LẠI NÓI VỀ VẤN ĐỀ VĂN HỌC VỚI NỮ TÁNH

 

 

Mấy bài về Phụ nữ văn học của ông Phan Khôi đăng ở Phụ nữ tân văn từ số đầu tới giờ, đã được điều vẻ vang rằng bạn đồng nghiệp Công luận đăng mấy bài của ông Thế Phụng phản đối lại. Trong bài của ông Thế Phụng có chỗ quá khen chúng tôi, chúng tôi cảm tạ bạn đồng nghiệp Công luận và tác giả, nhưng chúng tôi không dám nhận lãnh những điều quá khen ấy. Chủ trương và biên tập làm sao cho tờ báo Phụ nữ tân văn khỏi phụ lòng kỳ vọng của các anh em chị em đồng chí, ấy là cái nghĩa vụ đương nhiên của chúng tôi.

Cuộc bút chiến của các ông có ích lắm, giấy mực của chúng tôi đây, xin hai ông cứ việc dùng. Trong sự học vấn có như vậy mới có bổ ích, mới tìm ra được chơn lý.

                                                                           P.N.T.V.

BÀI PHẢN ĐỐI CỦA ÔNG THẾ PHỤNG                                                                   

 Phụ nữ đối với văn học(*)

Phụ nữ tân văn mới ra thật đã chẳng phụ lòng mong đợi của công chúng bên nam và bên nữ, vì dẫu là báo của đàn bà mà đàn ông đọc cũng có ích. Hình thức bề ngoài đã là tốt đẹp, trên bìa in bức đan thanh ba cô Bắc, Trung, Nam đọc chung một tờ báo, là biểu hiệu cho cái nghĩa “chị em một nước thì thương nhau cùng”, mà nội dung cũng đáng khen ngợi, bài vở xếp đặt có phương pháp, văn chương đúng mực, ý tưởng hợp thời, tỏ ra bộ biên tập rất có giá trị.

Chúng tôi có lời mừng bạn đồng nghiệp, lại mừng nữ giới ta từ nay có một cơ quan đúng đắn để chị em nhắn nhủ nhau, dạy dỗ nhau, khiến cho tổ quốc ta lại có ngày thấy “phấn son tô điểm sơn hà, làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam” trong đám con cháu gái cụ Hồng Bàng vậy.

Phụ nữ tân văn ra đời ấy là cái chứng triệu từ nay chị em bạn gái, trên tay kim chỉ lại đèo thêm bút nghiên, mà cái vấn đề “Phụ nữ đối với văn học” bỗng vọt ra, cắm cái dấu hỏi ở ngay trước mặt các nhà ngôn luận. Chị em ý hẳn sợ người ta còn chưa thấy, cho nên đã bởi ngọn bút của P.K. tiên sanh nhắc nhở đến liền. Mà nhắc nhở khéo làm sao ! Chưa chi đã nhận ngay lấy văn học đáng là việc của đàn bà hơn đàn ông !

Cái vấn đề ấy, chúng tôi vẫn định bàn đến, nay quý đồng nghiệp đã bắt đầu bàn trước, vậy chúng tôi càng được tiện mà bàn cho rõ lẽ.

Ông P.K. tỏ ý giận dữ cái thói đời xưa nay đàn ông hay ăn hiếp đàn bà, ông muốn giải phóng đàn bà cho có quyền bình đẳng với đàn ông, riêng về sự học thì muốn con trai con gái đều được học như nhau. Về chừng ấy điều thì chúng tôi biểu đồng tình lắm. Song ông binh vực nữ lưu một cách quá thiên mà nói rằng : Nữ tánh có nhiều chỗ thích hợp với sự văn học, đàn bà chuyên về văn học có lẽ hay hơn đàn ông, đàn ông nên lo về khoa học về cơ khí để cho đàn bà chăm văn học, thì chúng tôi không thể nào đồng ý với ông được.

Ông nói đàn bà có nhiều tình cảm để thành văn, song ta phải nên phân biệt. Đàn bà hay sợ hãi mà đến thất kinh, hay thương xót mà đến rơi lụy, dễ vui, dễ buồn, song đó là những cái nhu cảm (sensiblerie) tầm thường, nông nổi, yếu đuối không thể sanh ra văn chương được. Nhà thi văn phải có những cảm giác thâm trầm, thanh nhã, cao thượng mới làm ra được thi văn. Mấy nhà nữ sĩ có danh cũng là có những cảm giác (sensibilité) ấy. Nhân tiện chúng tôi lại nói qua rằng : âm nhạc là món mỹ thuật thuần là do ở tình cảm, vậy mà trong đất nước mấy ông Bach, Wagner, Beethoven chưa hề có sản xuất ra được một bà nào làm được bài nhạc cho tuyệt diệu.

