”, “Bầm ơi” v. v... là những bài thơ của sự
sống khi nó mới phát nguyên từ quần chúng. Có lẽ tốt hơn hết là Tố Hữu làm cả
hai lối thơ, và hòa hợp hai lối ấy với nhau.
Bài
học của thơ Tố Hữu:
Tố Hữu cho ta suy nghĩ nhiều về con người với tài thơ, về hành động và sáng tác.
Thơ của Tố Hữu là cuộc đời chiến sĩ của Tố Hữu, là lập trường giai cấp, quan
điểm quần chúng, đạo đức cách mạng của Tố Hữu; có cuộc đời chiến đấu ấy mới có
được thơ ấy.
Tố Hữu cũng cho ta suy nghĩ nhiều về tác phẩm liên quan với thời đại. Vì Tố Hữu
nằm ngay trong lòng thời đại, ở ngay chỗ đầu sóng ngọn gió của phong trào, Tố
Hữu làm một với trái tim và khối óc của cách mạng, nên mới có được cái nhìn đúng
đắn, cao cả. Người thơ thuyền xuôi theo giòng thời đại, buồm căng theo gió thời
đại, hết lòng phục vụ thời đại, thì đến lúc thời đại lớn lên, thơ mình cũng được
song song lớn lên.
“Ta đi tới” và “Việt Bắc” là chiến công của thơ Việt
Nam, là một công trình của nhân dân ta qua cây bút của Tố Hữu. Hai bài thơ đó
cho ta hy vọng vô cùng: Chúng ta chứng kiến từ tập
Thơ
đầu 1946 đến tập thơ
Việt Bắc
1954, tài thơ của Tố Hữu đã tiến một bước dài. Từ một nhà thơ đầy nhiệt tình
cách mạng và ý tình cách mạng có một không hai, nhưng tài thơ chưa thật có bản
sắc riêng biệt, và bởi vậy chưa thật là một thi sĩ đầy đủ, nhà thơ Tố Hữu đã
từng bài một, từng năm một, nẩy nở tài năng theo đà kháng chiến, dần dần sắc
hương càng thơm càng đẹp, cho đến khi tròn đầy, sáng rực một mặt trăng rằm! Cho
đến khi thi sĩ Tố Hữu là một hiện tượng của thơ Việt
Nam, tạo ra một lối riêng, một điệu riêng, một bản ngã in nét sâu xa vào văn
chương của dân tộc. Ðó quả thật là một bài học lạc quan sáng tác cho tất cả
những bạn làm thơ.
Chúng ta còn học được đường lối làm thơ của Tố Hữu. Ðường lối đó là đường lối
dân tộc và đại chúng. Tôi thiết nghĩ đó là con đường duy nhất đúng của thơ Việt
Nam.
Có một số bạn mới, học nhiều, xem sách nhiều, nhuốm phải tiền phong chủ nghĩa,
tưởng như mình có thể dựng lên một lối thơ gì mới lạ, xuất sắc, và có ý như xem
thường thơ Tố Hữu. Theo ý tôi, những bạn đó chưa nghiên cứu kỹ về thơ. Rất nhiều
bạn khác đã nói với tôi: "Khi người đọc thơ chưa chín chắn, thì xem thơ Tố Hữu
(nhất là những bài trước 1954) họ không thấy gì. Có lẽ vì họ thấy nó thân mật,
bình thường quá, như không có kỹ thuật, không có dầu dấm, chanh ớt. Nhưng khi
đến một trình độ yêu hiểu quần chúng, thấu nghe lòng người, nắm vững ngôn ngữ,
người ta sẽ thấy thơ Tố Hữu là một cái gì thật đặc biệt". Tôi hoàn toàn đồng ý.
Ngay bản thân tôi, những năm đầu kháng chiến, tôi chưa thấy tất cả cái hay của
“Bà mẹ Việt Bắc”, “Bà bủ nằm ổ chuối khô”, “Phá đường”, “Bầm ơi”... Là vì lúc đó
tôi chưa biết yêu biết trọng cái lớn lao của các bà bủ, tôi chưa thấy cái say
sưa của quần chúng đang lao động, tôi còn tìm những cái gì bóng chuốt, chạm trổ,
uốn éo. Càng ngày đọc những bài trên kia, tôi càng thấy hay. Tôi càng thấy thơ
Tố Hữu là thơ chân thực, thơ của nội tâm con người. Tôi đồng lòng với mỗi câu
nói đơn sơ của “Bà mẹ Việt Bắc”: câu nói của bà mé thì đơn giản, nhưng bài thơ
của thi sĩ thì sâu xa:
Tôi ôm
lấy nó
Tôi kể
trước sau
Nỗi nhà
mất bố
Nỗi anh
chết tù
Mắt nó
đỏ nọc
Nó cầm
tay tôi:
Mé ơi
đừng khóc
Nước
độc lập rồi!
Trừ một vài trường hợp (như phần trên của bài “Những thành phố trụi” thí nghiệm
một lối thơ mà đa số công chúng không yêu:
Lại
ngồi dưới gốc di lăng
ở đây
còn có ai chăng với mình?
- Có!
- Ai
nói đó?