Ông lại nói đàn bà có tánh nhẫn nại, ý chừng nghĩa là hay chăm chỉ tìm kiếm, làm nhà học khảo cứu được, hay là hay tỉ mỉ tinh tế làm cái nghề mài dũa từ chương được. Song học khảo cứu cần phải chịu khó tìm kiếm, ghi nhớ nhiều mà lại cũng còn phải biết so sánh, suy xét đến nơi đến chốn, đàn bà vốn tánh tình nông nổi vị tất đã làm được. Còn như cái tánh tỉ mỉ dùng vào việc mài dũa thi văn, thì thi văn không phải vì mài dũa nhiều mà nên hay.

Chúng tôi thiết tưởng mấy cái nữ tánh ấy không thích hợp gì với văn học, chẳng vậy mà thôi, lại chính vì những tánh đó mà đàn bà không làm văn thơ được như đàn ông vậy. Đàn ông mà làm văn thơ hay, tất phải là con người tao nhã, lại sâu sắc, lại có ý khí, lại có bảo phụ(*), vân vân. Đàn bà làm sao cho có được những tánh chất ấy. Đàn bà vốn có tánh nông nổi, hơi giống con nít, mà bao nhiêu cái vẻ “nên thơ” là ở đó hết. Ông P.K. trách đàn ông ăn hiếp đàn bà, không cho đàn bà học nên đàn bà phải ngu dốt, điều ấy phải ; chớ đàn bà có những tánh tình riêng của đàn bà, là do con tạo hóa phú cho, há có phải là tại đàn ông ở đâu.

Đàn bà được hết quyền bình đẳng với đàn ông thì ở các nước Âu Mỹ nay là sự thường, vậy mà tuy rằng đàn bà đã len chưn vô trong hết các nghề, như nói hẹp trong một nghề văn chương, cận đại đến bây giờ, sự nghiệp văn chương của bên nữ giới vẫn không có số lượng cùng giá trị bằng bên nam giới, mà còn kém xa lắm vậy. Ở nước Pháp là nước văn chương thạnh hành luôn, mà ngày xưa có những bà de Sévigné, de Stael, George Sand, ngày nay có bà de Noailles và vài bà nữa thôi chớ có ai hơn đâu.

Ông P.K. lại nói trong văn chương Tàu có nhiều chỗ tả tình cảnh của đàn bà, rồi vin lấy đó mà nói cái nữ tánh có lẽ làm trung tâm cho văn chương. Có lý nào văn chương Tàu thiên kinh vạn quyển, mà ông lấy mấy thiên trong Kinh Thi, vài bài thơ Lý, Đỗ, để dẫn chứng mà dựng lên một câu quyết đoán được như vậy sao ? Huống chi ông luận một thứ văn chương Tàu sao lại nói rộng ra đến văn chương của khắp các nước được ?

Nhà thi văn hay tả đàn bà, cũng một ý như là hay tả hoa, vì cái biểu hiệu cho cái đẹp, cho màu vẻ tốt tươi, tánh tình êm ái.

Nhà thi văn hay giả một người đàn bà để nói về mình, vì không lẽ mình tự nói mình thì trơ trẽn, một thú,(**) hai nữa là không lẽ ông Khuất Nguyên, ông Đỗ Phủ, ông Bạch Cư Dị, mình vốn là trượng phu, hào kiệt mà lại than thở khóc lóc thì mất cái vẻ trượng phu, hào kiệt của mình và không khiến cho ai thương xót mình được, tất nhiên phải ký thác vào một người đàn bà, vì đàn bà than khóc có duyên, dễ khiến cho người ta thấy mà tội nghiệp, xót thương vậy.

Ông P.K. lại nghĩ nếu một người đàn bà chồng để thiệt, mà kể sự mình chắc hẳn hay hơn ông Khuất Nguyên, ông Đỗ Phủ, chúng tôi thiết tưởng rằng vị tất như vậy. Xem như một tấm hình thì đúng hết chỗ nói, vì là tạo hóa, vậy mà không tinh thần bằng bức họa truyền thần, vì nhà thợ vẽ biết làm cho nó có vẻ tinh thần hoặc thêm chỗ nầy bớt chỗ khác, không đúng mà “hệt”. Ấy cái tài tình của họa công là ở đó, mà cái bí quyết của mỹ thuật là ở đó.

Thí dụ nữa : Ai thường ngày không thấy chú Chệt(*), có tức cười gì đâu. Vậy mà tới rạp hát bộ kia thấy anh năm T. đóng vai chú Chệt thì tức cười nôn ruột, ấy là “hệt” chớ không phải đúng. Nếu muốn đúng thì mời ngay một chú Chệt lên sân khấu, có ai mà muốn coi...

Chắc hẳn nếu cô “giai nhân” thiệt mà kể chuyện mình thì giọt ngắn giọt dài sùi sụt, nói con cà con kê, nghe có khoái tai, động lòng đâu ; mà cô “giai nhân Đỗ Phủ” kia hồ mở miệng đã khiến cho ta ngậm ngùi rồi đó. Vả chăng ta cảm đó chính là vì ta đã biết cái ý ký thác của tác giả nữa.

Ông P.K. đầu hết nói nữ tánh thích hợp với văn học, rồi nói trong văn chương Tàu có nhiều chỗ nói về đàn bà, sau đến kết luận rằng đàn bà nên chủ trương lấy sự văn học, thì chúng tôi trộm nghĩ cái luận điệu ấy rời rạc quá, không dính chắc chút nào.

Hoặc giả, một là : Ông thiên quá trong sự binh vực chị em bạn gái vẫn thường bị thiệt thòi xưa nay ; hai là ông ở giữa đám chị em bạn gái mà muốn nói cho vui, theo như cái thói tục của Tây phương kêu là galanterie (tạm dịch là “nịnh đầm”); ba là : ông có cái ý mỉa mai đời, trong thời buổi nầy quốc dân đang cần sách vở mà học tập văn minh mới, mà các nhà bỉnh bút ta chẳng ra được mấy cuốn sách có ích lợi, chỉ nhảm thì nhiều, thôi thì để sự văn học cho đám nữ lưu gánh thế cho rồi, giống như câu chuyện xưa : Khổng Minh gởi khăn yếm cho Trọng Đạt vậy.

Ấy là câu chuyện nói đè chừng(**)...

                                                                                   THẾ PHỤNG

 

 

BÀI TRẢ LỜI CỦA ÔNG PHAN KHÔI

Báo Công luận ra ngày 22, 23 vừa rồi, có bài đề là Phụ nữ đối với văn học của Thế Phụng tiên sanh, mở đầu có lời tán dương Phụ nữ tân văn chúng tôi, còn sau thì biện luận về bài Văn học với nữ tánh mà tôi đã đăng trong số 2 của tập báo nầy.

Về sự tán dương của quý đồng nghiệp đó, chúng tôi xin có lời cám ơn riêng ở nơi khác. Trong bài nầy, tôi chỉ xin thương xác(*) lại cùng ông Thế Phụng về cái vấn đề mà chúng ta đương muốn thương xác cùng nhau.

Không có cái gì làm vui lòng cho một người chịu học hơn là người ấy nói đi mà có kẻ nói lại. Đối với bài của ông Thế Phụng, tôi nhận là có ích cho sự học của tôi lắm, vì ở trỏng có nhiều lời khiến tôi phải mở mắt chút nữa và phải học thêm.

Song le, ngoài những chỗ tôi phục tình rồi mà tôi sẽ kể ra sau đây, còn có chỗ tôi còn có thể hỏi vặn lại ông được, và có chỗ tôi thấy là ông nói không được xác đáng thì tôi xin viết ra đây để thỉnh giáo lại.

Trước hết, xin kể ra những chỗ mà tôi cho là không xác đáng.

Phụ nữ tân văn số 1, có bài Về văn học của phụ nữ Việt Nam, ở dưới ký là P.N.T.V., đến số 2, bài Văn học với nữ tánh mới ký tên tôi, thế thì sao ông nhập cả hai bài mà nói là của tôi hết ? Tôi tưởng, sự nhận thức phải cho đâu ra đó, phải ai nói nấy, sao ông lại bứt râu người khác mà cắm vào cằm tôi ? Ấy là một chỗ.