- A!
các anh chiến lũy!)
tất cả thơ Tố Hữu đều làm thế nào cho quần chúng dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc, đều
giữ gìn một sắc thái Việt
Nam; dịch thơ nước ngoài, Tố Hữu càng nắm vững phương châm "dân tộc hóa". Càng
đi sâu vào nghề thơ, càng luyện chắc tay, Tố Hữu đã bước tới cái cổ điển mới.
Cái cổ điển mới ấy, tức là câu thơ sáng sủa, thi sĩ muốn nói gì, thì người đọc
hiểu dễ dàng; tức là ý tình tinh vi, giàu đủ, súc tích, mà diễn tả vẫn chân
thực, giản đơn; tức là nhạc điệu tiết tấu nhịp nhàng, không gập ghềnh, kỳ khu,
líu tíu; tức là câu thơ không ngọng nghịu, lai căng. Trong những câu thơ hay
nhất của mình, Tố Hữu đã đi theo truyền thống của Nguyễn Du. Nối liền được với
thiên tài đã qua của dân tộc mình, đó là vẻ vang của thơ cách mạng.
Có hàng trăm cách làm thơ, nhưng chỉ có một đường lối: dân tộc và đại chúng. Các
nhà thơ có nhiệm vụ phát huy tất cả cái đặc sắc, cái riêng biệt của mình, nhưng
phải làm sao cho dân tộc công nhận, cho đại chúng mến yêu. Ði xa con đường ấy,
là làm mất thì giờ của bản thân mình, và phí công sức chung. Tố Hữu là cái gương
thành công đẹp đẽ mà ta cần học tập. Theo sự nhận xét của tôi, một số bài thơ
của ta hiện nay đã đi trệch con đường dân tộc, đại chúng ấy. Các tác giả làm
những bài thơ không nên trách tại sao thơ mình đã đăng báo, đã được in, mà công
chúng vẫn không để ý đến mình.
Trong giai đoạn vừa rồi, nổi bật trong thơ Tố Hữu: lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân lao động phục vụ kháng chiến, yêu chiến sĩ, yêu Hồ Chủ tịch, yêu nhân loại
gian khổ và dũng cảm. Những tình yêu lớn đó của thơ Tố Hữu đã thành sức mạnh
trong ngàn vạn lòng người.
Con đường Tố Hữu còn dài, còn xa. Chúng ta luôn luôn đón chờ Tố Hữu.
Thật là sung sướng có Tố Hữu trong thơ Việt Nam, trong văn nghệ Việt Nam... và
trong cách mạng Việt Nam. Bao nhiêu thi sĩ đã gắng công, hàng nghìn bạn trẻ mới
làm thơ ngày đêm dùi mài; chúng ta nhào nặn nội dung, vật lộn với hình thức, lo
nghĩ, chăm chú để sáng tạo những bài thơ hay; rất nhiều hay hầu hết chúng ta
chưa thành công, nhưng nhìn đằng trước, thấy lá cờ của thơ Việt Nam có rực rỡ ở
trên chiến tuyến; chúng ta tự hào về lá cờ đó, nhân dân ta cũng tự hào về lá cờ
đó, và chúng ta thêm tin tưởng quyết tâm.
Thơ Tố Hữu là lá cờ ấy.
14-1-55
Nguồn:
Văn nghệ,
số 63 (15.2.1955); số 64 (28.2.1955)
[1]Ðây
là nói đến tác phẩm in thành sách đầu tiên của Tố Hữu, nhan đề là Thơ,
Hội Văn hoá Cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946. Về sau tác giả bổ sung và in lại
tập thơ trên với nhan đề mới là Từ ấy, đầu sách có bài tựa của Ðặng Thai
Mai, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1959. Về việc này xin xem thêm cuốn: Cuộc thảo
luận (1959-1960) về tập thơ “Từ ấy”, Nguyễn Văn Long sưu tầm và biên soạn.
Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 1998. (NST).
[2]Trữ
tình: diễn tả tình cảm (nguyên chú của X.D. ở bản đăng báo).
[3]Bản
gốc là: “chậm rải”, có lẽ in sai, ở đây sửa lại (NST).
[4]Câu
viết này của Xuân Diệu, độc giả thời nay (2004) có thể cho là diễn tả không thật
sáng cái ý cần nói là: những người mẹ xa con, những đứa con xa mẹ trong kháng
chiến không thể không yêu mến và cảm tạ nhà thơ đã viết những câu thơ đậm tình
người (BT).
[5]Pablo
Neruda: một nhà thơ trứ danh của dân tộc Chili (nguyên chú của X.D).
[6]Chỗ
này tác giả Xuân Diệu nhắc tới câu thơ trong bài thơ “Stalin không chết” của Chế
Lan Viên đăng tạp chí Văn nghệ số 40 (tháng 3-1953), ra trong dịp các
vùng kháng chiến (tức là vùng do phía VNDCCH kiểm soát) được lệnh để tang
Stalin. (NST).
[7]“Thi
tại ngôn ngoại”: hồn thơ hiểu ngầm ở ngoài lời thơ (nguyên chú của Xuân Diệu).
[8]Phách:
tên một thứ cây ở miền núi (nguyên chú của Xuân Diệu).
[9]Chỗ
này tác giả Xuân Diệu viết thiếu chính xác: nhan đề bài thơ là “Cá nước” chứ
không phải “Tình cá nước”.