Trong bài của tôi, tôi toàn dùng những lời vị quyết(**) cả. Xin ông xem lại, tôi có những chữ “phỏng định, ức chừng, chưa dám tự chắc là đã đúng”, và cả bài tôi đánh không biết mấy cái dấu hỏi, thế thì làm sao ông lại gia cho tôi hai chữ “quyết đoán” ? Ấy là hai chỗ.

Chữ “nữ tánh” tôi dùng mà mạng đề đây, nghĩa nó là “giống đàn bà” (Sexe féminin), chớ không phải “cái tánh của đàn bà” (caractère de femmes). Tôi thấy trong bài ông có chỗ nhắc lại mà cắt nghĩa nọ ra nghĩa kia. Chắc ông cũng hiểu rằng hễ định nghĩa (définir) không hiệp nhau thì luận biện mấy cũng vô ích, sự ấy không phải là không quan hệ. Ấy là ba chỗ.

Tuy vậy, điều thứ nhứt trên đây là tôi chiếu theo phương pháp biện luận mà bắt lẽ ông chơi, chớ vốn là bài của tôi thật. Vậy điều ấy kể như không có.

Tôi có lấy lòng thành thiệt mà nhận bài trong số 1 đó là bài của tôi, thì những lời phản đối của ông mới có giá trị. Nếu không, thì ông bắn hết đạn của ông mà chẳng có nhắm vào cái tròng bia nào hết !

Ông Thế Phụng ơi ! Cái sự học vấn không gì bằng ngay thiệt. Mình thấy làm sao thì nói làm vậy ; mình nghĩ làm sao thì nói làm vậy. Không những phải ngay thiệt đối với kẻ khác, mà lại phải ngay thiệt đối với chính mình. Cái khởi niệm của tôi viết mấy bài nầy, nếu chẳng do ba điều mà ông đã đè chừng nơi rốt bài của ông, thì cũng do ở điều khác, chớ không phải là bởi sự nghiên cứu của tôi ở lúc bình thời. Đầu hết, muốn viết một bài về văn học cho một tờ báo đàn bà thì tôi phải tìm cho ra cái tứ mới, nên có bài thứ nhứt. Kế đó, nghiền ngẫm mãi, rồi nó vỡ thêm lẽ ra, như lột mụt măng, càng lột càng thấy có chỗ ưa nhìn, nên lại có bài thứ hai. Đã đến đó rồi thì tôi phải theo mà lập ra một cái giả thuyết (hypothèse) để sau nầy nghiên cứu thêm, hoặc có ai thấy hay hay, mà cũng nghiên cứu với mình, họa may sau khi bằng cớ đủ rồi, nó sẽ đứng được mà thành ra một cái thuyết mới, cũng ngộ và cũng  không phải là vô ích. Con đường của cái vấn đề “văn học với nữ tánh” nó đi là như vậy, tôi phải khai thiệt ra, và xin ông hãy nhớ rằng nó là một cái giả thuyết.

Cái giả thuyết ấy nay đã bị ông làm cho bị thương mấy chỗ rồi, song nó vẫn còn thoi thóp, chưa chịu tắt hơi.

Tôi nói đàn bà có nhiều tình cảm, hiệp với cái tánh chất của văn học. Ông bác rằng đàn bà hay sợ hãi mà đến thất kinh, hay thương xót mà đến rơi lụy, ấy là cái nhu cảm tầm thường, yếu đuối, không thể sanh ra văn chương được. Tôi nói đàn bà có những tánh trầm tịnh nhẫn nại, tiện học nghề văn. Ông bác rằng đàn bà vốn tánh tình nông nổi, vị tất đã làm được sự học vấn. Phải, ông nói có lẽ.

Song, trong bài đầu, chủ ý của tôi là khuyên đàn bà phải học, phải lập cái nền văn học của họ lên trên sự tri thức. Cái ý đó là trọng nhứt, xin ông chớ bỏ qua.

Những cái nhu cảm của đàn bà, những cái tầm thường, yếu đuối, nông nổi của họ, nếu không phải nhờ học mà biến đổi đi được thì tôi xin chịu. Còn như có thể nhờ học mà biến đổi đi được, thì tôi còn có chỗ mong.

Mà tôi tưởng có thể biến đổi được. Ông có nói rằng “tánh đàn bà hơi giống con nít”. Thế thì tôi xin hỏi : Hồi ông với tôi còn con nít, có phải hay sợ “ông ba bị chín quai, mười hai con mắt” không ? Có phải ai động tới thì mếu như sò và rưng rưng nước mắt không ? Song ngày nay chúng ta lớn rồi, không còn như vậy nữa. Sao mà được thế ? Tôi nói rằng nhờ có học. Học biết sự lý rồi thì không sợ bậy nữa. Học biết cách làm người rồi thì không nhút nhát nữa.

Phần nhiều đàn bà còn có những cái tánh yếu đuối như ông kể ra đó, là tại không được học. Mà những đàn ông thất học cũng hằng đống người mang lấy cái tánh ấy, chẳng một chi đàn bà.

Chắc ông lại nói bởi Trời sanh cái tánh đàn bà ra như vậy, không thể đổi được. Dầu có vậy đi nữa, cũng phải nhớ rằng đàn bà xưa nay vẫn ở dưới quyền áp chế, vẫn làm đồ chơi cho đàn ông. Bị áp chế thì dưỡng thành cái thói đê hèn, làm đồ chơi thì tập quen cái trò ẻo lả. Tôi thấy đến các bà đầm cũng sợ trùn, sợ rắn mối, thiếu điều ngã lăn ra chết ; cái đó có phải là thiên tánh của họ đâu, chẳng qua họ làm bộ đó thôi.

Tôi tưởng sau khi phụ nữ đã được giải phóng và đã được học rồi thì có thể đổi cái tánh ông chê đó, đặng có theo đòi văn học.

Ông nói : “Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị mình vốn là trượng phu hào kiệt mà lại than thở khóc lóc thì tự làm mất cái vẻ của mình, nên phải ký thác vào một người đàn bà, vì đàn bà than khóc có duyên, dễ khiến cho người ta thấy mà xót thương, tội nghiệp... !

Ông nói câu đó thiệt là vô tâm mà thổ lộ cái tâm sự của bọn đàn ông. Cái tâm sự của đàn ông là khinh miệt đàn bà, hay đổ thừa cho đàn bà, bao nhiêu những điều không tiện đối đáp với người ngoài đều trút lên trên đầu mẹ trẻ hết !

Theo ý trong câu của ông thì bọn Khuất Nguyên không phải là không có chứa những điều đáng than thở khóc lóc ở trong lòng, duy không muốn làm mất cái vẻ trượng phu hào kiệt của mình, nên mượn cái miệng đàn bà để thở than khóc lóc cho người ta thương xót. Nếu quả vậy thì bọn đờn ông ấy vừa đê hèn, vừa giảo quyệt, vừa nhút nhát, cũng một thứ với đám đàn bà trong con mắt ông !

Trước kia ông nói đàn ông mà làm văn hay tất phải có ý khí, có bảo phụ. Song theo ông nói đây thì đàn ông cũng quả có điều đáng thở than khóc lóc ở trong lòng, duy nói ra phải mượn lỗ miệng đàn bà. Như vậy thì cái ý khí ở đâu, cái bảo phụ ở đâu, mà cũng làm được văn hay ?

Trên đó là mấy điều tôi hỏi vặn lại ông. Còn ông trách tôi chỉ lấy văn học Tàu mà khái luận hết thảy, cái đó tôi xin chịu. Hiện nay tôi chỉ biết được quán xuyến về văn học Tàu mà thôi, nên tôi dạn nói cái điều tôi biết. Sau nầy tôi biết rộng thêm nữa, tôi sẽ phô diễn thêm để cho vững cái giả thuyết của tôi.

PHAN KHÔI

Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.6 (6.6.1929)


 

(*)  Bài của Thế Phụng, chúng tôi đưa vào sưu tập này như một phụ lục (NBS).

(*) ý khí : khí khái ; bảo phụ : hoài bão, chí hướng (theo Đào Duy Anh, Sđd.).

(**)  một thú : không biết điều, bất lịch sự, không có ý vị, vô đoan (theo Huình Tịnh Paulus Của: Sđd.)

(*) chú Chệt ( hoặc chú Chiệc) : tên chung người Việt dùng để gọi Hoa Kiều hoặc người Hoa nói chung

(**) đè chừng : định chừng, đề chừng, nhắm chừng (theo Huình Tịnh Paulus Của: Sđd.).

(*)  thương xác : bàn bạc để tìm lẽ phải (theo Đào Duy Anh : Sđd.).

(**)  vị quyết : chưa quyết định, chưa xác định (theo Đào duy Anh : Sđd.).

 

© Copyright Lại Nguyên Ân 2006